BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Năm, 16 tháng 4, 2020

NHÀ THƠ THẾ LỮ VÀ HAI MỐI DUYÊN LÀNH - Tuy Hòa

Nhà thơ Thế Lữ (1907-1989) là một nhân vật lừng lẫy trong đời sống nghệ thuật nước ta. Không chỉ góp phần hình thành thơ mới, ông còn đặt nền móng cho nền sân khấu Việt Nam hiện đại. Và ông cũng là tác giả phần lời ca khúc “Xuân Và Tuổi Trẻ” được hát suốt 75 năm qua. Cuộc đời thành đạt của Thế Lữ, không thể không nhắc đến đóng góp của hai người vợ: bà Nguyễn Thị Khương lớn hơn ông 2 tuổi và bà Song Kim nhỏ hơn ông 6 tuổi.

         
               Nhà thơ Thế Lữ qua nét vẽ của họa sĩ Nguyễn Đình Phúc.

     
       NHÀ THƠ THẾ LỮ VÀ HAI MỐI DUYÊN LÀNH
                                                                                          Tuy Hòa

Thế Lữ, tên thật Nguyễn Thứ Lễ, sinh ra và lớn lên ở Hải Phòng. Năm 1934, ông cùng Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng, Thạch Lam và Tú Mỡ thành lập Tự Lực Văn đoàn. Năm 1935, tập “Mấy vần thơ” của ông xuất hiện, góp phần cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào Thơ Mới. Trong bài thơ “Cây đàn muôn điệu”, Thế Lữ bộc bạch: “Tôi chỉ là một khách tình si/ Ham vẻ Đẹp có muôn hình, muôn thể/ Mượn lấy bút nàng Ly Tao, tôi vẽ/ Và mượn cây đàn ngàn phím, tôi ca”. Và ông thực hiện được ước mơ đời mình: “Tôi muốn làm nhà nghệ sĩ nhiệm mầu. Lấy thanh sắc trần gian làm tài liệu”. Năm 1944, khi cùng đoàn kịch lưu diễn tại Hội An, Thế Lữ tình cờ nghe được một ca khúc của nhạc sĩ La Hối (1920- 1945) với ca từ tiếng Trung của Diệp Truyền Hoa, ông lập tức viết thêm lời Việt: “Ngày thắm tươi bên đời xuân mới/ Lòng đắm say bao nguồn vui sống/ Xuân về với ngàn hoa tươi thắm/ Ta muốn hái muôn ngàn đóa hồng…”. Đến hôm nay, ca khúc “Xuân và tuổi trẻ” với ca từ của Thế Lữ đã trở thành bài hát kinh điển không thể thiếu mỗi dịp sum vầy đón Tết của người Việt.

Bước vào giai đoạn thanh niên, chàng trai Nguyễn Thứ Lễ thường xuyên đau ốm, nên nhiều người khuyên nên sớm cưới vợ. Dân gian vẫn quen gọi tập quán ấy là “xung hỷ”. Con dâu út của Thế Lữ là bà Phạm Thảo Nguyên chia sẻ: “Khi bố được 17 tuổi, bà nội về một làng đạo ở Hà Nam, đi xem mặt các cô gái trong làng, bà chọn mẹ chồng tôi, một cô gái hiền lành ngoan đạo 19 tuổi cho con trai của bà. Mẹ chúng tôi kể lại là trước đó, có nhiều người đến dạm hỏi mẹ, nhưng cứ có người đến hỏi, là mẹ ốm rất nặng, chỉ khi bà Lang đến hỏi cho bố thì không ốm, nên gia đình bằng lòng gả. Cưới con dâu về, theo tục lệ, bà nội truyền nghề “bà lang” cho. Vì vậy, mẹ vừa phải đi chợ lo cơm nước cho toàn gia đình, nuôi con nhỏ, cho con bú, vừa phải làm thuốc để bán, vừa đi khám bệnh cho thuốc khi có khách mời (cũng có lúc, có thêm người giúp việc). Vì vậy mẹ học được tính làm việc rất sạch sẽ, kỹ lưỡng, cẩn trọng khi nuôi trẻ, và làm cơm nước khéo léo, tinh khiết. Và cũng vì đi chữa bệnh thường, mẹ có chút tiền dư để riêng, không phải để tiêu cho mình, mà để bù tiền chợ cho bà hài lòng”.

Bà Nguyễn Thị Khương sinh hạ cho nhà thơ Thế Lữ cả thảy 4 người con, 3 trai 1 gái. Bà chấp nhận ở nhà thay chồng chăm sóc mẹ già và nuôi dạy con thơ, để Thế Lữ được thỏa sức phô diễn tài nghệ trên Hà Nội. Vài tháng, Thế Lữ mới về nhà dăm bữa, rồi lại đi theo tiếng gọi văn chương và sân khấu. Bà Nguyễn Thị Khương không biết viết, nhưng biết đọc. Mỗi lá thư của chồng gửi về, đều được bà cất giữ rất kỹ, để lâu lâu đem ra đọc lại cho bớt nỗi ngóng trông và thương nhớ.

Tuy lãng đãng gió trăng, nhưng nhà thơ Thế Lữ cũng cảm nhận được những vất vả mà vợ mình phải chịu đựng khi sống với mẹ chồng khó tính. Ông giải thích cho vợ hiểu rằng, do tình duyên của mẹ gặp nhiều trắc trở nên việc hành hạ con dâu cũng vì những uất ức không thể giãi bày với ai. Để cải thiện quan hệ mẹ chồng – nàng dâu, Thế Lữ viết một truyện ngắn mổ xẻ vướng mắc ấy và giả vờ là tác phẩm của người khác, rồi đọc cho mẹ nghe. Thế Lữ có ngờ đâu bà lang rất tinh ý, nghe chừng mấy đoạn đã cầm lấy cái tráp đựng trầu dằn mạnh xuống phản một cái rầm: “À, thế ra anh lại muốn dạy tôi đấy!”. Thế Lữ sợ mẹ giận, vội vàng chạy ngược lên Hà Nội. Còn lại bao nhiêu tai tương tiếp tục do bà Nguyễn Thị Khương gánh hết.

Những ngày lang thang dựng kịch, Thế Lữ đã gặp một người con gái Hà Nội đam mê sân khấu là Phạm Thị Nghĩa. Gia đình không chấp nhận “xướng ca vô loài”, nên Phạm Thị Nghĩa chỉ mon men đến gần sàn diễn bằng tư cách một người bán vé từ thiện. Với con mắt nhà nghề, Thế Lữ nhận ra Phạm Thị Nghĩa có tài diễn viên. Vì vậy, khi đưa kịch bản “Gái không chồng” của Đoàn Phú Tứ lên sân khấu tại Hải Phòng, Thế Lữ đã cho người lên Hà Nội mời Phạm Thị Nghĩa vào vai cô Mão. Dù diễn ở Hải Phòng, nhưng Phạm Thị Nghĩa vẫn sợ người thân phát hiện, nên đánh liều lấy nghệ danh Song Kim. Phút giây bất ngờ ấy, đã giúp nền kịch nghệ Việt Nam sau này có được một Nghệ sĩ Nhân dân Song Kim.

             Bà Nguyễn Thị Khương và các con Nguyễn Quỳnh Trâm, Nguyễn Thế Học, 
             Nguyễn Thế Tùng vào năm 1960.

Năm 1938, Thế Lữ đám cưới với Song Kim. Không ai phủ nhận họ là cặp rất đẹp đôi trong giới nghệ sĩ, nhưng nỗi buồn lại trút sang cho người vợ đầu vẫn lặng lẽ ở đất cảng. Dù xã hội thời đó vẫn xem đa thê là chuyện bình thường, nhưng bà Nguyễn Thị Khương vẫn không khỏi bẽ bàng. Tuy nhiên, bà luôn tìm cách che đậy niềm riêng ê chề kia. Bà dùng những câu chuyện nhẹ nhàng để giúp các con gìn giữ hình ảnh tốt đẹp của người cha nổi tiếng. Bà kể: “Hồi trẻ, bố hay nóng giận. Những khi giận, bố chỉ nện giầy nặng thêm lên thôi. Mẹ nghe tiếng giầy là biết ngay, tránh không nói gì hết cho đến khi cơn giận của bố tan đi”. Và bà kể: “Các con đã biết chuyện mẹ là người sung sướng nhất đời chưa? Có một lần, mẹ đi tàu hỏa, có nói chuyện với một người chung toa. Khi biết mẹ là vợ ông Thế Lữ, người đó nói: “Giời ơi! Thật thế à? Chị thật sung sướng quá, chị là người sung sướng nhất đời!”.

Năm 1954, nhà thơ Thế Lữ đưa con trai đầu lòng là đạo diễn Nguyễn Đình Nghi (1928-2001) đi kháng chiến, còn bà Nguyễn Thị Khương đưa 3 đứa con Nguyễn Quỳnh Trâm, Nguyễn Thế Học, Nguyễn Thế Tùng vào Nam. Vậy là cách chia ngàn trùng. Không có con chung với nhà thơ Thế Lữ, nên Nghệ sĩ Nhân dân Song Kim nuôi nấng đạo diễn Nguyễn Đình Nghi như con ruột. Trong một lá thư gửi cho các em mình, đạo diễn Nguyễn Đình Nghi phân tích chuyện ba người Thế Lữ – Nguyễn Thị Khương và Song Kim rất thấu tình đạt lý: “Công bằng mà nói, bố sống xa gia đình rất lâu và bố rất nổi tiếng. Hồi đó nhiều mệnh phụ đẹp như bà hoàng của Hà Nội, cũng rất mê bố. Cho nên, không có người này thì có người khác đến với bố thôi. Bố đã gặp được bà Song Kim là người cùng chí hướng, cùng bố xây dựng, thực hiện những đam mê nghệ thuật. Hơn nữa bố có được một gia đình an ổn, hạnh phúc để làm việc trong rất nhiều năm. Nhất là trong những năm đất nước chia cắt, có người săn sóc tinh thần cũng như vật chất cho bố, thật là đáng quý. Chúng mình phải kính trọng và cám ơn bà Song Kim. Vả lại, đây là một chuyện đã được xã hội ngoài Bắc trong bao nhiêu năm nay công nhận, mình nên tôn trọng việc đó. Họ hàng làng nước, ai nói gì cũng mặc họ…”.

Dù từng bồng bềnh “Tôi là người bộ hành phiêu lãng. Đường trần gian xuôi ngược để vui chơi”, nhưng Thế Lữ vẫn dành sự quan tâm cho vợ con. Sau khi đất nước thống nhất, nhà thơ Thế Lữ đã thương thảo với Nghệ sĩ Nhân dân Song Kim để dọn vào Sài Gòn sống chung với bà Nguyễn Thị Khương. Ở căn nhà trên đường Nguyễn Đình Chiểu (quận 3, TP.HCM), nhà thơ Thế Lữ có 12 năm đoàn tụ với bà Nguyễn Thị Khương, từ 1977 đến khi qua đời vào ngày 3/6/1989. Cũng chính ở căn nhà ấy, bà Nguyễn Thị Khương từng bỏ ra hơn 20 năm lầm lũi thay chồng nuôi hai con trai Nguyễn Thế Học và Nguyễn Thế Tùng đều có được học vị Tiến sĩ, riêng con gái Nguyễn Quỳnh Trâm trở thành một doanh nhân. Hình ảnh bà Nguyễn Thị Khương được chính con dâu út Phạm Thảo Nguyên cảm nhận: “Mẹ có dáng người tầm thước, vấn khăn vải, ăn trầu và còn răng đen. Mẹ là người cổ kính, ăn nói nhỏ nhẹ, không to tiếng bao giờ. Mẹ rất hiền và nghe theo ý của các con. Mẹ chăm lo cho các con, dù đã lớn, từng miếng ăn, giấc ngủ. Chưa bao giờ tôi thấy mẹ khóc, ngay cả khi tiễn con cháu đi xa không biết bao giờ trở lại. Mẹ nói mẹ không còn nước mắt”.
                                                                        Tuy Hòa
                                                 Tuần Báo Văn Nghệ TP.HCM số 579

Nguồn:
http://tuanbaovannghetphcm.vn/nha-tho-the-lu-va-hai-moi-duyen-lanh-so-579/


1 nhận xét:

Trang thơ Đỗ Trọng Tầu nói...

Người không còn nước mắt là người đau khổ nhất, đến nỗi đã thành chai sạn. Nước mắt của họ không chảy ra ngoài, mà chảy vào trong.Bà không được như bà Hồ Xuân Hương dám lên tiếng phản kháng:" Chém cha cái kiếp lấy chồng chung! kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng...", mà âm thầm chịu đựng. Một sự cam chịu đặc trưng của người theo đạo Nho, không dám phản kháng!