BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Năm, 23 tháng 4, 2020

CHUYẾN TÀU XUÔI NAM - Đinh Hoa Lư


               
                                           Tác giả Đinh Hoa Lư


                 CHUYẾN TÀU XUÔI NAM
                  (Trích hồi ký Ra Trại của Đinh Hoa Lư)

Đây trời bao la ánh nắng mai hé đầu ghềnh lan dần tới đồng xanh.
Ta cùng chen vai đem tay góp sức tăng gia cho người người vui hoà.
                                                                      (Nắng Đẹp Miền Nam)

Những toa tàu người đông như “nêm cối”. Tôi chạy tới rồi lại chạy lui, hốt hoảng cố làm sao để tìm một chỗ trống đu lên? Hú hồn! cuối cùng tôi cũng đeo lên được một toa gần cuối, nhét thân mình vào trong.

Tôi thở phào; thế là đã lọt vào chuyến tàu chợ từ ngoài kia vào. Một chuyến tàu chợ xuôi nam có một mình tôi, tự do, do đây là lúc tôi được cái “Lệnh Tha” hai chữ có trong tấm giấy tùy thân quý báu độc nhất trong người.

Bên trong, tuy có hai dãy ghế dài hai bên nhưng còn thấy được, giờ đây chỉ là một đống người bẹp dí với nhau. Hành khách lên sau dĩ nhiên là phải bị dồn ép với nhau ở giữa. Những cái đầu ngẩng lên mong cầu một khoảng không khí để khỏi chết ngạt. Toa tàu chật đến nỗi, người ngồi trên vai, thậm chí ngay cả 'trên đầu' người khác, khi một tay giữ túi đồ còn tay kia họ cố níu lên cái móc đu hay cái giá ngang cho hành lý.

Tàu bắt đầu chạy.

Còi tàu kêu lên, tiếng súp lê bên ngoài báo hiệu. Mấy cái toa lắc mình rùng rùng đầu chậm sau nhanh dần. Phía trong quá chật chội khó cho tôi nhìn ra được bên ngoài. Cảm giác bấy giờ của tôi ra sao? có thể nhiều lắm. Nỗi mừng về với gia đình qua bao năm nhung nhớ. Nhưng trong tôi vẫn nhiều cảm giác bâng khuâng nhớ mẹ đích và em gái tôi còn ở lại bên chợ Tây Lộc, bạn bè bà con ngoài Quảng Trị mới và Đông Hà mới. Một quê hương bỏ lại, những trại tù kế tục nhau... những buổi đi rừng, những thân gỗ lim cứng 'hơn thép' ngoài rừng Huyện Như Xuân, Thanh Hoá, mấy trảng rừng sim chín trung du Ái Tử, tiếp đến hình ảnh bao bụi mây nước rậm rịt đầy gai của rừng núi Bình Điền... tất cả lướt quá trong đầu tôi y như một giấc mộng dài.

Thế là tôi thực sự giã từ Huế, rời xa cái ga bán vé tàu quá nhiều xúc động. Mới hôm qua và rạng sáng nay thôi; những âm thanh chen lấn, la hét như còn tồn tại: tiếng chói tai nhọn hoắc như cứ réo mãi trong đầu tôi... từng lớp người bị xô dạt về sau... một mái tóc rũ rượi, cái đầu gục xuống của người thanh niên bị xỉu khi giành mua vé tàu.
Tàu hỏa ngày xưa phun khói đen sì giờ không còn. Những cái đầu máy diesel cũ kỹ thế vào cho những con tàu chợ. Tàu ngang Phú Lương hay Phú Bài gì đó? tôi đoán vậy. Tay tôi mỏi nhừ vì phải níu, cái lưng còn đeo cái ba lô may mà chẳng có gì. Tôi cố gắng để phải ngồi lên đầu một người đang ngồi bệt giữa sàn tàu.

Tuy toa đông người nhưng không ngăn được chuyện người di chuyển từ toa này sang toa khác.  Tiếng la phản ứng rồi lại tiếng xin xỏ, phân bua, rồi tiếng cằn nhằn của bà lão bị đạp lên chân, tiếng ho rũ rượi của anh thanh niên ngồi gần cửa sổ...
Thỉnh thoảng tôi thấy được vài đám ruộng, vài cột điện thoại trôi nhanh về sau. Con tàu thỉnh thoảng lắc mạnh, khi nghiêng bên này, rồi nghiêng bên kia làm tôi có phần hồi hộp.



Lần cuối cùng tôi đi tàu tức là năm 1977. Năm đó tôi từ Đô Lương, Nghệ An và có lên tàu hỏa để ra Thanh Hoá. Công việc của mấy trăm người tù từ Ái Tử ra là tiếp tục chặt hạ san bằng một rừng lim làm nên Lòng Hồ Sông Mực huyện Như Xuân. Giờ là chuyến tàu xuôi Nam, tràn đầy niềm vui, chuyến tàu cho tôi về với gia đình bên những người thương nhớ.

Hình như con Tàu đang đến ga Truồi. Ngày kia tôi từ Tây Lộc có về thăm lại Truồi. Làng nội tôi giờ chẳng còn ai. Chú tôi còn tù trên Bình Điền. Ông bà nội tôi đã mất. Anh em xao lạc, người còn ‘cải tạo’ kẻ đi kinh tế mới Nam Đông. Thím tôi, trong bữa ăn không quên món bột lọc quậy độn thêm trong mâm cơm. Chú tôi xa nhà đã năm năm chưa về. Trong làng không biết làm gì ăn. Con cháu lớp quá nhỏ, lớp thì đàn bà con gái? Ngày xưa còn có đồng luơng chú tôi chu cấp, giờ thì?


Ra khỏi trại, mới Huế, Truồi, Quảng Trị, người thân bạn bè, cảnh sinh hoạt của người dân mình. Tất cả cộng lại cho tôi cảm giác hụt hẫng, buồn vô hạn. Một xã hội trước mắt tôi như chới với sắp rơi tòm xuống một vực thẳm to lớn, đen ngòm. Sự chia xa của những người tôi không còn thấy mặt. Cảm giác bơ vơ lạ lùng, tôi như bị vứt vào một cõi hoang mộng, vu vơ nào?

Giờ tôi không có khả năng nào để nhìn ra được khung cửa sổ để xem con tàu có thật qua cầu Truồi chưa?  Nếu ngồi xe thoải mái, khi qua cầu Truồi nhìn theo con nước chếch về dưới kia bên bờ sông lấp ló tàn phượng vĩ đỏ ối, sà cành soi bóng nước sông. Nơi đó là bến đò thôn Xuân Lai, gần nhà Nội.

Tôi đang lo lắng cho vấn đề vé phạt ra sao? giờ thì mấy người soát vé chắc gần tới. Họ đi toa này xuống toa khác không ai thoát được.
Lần đầu tiên trong đời tôi sắp gặp trường hợp vé phạt trên tàu. Phạt ra sao? vé phạt là gì? tôi thật tình chưa hề biết. Khi xưa còn nhỏ, tôi theo ba tôi vào ga Quảng Trị mua vé tàu đi Truồi hay đâu đó tôi không còn nhớ. Ngoại trừ tôi vẫn nhớ hình ảnh cái vé tàu nho nhỏ sẽ bị người soát vé lần lượt bấm 'cái lỗ' tròn trên đó. Hơn nữa, chuyến tàu tôi đang đi hiện giờ đang hoạt động trong một xã hội mà tôi có cảm giác ban sơ y như trong một “thế giới khác lạ” mà người chiến thắng 'lạ hoắc' đối với tôi.

Thỉnh thoảng tôi nghe có nghe tiếng còi tàu. Không còn là tiếng hú dài 'lê thê' từ cái đầu máy đen sì đốt bằng than, phun khói từng bụm đậm đặc lên trời ngày xưa. Tiếng còi tàu dầu kêu rất khác, nghe toang toác, rất ngắn rồi im.
Có tiếng người xao xác phía trước. Sự im lặng đột ngột của một toa người đang láo nháo, ồn ào là cả một sự khác thường? Tiếng người nói phía đó cách tôi không xa:
- Họ soát vé! họ soát vé !



“Cái gì phải đến sẽ đến” thôi. Thật tình tôi không nghĩ đến chuyện ‘phạt tiền’ mà lo vớ vẫn họ sẽ đuổi tôi xuống giữa đường chăng? Mấy người có vé thì mau hơn. Riêng những người không vé thì bị hạch hỏi đi đâu ? xuống đâu? tiếng trả lời ấp úng...
- Anh kia vé đâu?
Người soát vé khá già, cái mũ cối trên đầu ông ta đã đổi màu bạc phếch. Tôi đã trù liệu, liền đưa ngay cái giấy ra trại mang hai chữ lớn “LỆNH THA” ngay cho ông ta và trình bày hoàn cảnh. Tôi thấy ông ta ngạc nhiên khi tôi kêu ông ta là "cán bộ'. Nhưng cái vẻ ngạc nhiên đó ông dấu đi rất nhanh.
- Sao anh không mua vé tàu, có Lệnh Tha này cũng ưu tiên cho anh mà, cách mạng ta khi nào cũng khoan hồng và nhân đạo anh biết không?
Tôi tả lại chuyện chen nhau mua vé vào rạng sáng, và “kể lể ỉ ôi” với ông ta rằng cũng tới sớm lắm, trong loạt những người đầu tiên tới đợi tại ga. Nhưng không thể 'manh động' (một từ tôi mới biết từ trong trại) với bà con cô bác nên bị dạt lui sau. Tôi dấu chuyện anh thanh niên bị xỉu vì sợ rằng biết đâu ông ta cho tôi “nói xấu Cách Mạng” cũng nên?
Giọng ông ta bất ngờ “dịu lại”
- Tàu này tới ga cuối cùng là Nha Trang không đi đến Bình Tuy đâu nhé.
Tôi chỉ mong có thế, Nha Trang hay đâu cũng được miễn là càng vô Nam được chặng nào hay chặng đó. Tôi lại càng mừng hơn khi ông ta lấy phạt chỉ 'năm chục' đồng. Số tiền khá lớn, nhưng tôi còn lại trên hai trăm làm sao không về Nam được.
Người soát vé đi rồi, giọng nói Thanh Hoá của ông ta tôi nghe và đoán được do trong tù tôi từng có một cán bộ “quản giáo” người Thanh Hoá. Trong tôi tự nhiên dâng lên cảm giác yêu đời. Không khí hết ngột ngạt. Quanh tôi, giờ đây mọi thứ đều đáng yêu cùng gần gũi.



Con tàu tự nhiên chuyển động rùng rục, chậm, nặng nề. Thì ra giờ này nó đang men theo biển bắt đầu tới chân đèo Hải Vân. Thỉnh thoảng khung cửa sổ hơi hé ra. Tôi thấy rõ ràng đã tới xóm Lăng Cô, kỷ niệm tình yêu đầu tiên của ba mạ tôi lúc tôi chưa có hay bắt đầu có trên đời. Vẫn viền cát trắng muôn thưở đó.
Những ngọn sóng bạc đầu đánh vào chân núi Hải Vân. Tàu chạy hơi dốc, trước nó là những cái hầm tàu đen ngòm đang đợi.

                                                                                      Đinh Hoa Lư

Không có nhận xét nào: