BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Năm, 16 tháng 4, 2020

TRỌNG THUỶ, MỴ CHÂU: GÓC NHÌN SỬ HỌC VÀ VĂN HỌC, CHÍNH SỬ VÀ DÃ SỬ - Lê Nghị


               
                               Tác giả Lê Nghị
                                                

1.   Đặt vấn đề:

Có bạn hỏi tôi vì sao đưa nhiều truyền thuyết huyền thoại vào Sử Việt Cho Cháu nhưng không thấy đưa truyện Trọng Thủy - Mỵ Châu?
Xin trả lời tóm tắt: cần phân biệt huyền thoại, chính sử và dã sử.
Huyền thoại lịch sử là tái tạo hình ảnh thời chưa có sử. Dã sử là phóng tác chính sử, là tác phẩm văn học. Truyền thuyết Thần Kim Quy có yếu tố lịch sử: cải tiến thành trì và vũ khí trong lịch sử dân tộc nên đưa vào bài sử. Riêng nội dung Trọng Thủy Mỵ - Châu thuộc về dã sử nên không đưa vào bài sử.

Trong hơn nửa thế kỷ gần đây, sách văn học cũng như sử học đưa truyền thuyết Trọng Thuỷ - Mỵ Châu vốn gắn vào truyện Thần Kim Quy, nhiều người xem như là chính sử, là một bài học cảnh giác về lộ bí mật quốc gia. Điển hình là những câu thơ của Tố Hữu:

Tôi kể ngày xưa truyện Mỵ Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu
Nỏ thần trót lỡ trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm bể sâu.

Theo quan điểm đó thì dẫn tới kết tội Trọng Thủy là gián điệp ngoại bang và Mỵ Châu lụy tình mà phản bội quốc gia. Vì vậy truyện Trọng Thuỷ- Mỵ Châu là một kết thúc không có hậu, xem cái chết của Mỵ Châu là bị đền tội trước lịch sử.

Việc đưa nội dung dã sử, một tác phẩm văn học dân gian như một bài học lịch sử sẽ dẫn đến sự kiện thiếu trung thực và làm lệch ý nghĩa chính của truyền thuyết dân gian. Ta tự đặt câu hỏi: Liệu người xưa có dùng truyện Trọng Thủy - Mỵ Châu để dạy đời sau bài học mất cảnh giác như cách hiểu hiện nay không? Hay là vì mục đích khác

2.   Xuất xứ truyền thuyết và bối cảnh lịch sử.

Khi phân tích một tác phẩm trước tiên là đề cập đến xuất xứ. Từ xuất xứ ta mới tìm hiểu bối cảnh. Trọng Thủy-Mỵ Châu gắn liền với truyện thần Kim Quy là một truyền thuyết có nhiều dị bản, một giai thoại trước đời Trần, dựa trên bối cảnh lịch sử trước đó 900 năm. Truyện truyền miệng từ đời nào không biết, được ghi chép lần đầu trong tuyển tập huyền thoại và giai thoại: Lĩnh Nam Chích Quái đầu đời Trần. Nội dung câu truyện trong sách đó được ghi lại trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đời Lê, có dẫn nguồn từ Đại Việt Sử Ký đời Trần. Ngày nay xác định truyện ra đời trước sử nhà Trần. Do đó, đừng hiểu nhầm cái gì sách sử ghi lại đều là chính sử. Thường khi mở đầu bao giờ cũng có hai chữ: tương truyền....

Sau khi chép lại tư liệu từ Đại Việt Sử Ký, sử thần Ngô Sĩ Liên đời Lê cũng chú thích thêm truyện Rùa Vàng, chẳng qua là cách giải thích của dân gian về lý do An Dương Vương mất nước.

Xét về mặt lịch sử, ta thấy rằng quan điểm của người viết sử từ nhà Trần đến gần cuối nhà Nguyễn xem nhà Triệu là triều chính thống, yêu nước của người Việt. Triệu Đà là vị vua anh minh của người Việt. Vì vậy xem việc sáp nhập Văn Lang, đổi tên là Âu Lạc, của An Dương Vương cũng tương tự sáp nhập Âu Lạc vào Nam Việt không phải là chiến tranh giữa hai nước mà chỉ là xung đột nội bộ của người Việt. Đó là một cách nhìn xuyên suốt không mâu thuẫn như khi chọn Thục Phán mà lại loại Triệu Đà. Bởi loại nhà Triệu mới kết tội Mỵ Châu bán nước.

Hai giai đoạn sáp nhập trên theo ngày tháng ghi trong sử chỉ diễn ra trong vòng 20 năm. Được xem là quá trình liên minh đi đến thống nhất toàn xứ Bách Việt đứng trước tham vọng của nhà Hán. Nhờ đó xứ Bách Việt giữ được độc lập thêm 96 năm, kể từ lúc sáp nhập Âu Lạc vào Nam Việt. Bằng chứng ấy không thể chối cãi.

Ta cũng thấy rằng kết thúc mỗi lần sáp nhập, chính sử không ghi chép An Dương Vương giết vua Hùng, nhà Triệu giết An Dương Vương. Vậy hai người đó ra sao? Dân gian giải thích vua Hùng nhảy giếng tự vẫn, An Dương Vương biệt tích. Sử chỉ ghi lại giả thiết ấy thôi.

Sử cũng không ghi nhận một sự kiện nào quân tướng, cũng như con cháu đời trước hoạt động kháng chiến, như thông lệ từ trước đến nay khi bị cướp nước. Như vậy ngầm chứng minh việc sáp nhập là thuận đại đa số nhân tâm. Hoàn toàn khác với nhà Tần xâm lược, Bách Việt kháng chiến 10 năm thắng lợi; Đông Hán xâm lược, Nam Việt kháng chiến từ Quảng Đông đến Quảng Tây, sông Lô gần 1 năm.

Thêm vào đó, nếu so với sử Ký Tư Mã Thiên, ĐVSKTT đã quy nhầm năm sự kiện Triệu Đà chiếm Cổ Loa năm 208 TCN. Thực ra năm 208 Triệu Đà 31 tuổi, làm gì có con lớn mà gửi rể ?!? Năm đó Triệu Đà theo lệnh Nhâm Ngao đánh vào Quảng Tây. Trước đó 6 năm, tức năm 214 TCN, Thục Phán đã thắng đạo quân 300.000 và giết chủ tướng Đồ Thư nhà Tần.Thục Phán năm ấy tuổi thanh niên, còn là trang tuấn kiệt, quân lực Thục Phán hùng hậu. Tướng tiên phong của Triệu Đà bị thua và chết cùng 3000 quân. Triệu Đà e ngại rút quân.

29 năm sau sự kiện chạm trán trên, Thục Phán đã kế tục vua Hùng trong quốc hiệu Âu Lạc 18 năm, và đã chọn Trọng Thủy làm rể, mới diễn ra sự kiện sáp nhập Âu Lạc vào năm 179 TCN . Do trong nhiều năm chưa so lại chính sử nhà Hán, dựa vào nhiều thêu dệt sách Trung Hoa soạn sau đó 500 năm, ta hiểu nhầm Triệu Đà nhiều đợt tấn công thành Cổ Loa. Triệu Đà sinh năm 239 TCN, năm 179 TCN ông đã 60 tuổi, con đầu Trọng Thủy ít nhất cũng 35. Suy ra Trọng Thủy nếu kết hôn đầu cũng đã 10 năm trước khi sáp nhập. Âu Lạc tồn tại 18 năm, có khi Trọng Thủy cũng từng có mặt khi xây thành Cổ Loa.

3. Dã sử và ý nghĩa truyện Trọng Thủy - Mỵ Châu

Dễ thấy các tình tiết hư cấu trong truyện Thần Kim Quy. Ngoài chuyện quỷ Bạch Kê phá đám việc xây thành và Rùa biết nói đã rõ là thêm thắt. Chi tiết xem trộm nỏ thần, Trọng Thủy dặn Mỵ Châu nếu có biến giữa 2 bên thì rải lông ngỗng làm dấu, chuyện ấy chỉ vợ chồng biết. Giả định An Dương Vương khi tới đường cùng trước khi giết con gái yêu cũng phải hỏi vì sao quân Triệu biết đường đuổi theo? Ắt Mỵ Châu phải kể lể dài dòng nguyên nhân. Nhưng trong truyện chỉ nghe Rùa Vàng hiện ra bảo: “Giặc ngồi sau lưng, vua quay lại không có ai khác, liền hiểu ra, chém đầu Mỵ Châu, sau đó cầm sừng tê rẽ nước xuống biển”. Chỉ có vua biết toàn bộ câu truyện, mà vua biệt tích, Trọng Thủy đến thì Mỵ Châu đã chết, lấy ai kể lại những tình tiết cuối cùng đó?


Do vậy, toàn truyện vốn hư cấu, thêu dệt trên nền lịch sử. Kết cấu truyện Trọng Thủy - Mỵ Châu được lặp lại thời Lý Phật Tử - Triệu Quang Phục: Lý Nhã Lang và Triệu nương, Triệu Quang Phục thua do con rể tráo cái mũ móng rồng hộ thân?!? Sử gia Ngô Sĩ Liên cũng nhấn mạnh cả hai câu truyện chỉ là dã sử. Ngày nay ta thấy rất nhiều truyện cổ tích trên thế giới nói về những mối tình oan trái trong bối cảnh hai thế lực tranh giành chi tiết tương tự, chỉ khác ông thần, bà tiên; khác vũ khí, quyền phép gì đó mất linh.

Nếu lưu ý một chút tên nhân vật cũng không thật. Các công chúa thời Hùng Vương đến Thục gọi là Mỵ nương chung chung như trong các giai thoại về Trương Chi - Mỵ nương; Truyện Sơn Tinh - Thủy Tinh... Cùng lắm không biết tên cúng cơm thì gọi Thục nương, Thục công chúa. Nhưng ở đây tên cụ thể là Châu. Có liên quan gì đến ngọc trai sau này? Phải chăng vì Trọng Thủy tên nhân vật thật, trùng nghĩa “nặng tình đầu”, đồng thời trùng với nghĩa “nước” nên sinh ra hư cấu nhảy giếng nước tự vẫn cho vẹn tình?

Có liên quan gì đến chi tiết lấy Thủy (nước) rửa Châu thì Châu toả sáng? Phải chăng tên Châu là đặt theo tên Thuỷ? Từ xuất xứ, sử sách nêu trên đã xếp câu truyện vào tác phẩm văn học dã sử dân gian. Các chi tiết hư cấu dẫn thêm trên cho thấy không có vai trò của Trọng Thuỷ - Mỵ Châu tác động vào biến đổi lịch sử. Khác với hôn nhân Cù Thị và Triệu Minh Vương, điển hình là chuyện gián điệp. Vì vậy người Việt không ai thờ kính. Nhưng Trọng Thủy - Mỵ Châu lại được thờ. Không dân tộc nào lại thờ kính gián điệp và kẻ bán nước. Đương nhiên những người xây dựng truyện Trọng Thủy và Mỵ Châu không nhằm mục đích chỉ ra bài học cảnh giác.

Với góc nhìn văn học thì đây là một truyện tình đẹp trong hoàn cảnh nghiệt ngã giữa các mưu đồ xung đột chính trị. Suy rộng ra mọi cuộc nội chiến đều đem lại tang tóc, oan khuất cho người dân hai phía. Phải chăng đó là ý nghĩa trước tiên mà tiền nhân muốn nhắc nhở hậu thế? Tiếp đến là bài học muôn thuở của nhân loại: dù trong hoàn cảnh nào thì tình yêu thật lòng, chung thủy cũng là điều được nhân gian tôn trọng. Câu truyện không nhằm tính trung thực nhưng mang tính dân tộc và nhân văn là ở hai điểm ấy.

Nếu tiền nhân xem đó là truyện một chiều: xâm lược, cài gián điệp, một bài học cảnh giác thì đã không có thêm tình tiết: trai biển nhiễm máu trung trinh kết thành châu ngọc, nước giếng nhiễm hồn chung thủy thêm toả sáng tình yêu.


Xét về mặt văn học thì truyện Trọng Thủy - Mỵ Châu là một kiệt tác trong kho tàng truyện ngắn dân gian. Kết cấu của truyện hấp dẫn, xen vào các tình tiết không thật mà cảm giác lại rất thật, dữ kiện lịch sử đan xen với trí tưởng tượng làm người nghe lần đầu ắt phải hồi hộp cho số phận nhân vật. Kết thúc rất kịch tính, về hình thức không có hậu, nhân vật đều chết thảm. Nhưng nội dung thì rất hậu: Tình yêu chân chính luôn tỏa sáng. Sự sáng tạo vượt qua các truyện dân gian khác là chỗ ấy.

                       Bức tượng đá hình người cụt đầu tại am thờ công chúa Mỵ Châu 
                       (Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội)

Tiền nhân có trân trọng mối tình đó mới lập miếu thờ cả hai người. Ngay cả am thờ, tượng cụt đầu, giếng ngọc cũng mang tính biểu trưng. Mỵ Châu không nhất thiết phải mất đầu mới chết. Nó chỉ muốn tải một thông điệp tình yêu không phải xuất phát ở cái đầu mà từ quả tim. Một trái tim chia 3 phần tươi đỏ ắt trong thế gian này chỉ có một. Trời sinh trái tim chỉ có hai phần chính: phải và trái. Trừu tượng hoá cao lắm là bên hiếu bên tình. Nếu hỏi ai đó khi có mâu thuẫn giữa hiếu và tình thì chọn bên nào? Chắc phần đông, kể cả tôi trả lời chọn hiếu là phải. Nhưng hỡi ôi sự thật thì phần lớn của quả tim lại nằm bên trái! Nên giả định thì chọn phải, nhưng có thật thì chọn điều trái lý: tình!

Trọng Thuỷ hư cấu phải nhảy giếng tự vẫn. Chẳng qua cái tên ông đã hàm ý nặng nghĩa trước sau. Tên cũng trùng nghĩa chất nước, đã nói trên. Nếu hư cấu ông chết kiểu nào đó trên cạn, thì khó liên kết làm cho châu được tỏa sáng.

Ngày nay ta thấy phim, truyện thường diễn đạt thực trạng hôn nhân. Từ trước hôn nhân đến khi ly dị là sự so đo, cân nhắc tranh chấp về tài sản. Là âm mưu và cảnh giác chiếm đoạt công ty, cách giữ riêng tài sản. Hôn nhân dựa vào cái đầu chứ không phải quả tim. Do đó hiếu tình không quan trọng nữa, quan trọng là tiền! Quả thật có gì đó đi ngược với đạo lý truyền thống. Phải chăng bắt đầu từ giáo dục những bài học tưởng như nhỏ nhặt.

Dạy sử cho trẻ em trước hết là dạy lòng yêu nước, yêu dân tộc. Nhưng cần phân biệt chính sử và dã sử. Chúng ta không thể để trẻ em có ấn tượng Truyện Rồng Tiên là phản khoa học: rồng lấy tiên sao đẻ ra trứng, người sao lại từ trứng nở ra? Truyện Thánh Gióng làm gì có đứa trẻ nào ăn liên tục các nồi cơm to mà thành tướng? Truyện Rùa Vàng gieo thắc mắc: không lẽ nếu không có Rùa Vàng thì dân tộc ta không biết cách xây thành, làm ra vũ khí ? Thật là buồn khi tôi đọc trên mạng, rất nhiều người lớn hiểu truyền thuyết mà hiểu theo nghĩa đen. Họ chế diễu cười cợt, xem truyền thuyết Lạc Long Quân- Âu Cơ, về nguồn gốc dân tộc Việt là chuyện hoang đường. Đầu óc các vị đó ám ảnh một điều duy nhất theo ghi chép của người Hoa rằng tổ tiên người Việt từ Tàu qua, điều mà ngày nay khoa học đã bác bỏ.

Họ cũng nghĩ rằng tiền nhân rất ngây ngô, tưởng tượng chuyện không khoa học. Họ quên một điều chỉ những đầu óc thông minh, biết suy luận mới thêu dệt nên huyền thoại hấp dẫn nhớ lâu.
Tôi biết nhiều người mở miệng ra là nói đến khoa học, thực chất là những người kém kiến thức, mới học vài bài vỡ lòng về duy vật sử quan xưng mình là người có đầu óc khoa học. Bên cạnh đó họ không quan tâm đến chuyện không thu được tiền. Những người đó lại có hành vi mê tín, bói toán, bái lễ đình chùa, cầu xin, cúng tạ thần thánh bậc nhất.

Người lớn cần chỉ ra yếu tố ngụ ngôn trong từng truyền thuyết và giai thoại dân gian Việt. Mỗi truyện chuyển tải một thế giới quan và nhân sinh quan ca ngợi phẩm chất nào đó của người Việt, hoặc bài bác một hiện tượng nào đó có hại cho nhân sinh...

Cũng như truyện Sơn Tinh - Thủy Tinh, Trọng Thủy - Mỵ Châu không thuộc chính sử. Đó là một truyện dân gian thể hiện nhân sinh quan của người Việt. Câu truyện mà đặt tên “tinh” chứ không phải thánh, thần, tiên là hàm nghĩa chuyện xấu, chê bai việc giành gái, giành của cải... mang họa đến loài người. Câu truyện mà có trọng tình, châu ngọc là chuyện tốt nên theo: Tình yêu chân chính dù bị dập vùi oan nghiệt vẫn luôn tỏa sáng. Ít nhiều câu truyện cũng ngầm kết án chiến tranh. Nghe xong ai cũng thở dài cho thân phận con người, nhưng đồng thời đánh giá cao tình yêu son sắt, thủy chung. Tính nhân văn khi xây dựng tâm hồn trẻ em qua văn học là như vậy.

4. Kết luận

Trên cơ sở lắng nghe thông tin nhiều chiều, người biên soạn Sử Việt Cho Cháu sau khi cân nhắc: Truyện Trọng Thủy - Mỵ Châu không là sự kiện chính sử, chỉ xây dựng trên nền chính sử. Cuộc tình của nhân vật tiểu thuyết không hề có tác động thật vào lịch sử. Nó là tác phẩm văn học đặt nhân vật trong vai bị tác động của lịch sử. Cụ thể hai nhân vật Trọng Thủy, Mỵ Châu là nạn nhân của lịch sử. Hoàn toàn khác với hôn nhân của Triệu Minh Đế nước Nam Việt với Cù thị gián điệp nhà Hán, có hành vi sắp đặt âm mưu bán nước nhà chồng khi có điều kiện. Cũng cần biết thêm Cù thị được nhà Hán ca ngợi như một nữ liệt sĩ của họ. Hành vi của Cù thị, nhân vật chính sử tác động vào lịch sử. Triệu Minh Đế bị vợ lừa, đó mới là bài học cần cảnh giác (sẽ nói ở bài: Lữ Gia tể tướng Triệu triều)

Nguyên nhân và diễn biến dẫn tới sáp nhập Âu Lạc vào Nam Việt cần được tìm hiểu thêm một cách khoa học. Sách vở, đền tích của người Việt bị các đời đô hộ Tàu phá huỷ, thiêu đốt. Người biên soạn cùng quan điểm sử gia nhà Trần, cho rằng Triệu Đà có tầm nhìn xa, có thiện chí liên minh qua việc gửi rể phương Nam. Cùng lúc liên minh với Mân Việt phía bắc cũng qua kết thông gia. Nước Nam Việt suốt 96 năm hùng mạnh, trong đó có 70 năm Triệu Đà cầm quyền không hề thôn tính Mân Việt và U Việt, cho thấy Triệu Đà không phải là kẻ tham vọng.

An Dương Vương đến 179 TCN đã già yếu ở tuổi 72, không có con trai, việc rể Trọng Thủy cùng cha ruột sáp nhập Âu Lạc vào Nam Việt rất dễ dàng. Hán Sử không hề nhắc đến tên và vai trò Trọng Thuỷ. Xem như trước đó Hán sử không biết gì nhiều về nội bộ của Bách Việt. Nhưng Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi nhận, con Trọng Thuỷ là Triệu Hồ, cháu đích tôn của Triệu Đà đã kế ngôi Triệu Đà, hiệu là Triệu Văn Đế. Vì Triệu Đà sống thọ 103 tuổi, khi ông mất tính ra Trọng Thủy phải ở tuổi 80. Vì vậy Trọng Thuỷ mất trước cha là chuyện không gì bất thường. Đền tích thờ Triệu Đà tại Đồng Xâm, Kiến Xương, Thái Bình có thờ người vợ Việt họ Trịnh của Triệu Đà là mẹ của Trọng Thủy.

Sử Việt Cho Cháu chỉ đưa chi tiết truyện Nỏ và thành Loa; nhấn mạnh ý thức cải tiến quân sự của cha ông từ xa xưa, khi chiến tranh đã chuyển sang giai đoạn hỗn chiến. Nghĩa là sự thắng thua do tương quan lực- lượng quân sĩ hai bên dưới sự chỉ huy trận pháp của tướng, chứ không còn lệ thuộc võ nghệ và sinh mạng của hai ông tướng cầm đầu trực tiếp đấu nhau. Nỏ thay cung tạo nên lực bắn xa và mạnh khi quân địch kéo đến đông cần tiêu diệt từ xa. Khi cận chiến bản thân cây nỏ vẫn là vũ khí đâm, đánh đều gây sát thương; gạt, đỡ hiệu quả hơn cánh cung mỏng manh. Loa thành diện tiếp xúc với địch ít cho dù địch đông quân, khác với thành 4 mặt, địch đông có thể tấn công đồng loạt. Truyện có liên quan đến thế lực xâm lược đông quân của nhà Tần trước đó và nhà Hán tiếp theo. Các yếu tố thần linh không nhắc tới trong bài học.

Người biên soạn xem truyện Trọng Thủy - Mỵ Châu là tác phẩm văn học dân gian, hình thức sáng tạo, nội dung nhân văn, một kiệt tác của truyện ngắn dân gian thời sơ sử. Vì vậy, không đưa vào bài học lịch sử. Bài học mất cảnh giác dẫn tới mất nước nằm ở quan hệ Triệu Minh Đế và Cù Thị, những tình tiết chính sử sẽ được nhấn mạnh trong bài sau.

Các em có tò mò đọc thêm bài này cũng cần hiểu đây chỉ là một hướng tham khảo. Các em có quyền lựa chọn, không áp đặt tư duy người biên soạn vào bài học. Bài văn vần dưới đây xem như là bài cảm tác của người biên soạn ở khía cạnh cảm thụ văn học dân gian, không phải là bài học lịch sử.

Kính!

OAN TÌNH TRỌNG THỦY – MỴ CHÂU

Truyện rằng tổn tướng hao binh
Triệu không chiếm được vương thành Cổ Loa
Nước cờ diệu kế sâu xa
Trọng Thủy ở rể hiếu hoà kết thân (1)
Mỵ Châu gái Thục giai nhân
Trai tài gái sắc mười phân trùng phùng
Phải chăng vì chữ hiếu- trung (2)
Đành mang tiếng phụ người cùng gối chăn?

Xưa trao áo, quạt dày lông
Lỡ khi ngày nóng đêm đông một mình...
Ngờ đâu chóng cuộc đao binh
Vợ Nam chồng Bắc hiếu tình sao đây ?
Giữa cơn giáo phóng tên bay
Rẽ riêng nẻo khuất, ngựa hay xuyên rừng
Tung roi thét ngựa không dừng
Ngựa lưng hằn vết, người chừng lửa thiêu
Băng sông vượt núi trèo đèo
Vó câu vạn dặm ruổi theo dấu nàng...

Cố công mấy cũng muộn màng
Máu loang áo quạt- khóc than động trời:
Oan tình thôi thế đành thôi
Giếng sâu cho trọn thề bồi non sông...

Nước trong sáng ngọc biển Đông
Trời cao bày tỏ hai lòng thẳng ngay
Cổ Loa miếu cũ rêu dày (3)
Người xưa ghi dấu: tình này thiên thu

                                                                                           Lê Nghị

***

Ghi chú: (cho trẻ em nếu trẻ em có đọc.)

(1) Ở rể: hình thức vừa kết thân vừa làm con tin. Hiếu hoà: thông qua giữ chữ hiếu cả hai nhà mà đoàn kết liên minh chống giặc.

(2) Hiếu - Trung: quan điểm Nho học cho rằng làm con phải nghe lời cha, làm dân phải nghe lời vua tuyệt đối.

(3) Rêu dày: Ở đây ý nói đã lâu năm, đừng nhầm ý bỏ hoang.
Dân chúng cảm động mối tình này nên lập am thờ Mỵ Châu trước giếng nay còn tại di tích Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội.

Không có nhận xét nào: