Thầy Lê Văn Hộ
THẦY
LÊ VĂN HỘ VÀ THƠ
1/ THẦY
Tôi có cái duyên may là được học môn Địa lý với thầy
Lê Văn Hộ suốt 3 năm tại trường cấp 3 Hàm Tân, niên khóa 1977-1980. Hình ảnh thầy
với chiếc xe đạp cổ, cái cặp da đã sờn, chiếc thắt lưng da bò đã tróc, mấy bộ đồ
cũ: áo xanh lơ, vàng, xám ngắn tay, là "tàn dư của chế độ cũ" sót lại!
Thầy bảo: "mình thích những cái gì đã cũ. Vì mỗi cái cũ, nó gắn liền với
nhiều kỷ niệm". Rồi thầy kể chuyện cái bình vôi từ thời ông cố, ông kỵ. Thầy
kể chuyện mấy cái sẹo hồi nhỏ chơi đùa, chơi trốn tìm, rúc bụi, chơi đánh nhau!
Thầy nói về những chiếc áo đã sờn... cứ nghe mà mê mãi! Nhớ những năm đói thời
bao cấp, dáng thầy thì gầy mà trò thì không thể lớn!
Thầy không chỉ giỏi về chuyên môn Sử -Địa (Cao học) )
mà còn am hiểu sâu cả về văn chương(Cử nhân); triết học; thông thạo 2 ngoại ngữ
(Pháp, Anh), tự học tiếng Hán, Nga. Thầy là một con người tài hoa, đức độ. Chưa
bao giờ thầy lớn tiếng la mắng học sinh. Khi không hài lòng, thầy chỉ nghiêm một
thoáng rồi thôi! Lúc lớp cần giải đáp điều gì, thầy trả lời tất cả các lĩnh vực!
Ở xứ La Gi này, không chỉ phụ huynh và học sinh mà nói về thầy từ dân lao động
đến chính quyền, trẻ, già ai cũng kính cẩn, ngưỡng mộ! Có lần chính quyền giới
thiệu thầy ra ứng cử đại biểu hội đồng nhân dân tỉnh với tư cách đại diện quần
chúng "lót đường". Nào ngờ khi kiểm phiếu thầy đã đạt số phiếu cao nhất
và được bầu làm thư ký của đoàn đại biểu tỉnh!
Thầy là một nhân cách lớn. Mỗi giờ dạy thầy đều trải hết
lòng, cháy hết mình. Thầy không chỉ truyền cái cảm hứng về tình yêu quê hương,
đất nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc vào lòng học sinh mà thầy còn kết hết hợp
dạy kinh nghiệm, kỹ năng sống, xen lẫn văn chương ngoại ngữ. Dạy từ việc đi đứng,
nói năng, cách ăn uống, mặc từ gia đình ra công sở. Thầy giảng giải cả
"công dung ngôn hạnh", "tứ đức tam tòng", "tam cương
ngũ thường", đạo hiếu làm con, làm người! Như khi học bài Nhật Bản, thầy
viết lên bảng 3 thứ tiếng rồi cắt nghĩa: Nhật là mặt trời là ban ngày, bản là
cái gốc. Nhật bản là xứ sở của mặt trời mọc! Thầy dạy điều gì là truy tới gốc.
Thậỳ luôn là tấm gương sáng, chuẩn mực từ lời nói, cử chỉ, dáng đi...May mắn được
làm học trò cưng của thầy, làm đồng nghiệp của thầy trong môi trường giáo dục,
thi thoảng đi chấm thi THPT tại Phan Thiết lại được hầu rượu và nghe thầy kể
chuyện đời thật thích! Thầy như một cuốn bách khoa toàn thư. Bên thầy bao giờ
mình cũng cảm thấy bé nhỏ, được che chở và rất an tâm!
Nhớ năm lớp 11, đang học thơ Trần Tế Xương, giờ ra
chơi, mình lên bảng chép bài thơ: “Học
hành thời trước có ra chi. Ngu dân đồi trụy có ích gì! Sao bằng đi học thời nay
nhỉ! Sáng đớp khoai lang, tối khoai mì!” Bài này do bạn Lê Trường lớp 12C
sáng tác. Trường với mình ở chung nhà trọ. Chiều ấy... Trường từ Sơn Mỹ xuống
mang theo bao củ sắn, 2 đứa luộc xong chắm muối ớt rồi cảm tác ra thơ. Mình có
góp ý vào! Các bạn cờ đỏ đã chép lại bài thơ và báo cho Đoàn trường! Mình bị thầy
Nguyễn Thúc Chất, dạy môn Chính trị gọi lên thẩm vấn và bắt nộp cả tập thơ! Kết
quả: mình bị quy tội làm thơ mỉa mai, đả kích chế độ! Bị kiểm điểm! Sém bị đuổi
học. Sau bị "lãnh án" cảnh cáo trước toàn trường. Cuối năm được chiếu
cố xếp hạnh kiểm trung bình! Năm đó bạn Lê Trường học lớp 12 ban Toán, còn mình
là học sinh giỏi văn, lại hay võ vẽ làm thơ, nên không ai nghĩ bài thơ do bạn
Trường là tác giả. Mình cũng không khai và một mình nhận tội! Nhờ đó mình
"nổi tiếng"! Nghe nói khi ra Hội đồng Kỷ luật để luận tội, thầy Hộ đã
bào chữa cho "lũ trẻ trâu" ăn chưa no lo chưa tới như mình! Xin đội
ơn thầy! (Năm 1986, 1988 gặp lại thầy Chất, thầy trò hàn huyên chuyện cũ thời
trẻ trâu. Thầy bảo: “Ngày nớ tau dọa rứa
cho mi lo học, chứ thầy Cử thương mi, nên bảo: răn đe là chính!” Thấy thầy
còn độc thân, bọn lớp mình đã bàn nhau mai mối và cưới vợ cho thầy, nhưng thầy
đã cám ơn và từ chối!
Tài hoa là thế, nhưng, suốt đời thầy chỉ làm giáo
viên, đến khi được Sở giáo dục và huyện tín nhiệm đề bạt chức giám đốc Trung
tâm giáo dục thường xuyên, chưa kịp nhận thì cơn bão quái ác năm 1994 xảy ra. Một
chiếc tàu ngoại quốc bị bão đánh dạt vào mắc cạn ngoài biển Lagi, chính quyền cần
người thông thạo tiếng Anh và tiếng Pháp, thầy đã được Tỉnh đội trưởng mời làm
phiên dịch. Xong việc, khi tàu đưa thầy trở lại đất liền, một con sóng dữ đã
đánh úp con tàu! Tin thầy mất làm chới dới cả đất trời! La Gi suốt mấy ngày liền
chìm trong tiếng khóc thương! Thầy đã hy sinh vì việc nước (và được truy phong
Liệt sĩ), để lại trong bao thế hệ học trò trường THPT Hàm Tân muôn nỗi tiếc
thương, ân tình về một người thầy!
Thầy đã đi đã 24 năm, kể từ cái ngày bão giông điên cuồng
ấy của đất trời! Thầy đã đi xa, nhưng trong tâm tưởng chúng em luôn lưu giữ một
nụ cười sảng khoái, lạc quan, yêu đời, xem thường nguy khó; thân thiện với mọi
người của thầy. Nụ cười ấy cho các em hiểu, cảm được một nội lực bên trong của
một bậc trí tuệ lớn. Trong tâm tưởng của chúng em, thầy là người Hiền. Mùa thu/
chân trời tím
/Thầy đi/ Nụ cười Hiền! (04/11-Kính tiễn Thầy)
Bao thế hệ học sinh trường Hàm Tân thuở xưa kháo nhau
rằng: vào trường Hàm Tân mà chưa được học với thầy Hộ, coi như chưa học! Nhân kỷ
niệm 60 năm thành lập trường, kỷ niệm 24 năm ngày thầy đi xa, em viết những
dòng này thay nén nhang lòng tưởng niệm và tri ân thầy!
2/ THƠ
Thơ thầy để lại chưa tới 20 bài, hầu hết là thơ tự do.
Cảm tác về nghề, về thế sự, đôi khi triết lý về nhân sinh một cách trào lộng với
cái nhìn và cách dùng từ, tạo thanh, vần rất độc đáo, pha chút ngộ nghĩnh! Với
nghề, thầy đã dồn cả tâm huyết vào giáo án, bài giảng, nhưng đôi lần đã không
tránh khỏi băn khoăn vì thấy chưa đủ tự tin. Bởi còn thiếu kiến thức thực tế!
Khi dạy về Địa lý sông Hồng, Hà Nội, thầy cảm thấy mình có lỗi "run
tay" vì đã dạy chay, dạy suông! Vì thầy chưa một lần đặt chân đến sông Hồng?
Lỗi đâu phải do thầy?
“Ta
đã hiểu lạ thường vì sao sáng nay lúynh quýnh.
Khi
vẽ thật lâu đoạn sông Hồng và Hà Nội.
Run
run- vì ở đó mấy ngàn năm vẫn là,
Sao
Bắc đẫu vẫn ngự trên trời.
Vậy
mà- Thầy giáo Địa lý Việt Nam chưa bao giờ đi tới.”
(Câu chuyện giờ Địa lý)
Khi viết về ngôi trường Cấp III Hàm Tân, thầy đã tinh
tế phát hiện thế đứng xéo của ngôi trường,"nằm trên dốc và dưới dốc",
phát hiện nhiều dãy trường xây trở mặt theo nhiều hướng, nhiều "nóc"
lạ đời. Đồng thời thầy cũng dự báo về một tương lai vươn cao, với tầm vóc lớn của
trường Hàm Tân (nay Lý Thường Kiệt) đối với tỉnh nhà. Bài thơ độc đáo với cách sử
dụng "độc vận" là vần trắc "oc" rất hiếm tìm từ:
“Trường
ta dưới dốc và trên dốc
Cấp
III Hàm Tân tầm vóc
Không
ngang cũng không dọc
Có
rất nhiều nóc
Và
nhiều gió biển vây bọc.”
(Về một ngôi trường)
Thời buổi khó khăn, dẫu có ôm mấy bồ chữ, thầy cũng
khó thoát cảnh "Tài cao, phận thấp
chí khí uất"(Tản Đà). Trải qua bao năm khốn khó mà không tìm cách
thoát ra được, thầy cũng nhiều lần trở trăn! Đôi khi thầy cũng không biết mình
đang đứng ở đâu trong cuộc đời này? Thầy đã từng tin yêu, hy vọng, rồi thất vọng,
bi quan! Được hầu rượu thầy nhiều lần cũng chia sẻ với thầy đôi chút nỗi niềm
tâm sự! Có lúc thầy ngán ngẫm bởi "Nhân sinh bất phùng thời" là chuyện
thường tình của muôn đời! Tự kiểm thầy thấy mình bất lực, có lỗi với vợ con! Đọc
ý thơ chân thành mà xúc động, cảm thông cho nỗi lòng của một người chồng, người
cha như thầy!
“Chẳng
lẽ mãi đến chết
Cái
óc cứ rỗng tuếch
Không
làm gì ra trò?
Tự
kiểm thấy thiệt bết!”
(Tự kiểm. Đêm buồn
16/11/89)
Cũng may, sau lưng người đàn ông tài hoa, hào hiệp với
bạn bè, với đời luôn được trời phú cho một một người vợ chung thủy, đảm đang,
chăm lo, chăm làm, cam chịu. Một mình cô làm thân cò bà Cử "nuôi đủ' cho 3
con ăn học tới nơi, tới chốn mà chẳng bao giờ biết đến đồng lương còi cọt của
thầy!
Đời sống khó khăn, một mình cô bươn chải mà thầy thì cứ
mãi lãng du. Bởi thầy là người của thế nhân thích lang thang khắp vạn nẻo đường
trần! “Con tôm lội ngược”
“Con
cua bơi ngang
Em
thì em đi thẳng
Còn
anh
Anh
suốt đời lang thang...”
Nên lắm lúc chén bát trong kiềng cũng khua, hạt gạo
còn sứt sẻo! Nhà ai dám bảo đã chưa từng xảy ra "chiến tranh lạnh"?
Nhưng rồi sự im lặng- chịu đựng của cô đã làm sóng yên biển lặng!
“Về
chuyện tình yêu của chúng mình
Nếu
anh nói thật em không tin
Nếu
anh không nói thì giả dối
Em
trả lời sao, sao lặng thinh!”
(Em trả lời sao, Tháng
4/1990)
Con cái ngoan, học xong ra trường, đồng lương ít ỏi,
nhiều lúc thầy cảm thấy không có lối thoát; đã có những khoảng lặng buồn trong
đời thầy. Bởi "ông nghè" ông cử cũng "nằm co". Thầy cũng kiếm
rượu giải sầu cho qua ngày đoạn tháng. Đọc bài thơ, nghe trong cái âm
"eo" ở cuối vần thơ như lời buồn dài, tiếng thở dài trong đêm của thầy
về sự đeo đẵng của đói nghèo nặng nề triền miên, meo móc mà xao lòng!
“Gắng
học nghe con cứ cố đeo.
Nếu
không sẽ dốt, nhục và nghèo
Nghe
lời con cũng leo Tú- Cử
Chữ
nghĩa chi nhiều lại đói meo.”
Thầy cũng tự trào lộng thật dí dõm, chua chát về cái
nghèo của nghiệp giáo! Do đói thiếu mà bao năm vẫn giữ được cái dáng
"thong dong, thẳng thớm" của nghề thầy không lẫn vào đâu được! Thầy
ca ngợi cái dáng mà nghe cứ cay cay ở khóe mắt!( Năm ấy làm thầy em cũng có 50
kg). Có nhiều lúc ăn không khí, mang bụng không lên lớp, dạy đến tiết năm thì
đói xâm xoàng. Về nhà chỉ có cơm tập thể, cơm với rau luộc nước mắm. Ăn xong nằm
soãi ra giường ngủ lấy sức!
“Thẳng
thớm thong dong được dáng thầy.
Nói
năng đâu đó thấy hay hay.
Năm
châu bốn biển đi mòn lưỡi,
Về
vợ cho ăn nước mắm "Cay".
Về
vợ cho ăn nước mắm "Cay".
Trưa
hè mưa hột, mưa không mây.
Hỏi
sao nóng quá cho ăn thế?
Vợ
bảo: "ăn chay" mới thiệt thầy!”
(Ăn chay, tháng 5/1981)
Có lúc thầy cũng châm biếm sâu sắc mà rất hài hước trước
một vài biểu hiện lố lăng của xã hội. Bài thơ "Đã đời..." cũng thể hiện
sự đầu tư công phu và vốn ngôn ngữ phong phú, cách chơi chữ tài tình của thầy.
Bài thơ toàn phụ âm đầu là "đ".
“đôn
đáo đã đời, đâu đến đâu!
đi
đi đứng đứng đủ điên đầu
được
đà đồ điếm đu đít đực
đêm
đỏ điếc đui đổ động đào...”
(Đã đời)
Nghiệp giáo thời bao cấp nghèo tiền gạo, nhưng giàu con
chữ, con điểm. Thầy giáo là tỷ phú về điểm. Trong suốt 3 năm học, hiếm lúc nghe
thầy quở mắng hay cho điểm kém bạn nào! Bao giờ thầy cũng tạo cơ hội để cho các
bạn sửa chữa sai sót. Tâm thầy thật bao dung:
“Ước
gì là cô giáo,
Mình
sẽ giàu biết bao...
Mình
có hằng trăm tỷ điểm.
Tha
hồ mà tặng nhau.
Những
số không kỳ dị.
Thả
bong bóng bay cao.
Cả
một, hai xấu xí,
Ai
cất túi làm giàu.
Nếu
được làm cô giáo,
Mình
sẽ...sẽ rất hiền.
Chào
các em mỗi sáng,
Và
giảng giọng rất "Ziên".(Duyên)
Mình
sẽ chìu tất cả!”
(Ước gì)
Đối ẩm Xuân Quý Dậu 1993, trong tim thầy dậy lên những
cảm xúc. Khi kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập! Đời sống bắt đầu khởi sắc. Từ
tiếng gà năm Ất Dậu 1945 báo hiệu sự ra đời của một con người tài hoa(Thầy sinh
năm 1945) một sự đổi đời, đất nước độc lập, tự do. Lịch sử sang trang...! Gần
48 năm, đất nước luẩn quẩn trong đói nghèo, bần cùng lạc hậu bởi các bóng đen
"Ó, diều, quạ, cáo luôn rình rập". Hai cặp câu thơ luật Đường đối
nhau chan chát từng cặp từ, kết hợp lối ẩn dụ, liệt kê vừa chi tiết, vừa cụ thể
về thực trạng xã hội! Thầy tin tưởng một ngày mai, gà Quý Dậu sẽ "mài cựa,
xừng lông" đâm hết, mổ sạch lũ "Ó, diều, quạ, cáo" để tiến lên
xây dựng đất nước "thái hòa"! Bài thơ đã thể hiện cái khí khái, cốt
cách của một con người có tâm hồn lớn và niềm tin tưởng lạc quan khi nghe tiếng
gà Quý Dậu vỗ cánh gáy báo bình minh! Nào ngờ bài thơ ấy cũng là khúc ca tiễn
thầy về chốn "thái hòa" vĩnh viễn ở tuổi 49!
“Còn
nhớ Thu xưa một tiếng gà
Cối
xay hết thóc sốt xanh da
Ó,
diều, quạ, cáo luôn rình rập
Đói,
dốt, bệnh, nghèo luônn xốn xa
Mài
cựa, xừng lông trừ mối mọt
Quay
cuồng, rát cổ chống phong ba
Xuân
này vỗ cánh ò o gáy
Mở
cửa cùng nghe điện thái ca”
(Xuân Quý Dậu, 1993)
Thầy luôn là loài hoa súng, hoa sen mọc giữa chốn bùn
lầy nước đọng mà vẫn giữ được cái cốt cách cao khiết của bậc trí giả!
“Ở
quê ta
có
một loài hoa
Tên
hoa súng.
Sống
giữa bùn ao
Vẫn
cố bám lên cao
Màu
thanh khiết”
(Hoa súng quê ta)
Sau tất cả mọi chuyện đời, chuyện nghề, thầy đã sống
và cho đi cái phần tinh túy "anh hoa phát tiết" của một kiếp nhân
sinh! Và đã sống chết tan hòa vì mảnh đất La Gi xanh trời, xanh biển, xanh cỏ
cây, xanh lúa ngàn! Có dãy thông reo cất tiếng ru thầy vào Cõi Hạc: Biển duềnh
sóng Hạc thầy đi, Nghe phi lao thổi có khi thầy về!
Và đây bài thơ khắc bia thầy dặn lại:
HÁT KHÚC BÌNH YÊN
“Chẳng
phải hướng dương, chẳng phải lài
Hoa
đồng cỏ nội sống khoan thai
Văn
năm ba chữ hơ hồn trẻ
Sử
ít vài chương gợi sức trai
Có
nước, có nhà và có vợ
Cho
mình, cho bạn cả cho ai
Dế
ơi điệp khúc "ngôn trường tận"
Ta
"ngáy"- thường tình-mây gió bay!”
Tháng 6/1981
Viết
nhân giỗ lần thứ 24 của thầy
Phan
Dương Thy
27/10/2018
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét