Đó là việc xảy ra khi Quốc Tuấn đã ngoài 20. Nguyên
vua có cô em ruột là Thiên Thành, cho ở trong dinh của Nhân Đạo vương. Rằm
tháng Giêng Tân Hợi [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 20 (1251), vua mở hội lớn bảy
ngày đêm, định làm lễ cưới cho Thiên Thành với Trung Thành vương (con của Nhân
Đạo vương – Toàn thư không ghi rõ họ tên hai cha con vị vương này).
Quốc Tuấn
bèn lẻn vào dinh chú rể, chui vô buồng cô dâu để động phòng. Đã đành đây là việc
trai gái thuận tình, nhưng nếu thật lòng yêu, sao trước đó Quốc Tuấn không hỏi
xin nàng, mà phải đợi trước ngày cưới mới bày trò trên bộc trong dâu, đến nỗi
phải tốn của nhà vua 2.000 khoảnh ruộng ở phủ Ứng Thiên để bồi thường cho họ
đàng trai?
Và Thiên Thành kia là ai? – Ông nội Quốc Tuấn là Trần
Thừa có mấy người con là Thụy Bà (người nuôi Quốc Tuấn), Trần Liễu (thân sinh
Quốc Tuấn), Trần Cảnh (Thái tôn), Trần Nhật Hiệu, Trần Bà Liệt, và Thiên Thành.
Công chúa Thiên Thành đó chính là cô ruột của Hưng Đạo vương vậy. Về cuộc hôn
nhân nội huyết này, sau này nhiều kẻ bao biện, bảo đó là lệ nhà Trần, nên Quốc
Tuấn bị ép vào cuộc hôn nhân lạ lùng. Một vị nhân thần sự nghiệp lẫy lừng mà lại
chịu “bị ép”, và ép phải lẻn vào nhà chú rể, leo lên giường cô ruột?
Mối hiềm khích giữa chi thứ của Quốc Tuấn với chi đích
của vua Trần, dù ông đã được Thái Tôn nhân nhượng cưới vợ cho, vẫn khó thể
nguôi ngoai, và sẽ trở lại ám vào suốt cuộc đời Hưng Đạo vương.
II.
Vai trò:
Năm 1257, một cánh quân lẻ của Mông Cổ do Ngột Lương Hợp
Thai (Uriyangqadai) chỉ huy xâm nhập nước ta để tìm đường đánh thọc lên Quảng
Tây của nhà Tống. Sự kiện này được sử Việt gọi là “Kháng Nguyên lần thứ I” [4].
Trong cuộc chiến đầu tiên với Mông Cổ này, không hề thấy
Quốc Tuấn ló dạng, nhưng với ý định gò ép cho trọn vẹn chiến công để tuyên
dương, người đời sau thường khiên cưỡng nói lấy được, gọi ông là “anh hùng của ba cuộc kháng chiến” [5].
Trong khi Toàn thư chỉ ghi: “Đinh Tỵ,
[Nguyên Phong] năm thứ 7 [1257] (…) Tháng 9, xuống chiếu, lệnh tả hữu tướng
quân đem quân thủy bộ ra ngăn giữ biên giới, theo sự tiết chế của Quốc Tuấn”,
xong là mất hút, không thấy ông xuất hiện nữa.
Rõ ràng trong đợt này, Quốc Tuấn chẳng hề đóng vai trò
gì, Lê Tần mới là nhân vật chính với công hộ giá. Vậy mà Trần Trọng Kim vẫn cãi
cố, ráng tưởng tượng thêm rằng khi đó Quốc Tuấn từng ra cản giặc và rút về cố
thủ ở Sơn Tây [6]!
Thái Tôn Trần Cảnh lúc bấy giờ không thể không nghi ngại
ông cháu gọi mình bằng chú này, rất có thể y sẽ thừa cơ có giặc mà trở mặt làm
phản. Nguyên do khiến vua nghi ngại là mới năm ngoái đây, em của Tuấn là Trần
Doãn đã mưu đào thoát sang Tàu.
Toàn thư ghi:
“Bính
Thìn, [Nguyên Phong] năm thứ 6 [1256] (…) Mùa thu, tháng 7, Vũ Thành vương Doãn
đem cả nhà trốn sang nước Tống. Thổ quan Tư Minh là Hoàng Bính bắt lại đưa trả
cho ta (Doãn là con Yên Sinh vương do Hiển Từ sinh. Yên Sinh có hiềm khích với
vua, đến khi Hiển Từ mất, [Doãn] bị thất thế, nên trốn sang nước Tống). Vua thưởng
vàng lụa cho Bính. Do đấy việc giữ phòng quan ải càng thêm nghiêm ngặt” [7].
Ông em vừa bị bắt
về tội… vượt biên, thì ông anh bị cách ly điều tra là điều dễ hiểu.
Sau trận đụng độ làm tan tác cả kinh thành, Trần đã biết
đá biết vàng, quay đầu thần phục nhà Nguyên, chịu xưng thần, dâng cống phẩm, và
để Nguyên đặt một viên chức Toàn quyền xem việc cai trị trên đất nước “nhỏ bằng
bàn tay” của mình (lời Trần Anh Tôn sau này – Toàn thư, Bản kỷ). Suốt hơn phần
tư thế kỷ, Trần chật vật tù túng dưới ách Nguyên triều, cuối cùng đã buộc lòng
quyết để kháng.
Suốt thời gian này, trải mấy đời vua, Quốc Tuấn dần được
“cất nhắc”, có lần Thánh Tôn định phong cho ông chức Tư đồ, nhưng ông từ chối.
Toàn thư:
“Trước
kia, Thánh Tông thân đi đánh giặc, Quang Khải theo hầu, ghế tể tướng bỏ không,
vừa lúc có sứ phương Bắc đến. Thái tông gọi Hưng Đạo vương Quốc Tuấn tới bảo:
Thượng tướng đi theo hầu vắng, trẫm định lấy khanh làm Tư đồ để tiếp sứ phương
Bắc. Quốc Tuấn trả lời: Việc tiếp sứ giả, thần không dám từ chối, còn như phong
thần làm Tư đồ thì thần không dám vâng chiếu. Huống chi Quan gia đi đánh giặc
xa, Quang Khải theo hầu mà bệ hạ lại tự ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới,
e có chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui lòng Quan gia và Quang Khải. Đợi khi xa giá
trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn”
(Bản kỷ – Anh Tôn).
Tư đồ thuở đó là chức quan trông coi việc giáo dục cho
hoàng tử cùng con cái của các thân vương, cũng kiêm luôn việc ngoại giao tiếp sứ,
và chức này thường được trao cho người làu thông kinh sử, Quốc Tuấn mà dám nhận
mới là chuyện lạ lùng. Chẳng qua đó là khi anh em dòng vua đi vắng, họ e ở nhà
có loạn từ trong nên mới ướm thử Tuấn mà thôi!
Hãy xem Quốc Tuấn “ngoại giao” thế nào:
“Tân
Tỵ, [Thiệu Bảo] năm thứ 3 [1281] (…) [Nhân Tôn] Sai chú họ là Trần Di Ái (tức
Trần Ải) và Lê Mục, Lê Tuân sang Nguyên. Nhà Nguyên lập Di Ái làm Lão hầu, cho
Mục làm Hàn lâm học sĩ, Tuân làm Thượng thư, lại sai Sài Xuân [có sách gọi Sài
Thung] đem 1.000 quân hộ tống về nước. Xuân ngạo mạn vô lễ, cưỡi ngựa đi thẳng
vào cửa Dương Minh. Quân sĩ Thiên Trường ngăn lại, Xuân dùng roi ngựa quất họ bị
thương ở đầu. Đến điện Tập Hiền, thấy chăng bày màn trướng, hắn mới chịu xuống
ngựa. Vua sai Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp. Xuân nằm khểnh không ra, Quang
Khải vào hẳn trong phòng, hắn cũng không dậy tiếp. Hưng Đạo vương Quốc Tuấn
nghe thấy thế, tâu xin đến sứ quán xem Xuân làm gì. Lúc ấy Quốc Tuấn đã gọt
tóc, mặc áo vải. Đến sứ quán, ông đi thẳng vào trong phòng. Xuân đứng dậy vái
chào mời ngồi. Mọi người đều kinh ngạc, có biết đâu gọt tóc, mặc áo vải là hình
dạng nhà sư phương Bắc. Ông ngồi xuống pha trà, cùng uống với hắn. Người hầu của
Xuân cầm cái tên đứng sau Quốc Tuấn, chọc vào đầu đến chảy máu, nhưng sắc mặt
Quốc Tuấn vẫn không hề thay đổi. Khi trở về, Xuân ra cửa tiễn ông”
(Toàn thư, Bản kỷ – Trần Nhân Tôn).
Thì ra chỉ là giả làm nhà sư để được sứ giặc tiếp kiến,
chừng sứ Sài Xuân/ Thung phát giác sư giả thì Tuấn phải ôm đầu máu. Sài Thung vốn
là Lễ bộ thượng thư của Nguyên triều, trong mắt y thì Quốc Tuấn lúc bấy giờ chẳng
là gì, tuy nhiên việc cho người dùng vật nhọn chọc vào đầu Tuấn là có thể có,
mà cũng có thể… không, chứ còn việc Quốc Tuấn ngồi yên chịu đòn mà vẫn trơ trơ
rõ là chuyện bịa, mang hơi hướm tiểu thuyết Tàu. Và tuy Toàn thư không chép cụ
thể, qua đó cũng có thể đoán ra cuộc tiếp sứ chẳng đạt được thành quả gì.
Ấy vậy mà cuối năm 1284, khi Thái tử Thoát Hoan dẫn
quân sang đánh thì Nhân Tôn lại phong cho Quốc Tuấn làm Quốc công Tiết chế thống
lĩnh quân đội, chứ không giao chức ấy cho anh em ruột thân tín của mình, ấy là
lẽ gì? Câu trả lời chính là: để ông phải giơ đầu chịu báng. Không phải ngẫu
nhiên mà Nguyên sử không ghi thẳng tên Quốc Tuấn, mà chỉ ghi là “Hưng Đạo
vương”, họ chép mấy đời vua Trần đều gọi bằng tên cộc lốc: Thái Tôn là Quang
Bính 光昺, Thánh Tôn là Nhật Huyên
日烜, Nhân Tôn là Nhật Tốn 日燇,
Anh Tôn là Nhật Sủy 日㷃, v.v…, mà lại kiêng tên
kỵ húy ông tướng kia sao? Đây chính là nhà Trần muốn trút trách nhiệm chống cự
thiên triều lên đầu ông, nên mới có sự ngược ngạo lạ đời đó.
Chức danh Tiết chế chỉ là hư danh, quyền chỉ huy tối
cao vẫn trong tay Nhân Tôn, Thượng hoàng và Quan gia cũng chỉ bàn việc binh với
các anh em chú bác ruột Quang Khải, Nhật Duật… Cho nên mới có chuyện ông Tiết
chế xin phép ông Thượng tướng thái sư (Quang Khải) chặn đánh cánh quân của Toa
Đô ở Nghệ An. Vậy mà Thượng hoàng Thánh Tôn vẫn còn nghi kỵ, vờ hỏi “Thế giặc [mạnh] như vậy, ta phải hàng thôi?”
để dò tâm ý Quốc Tuấn.
Mối hiềm cũ giữa hai dòng anh em không chỉ gói gọn
trong hoàng tộc, mà còn lan truyền ra ngoài. Khi hai vua chạy bán xới bỏ lại
kinh thành cả ấn tín lẫn công chúa (An Tư), phải lênh đênh ra đến Quảng Ninh,
Quốc công Tiết chế đến hộ giá:
“Lúc
ấy, xa giá nhà vua phiêu giạt, mà Quốc Tuấn vốn có kỳ tài, lại còn mối hiềm cũ
của Yên Sinh vương, nên có nhiều người nghi ngại. Quốc Tuấn theo vua, tay cầm
chiếc gậy có bịt sắt nhọn. Mọi người đều gườm mắt nhìn. Quốc Tuấn liền rút đầu
sắt nhọn vứt đi, chỉ chống gậy không mà đi, còn nhiều việc đại loại như thế” (Toàn thư, Bản kỷ – Trần Nhân Tôn).
Trách nhiệm của Quốc Tuấn chỉ là giơ đầu chịu báng
gánh lấy trọng tội chống lại thiên triều. Nỗi ám ảnh ấy còn đeo đẳng ông mãi đến
khi sắp mất:
“Khi
sắp mất, ông dặn con rằng: Ta chết thì phải hỏa táng, lấy vật tròn đựng xương,
bí mật chôn trong vườn An Lạc, rồi san đất và trồng cây như cũ, để người đời
không biết chỗ nào, lại phải [làm sao cho mau phục. Quốc Tuấn giữ Lạng Giang,
người Nguyên hai lần vào cướp, ông liên tiếp đánh bại chúng, sợ sau này có thể
xảy ra tai họa đào mả chăng. Ông lo nghĩ tới việc sau khi mất lại như thế đấy”
(Toàn thư, Bản kỷ – Trần Anh Tôn).
Lúc Quốc Tuấn mới cầm quân, có dân hai hương Ba Điểm
và Bàng Hà hưởng ứng vâng lời tụ nghĩa theo về hăng hái lập công, sau vì túng
thế họ phải ra hàng giặc. Chừng luận công định tội, cả hai hương đều bị xử lưu
đày, trai trẻ thì làm lính hầu, gái bị bán làm nô tỳ. Ông tướng thống lĩnh quân
đội nhân dân lại không bảo vệ được cho những người lính đầu tiên về dưới cờ
mình; xem ra, những ai dính dáng đến cha con ông này đều xúi quẩy, khó bảo toàn
tính mạng. Vậy nên chừng ông mang việc cướp ngôi và trả thù cha ra hỏi, bọn Yết
Kiêu, Dã Tượng đều chối đây đẩy bàn ra [8].
(Toàn thư, Bản kỷ – Trần Anh Tôn).
Một đời Quốc Tuấn quả là bi kịch, luôn thấp thỏm lo lắng
vì bị nghi kỵ, là kẻ “phản tặc tiềm năng” của Trần triều, nên chỉ có tước phong
mà không được nhận chức quan nào. Giặc đến thì ra đứng mũi chịu sào chịu tiếng
cầm đầu, lúc giặc tan ngoe nguẩy đít không, trở về ấp phong Vạn Kiếp. Sắp xuống
lỗ thì lo bị đào mả phơi xương, chừng hiển thánh thì lại bị tên dâm thần Phạm
Nhan dây máu ăn phần, khiến bậc Đại vương lại ra chuyên trị sản huyết cho đàn
bà [9], thương ôi oan nghiệt!
III.
Tác phẩm:
Theo các nhà sử học, tác phẩm của Trần Quốc Tuấn có:
– Dụ chư tỳ tướng hịch văn.
– Binh gia diệu lý yếu lược.
– Vạn Kiếp tông bí truyền thư.
- Dụ chư tỳ tướng hịch văn:
Bài hịch này nguyên văn chữ Hán, có đưa vào sách giáo
khoa môn ngữ văn, với tên thường gọi là Hịch tướng sĩ. Bản dịch đầu tiên là của
Trần Trọng Kim [10]. Đây là lời Trần Quốc Tuấn quở mắng bọn tỳ tướng trong đội
thân binh của riêng mình. Và khi đổi tên nó ra “Hịch tướng sĩ”, người ta đã cố tình khoác cho nó tầm vóc rộng lớn
hơn phạm vi ý nghĩa nó vốn có. Hưng Đạo vương chỉ có thực quyền trên cánh thân
binh của mình; ngoài ra, với các cánh quân của các vương hầu khác, ông đều vâng
lệnh Bí thư Quân ủy Trung ương Trần Nhân tôn điều động, nên không thể có việc
ông ban “huấn thị” cho tướng sĩ cả nước.
Đọc thì thấy ông kể lể ơn đức với những kẻ làm công ăn
lương cho mình:
Các
ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo; không
có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương. Đi
thủy thì ta cho thuyền; đi bộ thì ta cho ngựa…
(Bản dịch Ngô Tất Tố).
Bài văn này lổn nhổn những điển tích, và dẫn chứng
toàn lấy trong sử Tàu, nghi vấn đây là của một tay thầy Tàu nào đó thì phải lẽ
hơn (thuở đó có không ít vong thần nhà Tống chạy sang An Nam đô hộ phủ); thật
khó tin ông hoàng lêu lỗng Quốc Tuấn có thể viết nên nó. Nhất là không ai cổ vũ
tỳ tướng đánh quân Nguyên mà lại lấy… tướng Mông làm gương cả (Cốt Đãi Ngột
Lang là người thế nào? Xích Tu Tư tỳ tướng của ông lại là người thế nào? Vậy mà
xông vào chốn lam chướng xa xôi muôn dặm đánh quỵ quân Nam Chiếu trong khoảng
vài tuần, khiến cho quân trưởng người Thát đến nay còn lưu tiếng tốt) Ngô Tất Tố dịch.
Đọc câu này, người ta có thể ngờ rằng ngay chính Quốc
Tuấn còn chẳng hề ghé mắt xem qua để thẩm tra bài hịch là đàng khác!
Binh thư yếu lược:
Đây là một quyển binh pháp, trong Dụ chư tỳ tướng hịch văn có nhắc: Nay ta chọn binh pháp các nhà, soạn thành một quyển, gọi là Binh thư yếu
lược, tức đây là sách sưu tầm tổng hợp từ binh pháp của Tàu, nhưng sử gia
Việt Nam với truyền thống nói vống lấy oai, thường bảo đây là sách “trứ tác”, tức
do Quốc Tuấn tự nghĩ mà viết ra.
Sách này được cho là đã bị quân Minh cướp lấy mang về
Tàu, và “thất truyền”. Sách dạy đánh giặc của vị thần tướng ba lần đại phá quân
Nguyên, mà Tàu họ không thèm gìn giữ nghiên cứu, lại đốt bỏ hay sao mà bị thất
truyền?
Khoảng năm 1969, có viên tướng phòng không của Tưởng
Giới Thạch, là Mã Nguyên Lương chạy sang Việt Nam Cộng Hòa, để giúp Hộ pháp đạo
Cao Đài Phạm Công Tắc ở Tây Ninh dịch kinh sách. Ông tướng Tàu này mang theo một
quyển sách trời ơi đất hỡi mà ông ta bảo là “Binh
thư yếu lược” của Trần Hưng Đạo. Bản dịch sách đó (có đính kèm cả “Hổ trướng
khu cơ” của Đào Duy Từ) được nhà xuất bản Khai Trí (Sài Gòn) ấn hành.
Xin đặt thẳng câu hỏi luôn vầy:
Đại Việt vào thế kỷ XIII có thể đủ trình để viết binh
pháp hay không? Quân hồi vô phèng, mỗi vương hầu cầm một cánh quân gồm những
trai tráng nông dân trong thái ấp của mình ra trận, và chiến thuật chủ yếu là bỏ
chạy khi giặc đến, đánh vét đuôi khi giặc rút, đúng kiểu du kích, trên một địa
hình sông nước bùn lầy, thì việc hội quân đã là khó, mong gì thao luyện mà nói
chuyện binh pháp trăng sao?
Điểm lại từ xưa, ngoài Binh thư yếu lược (chỉ có cái tên), thì “binh pháp” Đại Việt vỏn vẹn
hai quyển: Hổ trướng khu cơ do Đào
Duy Từ (1572-1634) soạn; Kỷ sự tân biên
của Thận Trai tiên sinh Lương Huy Bích, người đời Lê Mạt soạn vào năm 1869. Và
cả hai đều là sưu tầm tuyển chọn rồi chép lại từ những binh pháp của Tàu, như:
binh thư Tôn Tử của Tôn Vũ, Ngô Tử của Ngô Khởi, Lục thao, Tam lược, Tư Mã pháp,
Uất Liệu tử, Vệ công binh pháp của Lý Tĩnh, Hồ kiềm kinh của Hứa Động, Kinh thể
bát loại toàn biên của Trần Nhân Tích, Kỷ hiệu tân thư của Thích Kế Quang v.v…
và phần dị đoan quỷ thần chiếm phần nội dung lớn các sách này.
Nói tóm lại, tới giữa thế kỷ XIX, mà “binh thư” Đại Việt
vẫn toàn là chép lại từ sách Tàu, với đủ thứ cầu đảo lâm ly, vậy mà người ta lại
cho rằng ở thế kỷ XIII, người mình đã có bộ binh thư trác tuyệt ư? Thiệt là huyễn
tưởng mà, he he!
Vạn Kiếp tông bí truyền thư:
Theo Toàn thư thì Quốc Tuấn sưu tập binh pháp các nhà,
làm thành Bát quái cửu cung đồ, đặt tên là Vạn Kiếp tông bí truyền thư. Cuốn
này cũng chỉ còn lưu lại có “bài Tựa” của Trần Khánh Dư đề, xin chép ra đây:
Người
giỏi cầm quân thì không cần bày trận, người giỏi bày trận thì không cần phải
đánh, người giỏi đánh thì không thua, người khéo thua thì không chết
(Hi hi, mấy ông tướng Trần thiệt là hài hước, khéo nói giỡn chơi!).
Ngày
xưa Cao Dao làm sĩ sư mà không ai dám trái mệnh, đến Vũ vương, Thành vương nhà
Chu làm tướng cho Văn vương, Vũ vương, ngầm lo sửa đức, để lật đổ nhà Thương mà
dấy nên vương nghiệp, thế là người giỏi cầm quân thì không cần phải bày trận vậy.
Vua Thuấn múa mộc và múa lông trĩ mà họ Hữu Miêu đến chầu, Tôn Vũ nước Ngô đem
người đẹp trong cung thử tập trận mà phía tây phá nước Sở mạnh, phía bắc uy hiếp
nước Tấn, nước Tần, nổi tiếng chư hầu, thế là người khéo bày trận không cần phải
đánh vậy. Đến Mã Ngập nước Tấn theo bát trận đồ, đánh vận động hàng ngàn dặm,
phá được Thụ Cơ Năng để thu phục Lương Châu, thế gọi là người đánh giỏi không
bao giờ thua vậy.
Cho
nên trận nghĩa là “trần”, là bày ra, là khéo léo. Ngày xưa, Hoàng Đế lập phép tỉnh
điền để đặt binh chế. Gia Cát [Lượng] xếp đá sông làm bát trận đồ, Vệ công sửa
lại làm thành Lục hoa trận. Hoàn Ôn lập ra Xà thế trận có vẽ các thế trận hay,
trình bày thứ tự, rõ ràng, trở thành khuôn phép. Nhưng người đương thời ít ai
hiểu được, thấy muôn đầu ngàn mối, cho là rối rắm, chưa từng biến đổi. Như Lý
Thuyên có soạn những điều suy diễn của mình, những người đời sau cũng không hiểu
ý nghĩa. Cho nên Quốc công ta mới hiệu đính, biên tập đồ pháp của các nhà, soạn
thành một sách, tuy ghi cả những việc nhỏ nhặt, nhưng người dùng thì nên bỏ bớt
chỗ rườm rà, tóm lược lấy chất thực
(Sách viết rườm rà chi, rồi dặn người đọc tự ý lược bớt?)
[Sách]
gồm đủ ngũ hành tương ứng, cửu cung suy nhau, phối hợp cương nhu, tuần hoàn chẵn
lẻ. Không lẫn lộn âm với dương, thần với sát, phương với lợi, sao lành, hung thần
ác tướng, tam cát ngũ hung đều rất rõ ràng, ngang với Tam Đại, trăm đánh trăm
thắng. Cho nên, đương thời có thể phía bắc trấn ngự Hung Nô, phía nam uy hiếp
Lâm Ấp. Rồi dùng sách này dạy bảo [con cháu] làm gia truyền, không tiết lộ ra
ngoài. Lại có lời dặn rằng: Sau này, con cháu và bồi thần của ta, ai học được
bí thuật này phải sáng suốt mà thi hành, bày xếp [thế trận]; không được ngu dốt
mà trao chữ truyền lời. Nếu không thế thì mình chịu tai ương mà vạ lây đến con
cháu. Thế gọi là tiết lộ thiên cơ đó
(Toàn thư, Bản kỷ – Trần Anh Tôn).
Vậy là đủ hiểu, ba mớ binh thư bí truyền này nếu thực
có, thì hổ lốn linh tinh tý tèo đến độ nào, thiện tai thiện tai!
_______
Chú thích:
[1] Đơn cử Nam hải dị nhơn của Phan Kế Bính chép về Trần
Hưng Đạo:
Khi
trước An sinh vương phu nhân, nằm mơ thấy một ông thần tinh vàng tướng ngọc tự
xưng là Thanh Tiên đồng tử phụng mệnh Ngọc hoàng xuống xin đầu thai, nhân thế
có mang. Đến lúc sinh ra vương, có hào quang sáng rực cả nhà và có mùi hương
thơm ngào ngạt.
Vương
khôi ngô kỳ vĩ, thông minh sớm lắm, lên 5, 6 tuổi đã biết làm thơ ngũ ngôn, và
hay bày chơi đồ bát trận. Khi gần lớn, học rộng các sách, thông hết lục thao
tam lược, có tài kiêm cả văn võ.
Đây là lối viết sử bắt chước tiểu thuyết diễn nghĩa của
Tàu, nghĩa là rất tào lao và vô bổ, nếu không nói là có tác hại.
[2] Cuộc hôn nhân dây cà ra dây muống này lắm lằng nhằng,
trở thành gương mẫu cho các cuộc hôn nhân nội huyết về sau của tôn thất nhà Trần.
Nói “lằng nhằng” là bởi không chỉ rắc rối bên đàng trai, mà còn cù cưa cả bên
đàng gái.
Nguyên Lý Huệ Tôn, ông vua tuyệt tự của triều Lý, có
hai cô con gái: chị là Thuận Thiên (1216), và em là Chiêu Hoàng (1218). Lý
Chiêu Hoàng mới 6 tuổi thì được vua cha truyền ngôi cho. Điện tiền Chỉ huy sứ
Trần Thủ Độ nhân đó mưu soán ngôi nhà Lý, bèn ép Chiêu Hoàng phải lấy Trần Cảnh;
và vẫn chưa yên tâm, vì còn cô chị Thuận Thiên, Thủ Độ mới gả luôn cho Trần Liễu.
Hai anh em họ Trần cưới hai chị em họ Lý, vậy là dứt hậu hoạn, không còn ai
chen vô. Đến chừng Trần Cảnh rước bà bầu Thuận Thiên về, thì đó vừa là chị dâu
vừa là chị vợ, chừng sinh con ra, trong nhà xưng hô lung tung kêu cha gọi chú
lùng tùng xèng, thấy vui!
[3] Bính Thân, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 5
[1236]… Bấy giờ Hiển Hoàng[Trần] Liễu làm
tri Thánh Từ cung, nhân nước to, đi thuyền vào chầu, thấy người phi cũ của triều
Lý liền cưỡng dâm ở cung Lệ Thiên. Đình thân hặc tấu, vì thế mới đổi tên cung
Thưởng Xuân, giáng Hiển làm Hoài vương.
Vào chầu nhân tiện cưỡng dâm, mà vẫn được tước vương,
hai chữ “Thưởng Xuân” cải tên rõ ràng là có ý lấy việc cưỡng dâm kia làm thích
thú. Việc này xảy ra một năm trước khi Trần Liễu bị đoạt vợ, nên ai đó bảo hành
vi kia của Trần Liễu là để trả thù việc bị cướp vợ là không đúng. Trần Liễu hiếp
dâm là làm theo bản năng, không phải hành vi có chuẩn bị với ý đồ trả miếng.
[4] Lúc đó Mông Cổ chưa diệt Nam Tống để thành lập nhà
Nguyên, nên phải gọi trận này là “Kháng Mông” mới đúng.
[5] Trang Wikipedia tiếng Việt nhận định về Trần Quốc
Tuấn: Ông là một trong những người chỉ
huy chính trong việc đẩy lùi ba lần cuộc xâm lược của quân Mông Cổ và về sau là
quân Nguyên-Mông ở thế kỷ 13.
[6] Việt Nam sử lược – Trần Trọng Kim, quyển I, phần
III, chương 6, tiết 11.
[7] Đại Việt sử ký Toàn thư, Bản kỷ – Trần Thái tôn.
[8] Toàn thư bênh vực bào chữa bằng cách nói trớ: Lúc sắp mất, Yên Sinh cầm tay Quốc Tuấn giối
giăng rằng: “Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng
cũng không nhắm mắt được!” Quốc Tuấn ghi điều đó trong lòng, nhưng không cho là
phải. “Không cho là phải”, mà lại để bụng đến nửa thế kỷ sau còn mang ra để hỏi
dọ ý tùy tùng?
[9] Phụ lục Việt điện u linh tập, Lý Tế Xuyên – Lê Hữu
Mục dịch: “Vương trị bệnh tà Phạm Nhan rất
linh nghiệm”.
[10] Việt Nam sử lược – Trần Trọng Kim, 1917.
Tác giả Lê Huy Vinh
--
Nguồn:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét