BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Hai, 22 tháng 12, 2025

HUYẾT DỤ - Bài viết của Khánh Ly, Tri Thư Đạt Lễ



“Khóm lăng khóm huệ nên hàng
 Cúc hoa nấu hoàng lễ khắp ngoài sân
 Màn trướng tán lục tần vần
 Huyết dụ áo lía để chân đứng bầy.”
                        (Phùng Khắc Khoan)
 
Huyết dụ, hay còn gọi là phát dụ, thiết thụ, long huyết,... tên khoa học Cordyline Terminalis Kunth, vốn là cây thân thảo lâu năm, cao chừng một đến hai thước, thân mảnh có nhiều vết sẹo lá rụng. Lá mọc tập trung ở ngọn, hình lưỡi kiếm, dày và dài, có loại đỏ tía cả hai mặt, cũng có loại một mặt đỏ, một mặt xanh. Hoa màu trắng pha tím, nhỏ li ti, quả tròn và mọng. Cây huyết dụ thường mọc hoang khắp các vùng quê Việt Nam.
 
Huyết dụ có vị ngọt nhạt, tính mát, quy vào hai kinh Can và Thận. Cái mát của huyết dụ giúp thanh lọc huyết mạch, tiêu tan ứ trệ. Người xưa dùng lá huyết dụ để cầm máu, tiêu ứ, mát máu, bổ huyết. Các bài thuốc dân gian thường dùng huyết dụ chữa băng huyết, rong huyết ở phụ nữ sau sinh hay sảy thai, trị chảy máu cam, ho ra máu, nôn ra máu, trĩ, lỵ ra máu hoặc sốt xuất huyết. Ngoài ra, cây huyết dụ còn được dùng chữa phong thấp, đau nhức xương khớp, lao phổi, ho gà. Lá huyết dụ tươi hay khô đều dùng được cho y học cổ truyền. Khi phơi khô lá rồi sắc lên, nước thuốc có màu đỏ sẫm như rượu, uống vào vị nhạt, lưu lại hậu vị thanh.
 
Huyết dụ có chứa các thành phần như flavonoid (quercetin glycosid, apigenin glycosid…), saponin steroid, anthocyan (chất đỏ), tanin,... Đây là những hoạt chất có khả năng chống oxy hóa, kháng khuẩn, giảm viêm và ức chế tế bào ung thư. Nghiên cứu ở Trung Quốc và New Zealand cho thấy chiết xuất từ huyết dụ có thể ngăn ngừa tổn thương dạ dày, tăng co bóp tử cung và diệt khuẩn đường ruột. Có thể thấy, khoa học hiện đại cũng xác nhận phần nào tính “linh nghiệm” của loài cây này trong tâm thức dân gian.
 
Trong cảm quan thẩm mỹ Việt, “màu huyết dụ” đã vượt khỏi ý nghĩa thực vật học để trở thành biểu tượng cho cái đẹp nồng ấm. Màu đỏ tím ấy lắng sâu như màu son, ánh chiều tàn, chiếc khăn choàng trên cổ người xưa,... đi vào thơ ca dân tộc như một ẩn dụ của vẻ đẹp, tình yêu và nỗi buồn đã cũ:
 
“Trăng huyết dụ xuống bên đài kỷ niệm,
 Lầu gác xưa nghiêng bóng lấp thời gian.
 Biết chăng ai? Trong giấc ngủ hoang tàn,
 Hồn gỗ đá nặng nề vừa tỉnh giấc.”
                                              (Đinh Hùng)
 
“Ta còn em tiếng trống tan trường.
 Màu thanh thiên lẫn trong liễu rủ
 Đêm hoa đăng tà áo nhung huyết dụ.
 Đất nghìn năm còn mãi dáng kiêu sa.”
                                            (Phan Vũ)
 
“Người qua sông có giữ nụ hôn đầu
 Mùa trôi đi một màu trăng huyết dụ
 Mưa tháng năm đâu trở mình ngái ngủ
 Trong khói sương giọt lệ cũng ngậm ngùi.”
                                      (Nguyễn An Bình)
 
“Em gái trùm khăn chàm
 Điểm loang màu huyết dụ
 Những quả hồi chín rũ
 Vít nặng cành ta em.”
              (Võ Văn Trực)
 
“Tô chi màu son huyết dụ
 Cười lên rớm máu nỗi buồn
 Vẽ chi đôi quầng mắt biếc
 Nhìn lên thăm thẳm trùng dương.”
                           (Phạm Ngọc Lư)
 
                                                                   Bài viết của Khánh Ly
                                                                  Trích từ Tri Thư Đạt Lễ

Không có nhận xét nào: