Hầu hết độc giả Việt Nam ta đều biết đến Kim Dung qua các tác phẩm võ hiệp, cùng vài đầu báo về sự nghiệp và đời sống của cụ. Nhưng ít ai biết được rằng cụ Kim tuy là nhà văn trông có vẻ điềm đạm, nhưng thự sự là một người có phong cách và rất chiến, có vô số chiến tích khóa mồm nhiều lão văn sĩ từ mõm đến pro... Những điều này bên Trung Quốc thì nhiều người biết, nhưng ở Việt Nam thì khá hiếm người rõ chuyện, nên mình có dự định chia sẽ nhiều hơn về vị tác giả đại tìa này, một phần vì thông tin của cụ tại Việt Nam rất ít, một phần vị cụ thực sự là một người có phong cách thú vị không khác gì Nguyễn Tuân của Việt Nam ta, ai có hứng thú thì đọc cho biết, không thì đừng nói lời cay đắng nhá...
---
Trước hết thì ta nên đi từ đầu để dễ dàng nắm rõ hơn, Kim Dung nổi tiếng với các tiểu thuyết võ hiệp, nhưng cụ hoàn thành toàn bộ các tác phẩm của mình trước tuổi 50 và sau đó không hề viết thêm hay khai thác danh tiếng từ các tác phẩm đó như những nhà văn khác. Có điều là thời gian đầu cụ viết theo kiểu nghĩ đến đâu là viết đăng báo đến đấy, nên không thể chỉnh sửa truyện trong các số báo đã đăng, dẫn tới nhiều chỗ chưa nhất quán. Đến năm 1980, khi nhà xuất bản đề nghị in sách các tác phẩm của cụ, dù bận rộn nhưng cụ vẫn cố chỉnh sửa lại, nhưng bản in này vẫn còn không ít thiếu sót. Mãi đến những năm 2000, khi đã nghỉ hưu và có nhiều thời gian hơn, Kim Dung mới thực hiện việc chỉnh lý toàn diện truyện theo đúng ý mình. Thời gian sau 50 tuổi thì cụ Kim theo đuổi học vấn, nghiên cứu lịch sử và đạt được nhiều thành tựu vĩ đại như là giáo sư danh dự của nhiều trường Đại Học, theo học tiến sĩ Oxford… Hiếm có nhà văn nào tinh thông nhiều mặt học thuật được như cụ Kim là vậy
Nay xét theo lý biến hóa của sáu mươi bốn quẻ trong Dịch Kinh: số dương là số lẻ, số âm là số chẵn; hào dương lấy “chín” là lớn nhất (chí dương), hào âm lấy “sáu” là lớn nhất (chí âm), tuyệt không thể dùng bừa. Bởi thế “thượng lục” của quẻ Khôn nói: “Long chiến ư dã, Kỳ huyết huyền hoàng.”`o đó một người có đạo như Hoàng Thường, nếu ưa chuộng số “chín” để đặt tên cho chân kinh, thì ngoài “Cửu Dương” (đã bị Thần Điêu Hiệp Lữ và Ỷ Thiên Đồ Long Ký mượn mất) ra, có thể chọn “Cửu Thiên” (cao không lường), “Cửu Uyên” (nước sâu tột bực) hoặc “Cửu U” (chốn huyền minh), chứ tuyệt đối không thể dùng “Cửu Âm”. Vì đây là điều đã được sở định bởi thượng học đạo gia, liên quan đến cơ chế thịnh – suy của âm dương, dù có là Thái Thượng Lão Quân cũng không thể tùy tiện động đến!
(Trang 342–344, “Đổi trắng thay đen: So sánh bản mới và bản cũ Xạ Điêu Anh Hùng Truyện của Kim Dung” Diệp Hồng Sinh luận kiếm – Tuyển tập bàn về nghệ thuật tiểu thuyết võ hiệp, NXB Liên Kinh, Đài Bắc, ấn bản đầu tiên, tháng 11 năm 1983.)
Đại ý là Diệp Hồng Sinh cho rằng trong đạo gia hay phật giáo đều không hề có khái niệm Cửu Âm, cụ Kim bịa ra cái thuật ngữ này nên không giải thích được nguyên do, toàn tránh đi, dẫn đến sự vô lý rằng những người tài trí như Vương Trùng Dương hay Hoàng Dược Sư cũng không hề thắc mắc cái thuật ngữ Cửu Âm vô lý kia. Bản cũ xem như sai sót coi như bỏ qua, nhưng bản mới Kim Dung cũng không thèm sửa lại thì khác nào xem thường kiến thức độc giả?
“Đạo
gia không có câu chuyện kỳ quái về ‘Cửu Âm’ (Phật giáo cũng không có).” Thực
ra, Hoàng Thường ở thời Tống đã viết “Cửu Âm Chân Kinh”, đây vốn là một sản phẩm
tưởng tượng, và ông chỉ nghiên cứu sách đạo, không hề quan tâm đến “Kinh Dịch”
mà Nho gia tôn sùng, mà trong “Dịch truyện”, đa phần không phải là do Khổng Tử
viết (Theo Quách Nghi sở truyền, có thể một phần trong “Dịch truyện” được Khổng
Tử chỉnh lý). Những tác phẩm này có thể là do các học giả vào cuối thời Chiến
Quốc thuộc Nho gia (hoặc không phải Nho gia) sáng tác, mặc dù nội dung rất tốt,
nhưng ông Hoàng Thường hoàn toàn có thể nói “Đạo của ta bất đồng”, không cần để
tâm. Ông ấy cứ muốn viết “Cửu Âm Chân Kinh”, thì người khác cũng không thể làm
gì được (liệu bạn có thể đánh bại ông ta không?).
Bạn tôi, anh Dương Hưng An có chú thích trong phần cuối của bài viết về tác phẩm “Nguyệt Vân”: “Bạn tôi Diệp Hồng Sinh trong cuốn sách chuyên luận ‘Luận Kiếm’ có nói: ‘Dương hào dùng số chín là cao nhất (chí dương), âm hào dùng số sáu là cao nhất (chí âm)’, do đó không có ‘Cửu Âm’.” Bạn tôi Diêm Tiểu Hành đã tìm thấy trong các sách đạo giáo có cuốn ‘Đế Quân Cửu Âm Kinh’.
Từ “Cửu Âm” lần đầu tiên xuất hiện trong Sơn Hải Kinh, trong phần Đại Hoang Bắc Kinh. Trong cuốn “Đạo Đức Kinh” của Cát Hiên thời Tam Quốc có câu: “Họa diệt cửu âm, phúc sinh thập phương.” “Dịch truyện” là học thuyết của Nho gia và các nhà Âm Dương, họ cho rằng dương quan trọng hơn âm, vì vậy, dương là chín, âm là sáu. Đến thời Tây Hán, để tôn trọng vua, cha, và chồng, Nho gia càng làm mạnh mẽ sự tôn vinh dương và giảm bớt âm, điều này phản ánh nhu cầu chính trị và ý thức hệ, chứ không phải là lý thuyết triết học phù hợp.
Cửu Âm Chân Kinh là võ học Đạo gia, chủ trương nhu có thể khắc cương, âm có thể khắc dương, vì vậy mới gọi là “Cửu Âm”. Còn “Hàng Long Thập Bát Chưởng” đặc biệt chú trọng đến quẻ Càn, tức là dương cương trong võ học, vì vậy là một môn võ dương cương, hoàn toàn khác biệt với “Cửu Âm Chân Kinh”.
Anh Diệp Hồng Sinh nghiên cứu tiểu thuyết võ hiệp hiện đại có công lực rất thâm hậu, tuy nhiên lại đem những suy nghĩ bay bổng trong tác phẩm tiểu thuyết của tôi ra mà nghiêm túc khảo cứu một trận (Cửu âm chân kinh nói về võ học, hoàn toàn không liên quan gì đến âm dương bát quái hay lý thuyết thuật số về “lão âm, lão dương”). Việc này có phần giống như phong thái của Đại sư Giác Viễn, rất nghiêm túc nghiên cứu, khiến người ta phải khâm phục. Tuy nhiên, những ý tưởng ngẫu hứng của tôi lại không phải là học thuật.
---
Đạo gia có lý thuyết về “Dương Cửu” và “Âm Cửu”, cả hai đều chỉ về tai ương lớn, đại họa. “Dương cửu” ám chỉ hạn hán kéo dài chín năm, còn “âm cửu” chỉ lũ lụt kéo dài chín năm. Trung bình mỗi tám mươi năm sẽ có một năm tai họa lớn. Trong Vương Trung Xuân Kỳ của Tào Thực có câu: “Hội tao dương cửu, viêm quang trung mông”, ám chỉ việc phúng viếng tang lễ. Trong bài thơ Từ Quang Tự của Tiền Khiêm Ích có câu: “Than ôi, ba mươi năm qua đã trải qua bao thăng trầm, gần như phải chịu đại hạn dương cửu”. Việc sử dụng cụm từ Cửu dương chân kinh và Cửu âm chân kinh trong tiểu thuyết là sự áp dụng ngược lại, nhằm ám chỉ rằng võ công chứa đựng những tai họa lớn, vì vậy cần phải cẩn thận khi sử dụng.
Trong văn học cổ Trung Quốc, đúng là có những thuật ngữ như “Cửu âm” và “Cửu dương”, điều này không giống như những gì Diệp Quân đã nói rằng “Cửu âm không tồn tại”. Thực ra, “Cửu âm không tồn tại” chỉ vì trong “Dịch truyện” không dùng thuật ngữ “Cửu âm” thôi. Còn những tác phẩm của Hoàng Thường, mặc dù ông nghiên cứu Đạo tạng, không nhất thiết phải tuân theo “Kinh Dịch” trong “Lục Kinh” của Nho gia, ngay cả khi ông coi trọng “Kinh Dịch”, không nhất thiết phải trọng dụng “Dịch truyền”, một tác phẩm được các đệ tử Nho gia biên soạn vào cuối thời Chiến Quốc. Điều này càng không cần phải tôn trọng quan điểm “tôn sùng dương” và “hạ thấp âm” của Tây Hán, cụ thể là Đổng Trọng Thư cường điệu “Dịch Truyện” mà cho rằng cần phải tôn vinh quân vương và tôn trọng “Tam cương” trong thời đại của ông. Các phương thức phù mệnh, vĩ sấm của Vương Mãng và Hán Quang Vũ chỉ là công cụ chính trị tuyên truyền “thiên mệnh là ta”. Võ học đạo gia hoàn toàn có thể mặc kệ những thứ đó.
Trong văn hóa cổ Trung Quốc, “Cửu Âm” chỉ về sự cực thịnh của âm khí. Trong Lão Tử Đạo Đức Kinh có câu: “Tai họa chán ghét âm khí cực thịnh, phúc báo sinh ra khắp mười phương”, nghĩa là âm khí cực thịnh mang lại tai họa, đồng thời ám chỉ vùng cực Bắc, là nơi vắng lặng và âm u nhất. Trong Thiên Đối của Liễu Tông Nguyên có câu: “Quay đầu về Bắc, âm khí cực minh”. Trong Giới Nam Phú của Trần Nhược Thủy có câu: “Chúc cửu âm vu xích thủy hề, địch Phùng Di chi u cung” Phùng Di chính là thủy thần, cư ngụ ở nơi cực bắc. Cửu Dương lại chỉ về mặt trời hoặc nơi mặt trời mọc. Trong Hậu Hán Thư của Trọng Trường Thống có câu: “Sương đương cơm, cửu dương đại đuốc” Trong Sở Từ của Chu Tử có câu: “Triều trạc phát với canh cốc, tịch hi dư thân hề cửu dương”. Trong Cầm Phú của Kê Khang có câu: “quảng tịch nạp cảnh với ngu uyên hề, hi làm với chín dương”.
Trong tiểu thuyết Thần Điêu và Ỷ Thiên, có chi tiết Cửu Âm Chân Kinh tôn chỉ rất nặng về âm nhu, là học thuyết của Lão Tử; còn Cửu Dương Chân Kinh nhấn mạnh sự hòa hợp âm dương điều hòa viện trợ, nhằm điều chỉnh sự lệch lạc trong học thuyết Đạo gia.
Tên gọi “Cửu Âm Chân Kinh” và “Cửu Dương Chân Kinh” được Hoàng Thường và một cao nhân vô danh căn cứ vào đạo thư mà sáng tạo ra, không liên quan gì đến Nho gia, cũng không liên quan gì đến Dịch Kinh, một trong Lục Kinh của Nho gia, và càng không liên quan đến Dịch Truyện được biên soạn vào cuối thời Chiến Quốc hoặc thậm chí là thời Tần Hán. Dịch Truyện ban đầu sáng lập lý thuyết âm dương với “Cửu Dương” và “Lục Âm”, nhưng Hoàng Thường và cao nhân vô danh coi đó là những quan điểm hoang tưởng. Giống như triết lý của Lão Tử có nhiều yếu tố biện chứng sơ đẳng, không thể lấy biện chứng học của Hegel, Engels, hay Marx để chỉ trích Lão Tử. Lão Tử có câu: “Tri kì bạch, thủ kì hắc” (Biết trắng, giữ đen), chữ “Hắc” ở đây không phải là Hegel; công Tôn Long có câu: “Bạch mã phi mã” (Ngựa trắng không phải là ngựa), chữ “Mã” ở đây cũng không phải là Marx.
Các bạn trẻ muốn học Dịch Kinh có thể tham khảo các tác phẩm của các vị tiên sinh như Chu Bá Côn, Cao Hanh, Trương Đại Niên, Tiền Mục, Hầu Ngoại Lư, Nhậm Kế Dũ, Lý Kính Trì, Phùng Hữu Lan, Lý Học Cần, Trần Cổ Ứng. Những gì tôi nói về “Cửu Âm” hay “Nhất Dương” trong các tiểu thuyết của mình thuộc về văn chương giải trí, không thật sự có ý nghĩa thực tế, không cần phải nghiêm túc chú trọng vào đó.”
=> Cụ Kim đã cho mọi người thấy Diệp Hồng Sinh bắt bẻ tào lao
=> Ngoài việc vặn họng Diệp Hồng Sinh, cụ Kim còn thể hiện thêm mình có kiến thức chuyên sâu, đọc nhiều sách vở, càng chứng tỏ lão Diệp nghiên cứu không tới đâu bày đặt đi phê bình.
*

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét