Nhà
văn Dương Thu Hương là nhà văn nổi tiếng nhất trong dòng văn học hiện thực tại
Việt Nam những năm 80. Hầu như sách của bà in ra đều bán hết rất nhanh. Mặc dù
những năm đó, chuyện mua sách là xa sỉ đối với đồng lương eo hẹp và cuộc sống
thiếu đói của tầng lớp công nhân lao động. Bài viết của nhà văn Đỗ Trường và lời
nhận xét của Giáo sư Huệ Chi dưới đây về những cuốn sách hiện thực chiến tranh
đã đẩy bà vào chốn lao tù CS, đã cho ta thấy một Dương Thu Hương đáng kính nể
thế nào.
Lời
dẫn của GS Huệ Chi
Tôi có may mắn được con mắt xanh của nhà nghiên cứu
Hoàng Ngọc Hiến để ý, mời làm giảng viên chính Trường viết văn Nguyễn Du ngay từ
khóa I, khóa của những người viết văn xuất thân quân ngũ vừa rời chiến trường
trở về được dăm năm, những người năng khiếu văn chương nẩy nở cùng với quá
trình đem sinh mạng mình cọ xát với cái chết, nhìn ngắm và chiểm nghiệm nó ở cự
ly gần, nên gần như cả một thế hệ – chỉ dám thu hẹp trong phạm vi một khóa học
– đều trở thành những cây bút có bản lĩnh và bản sắc. Trong số đó, Dương Thu
Hương là một người nổi bật và trường sức. Trớ trêu cho tôi, khi giảng bài có chị
ngồi ở dưới, tôi chưa kịp nhận ra điều này. Vào năm 1983, khi Viện Văn học tổ
chức một hội thảo khoa học được coi là quan trọng “35 năm văn học cách mạng miền
Nam” (tính từ 1959), tôi được phân công làm người ghi âm những bài phát biểu miệng,
trao đổi ý kiến trực tiếp trên diễn đàn. Tôi đã ghi không sót bất kỳ ai, kể cả
những người nói những lời nhàm chán nhất. Thế nhưng khi đến lượt Dương Thu
Hương giơ tay, không hiểu sao tôi lại tắt công tắc. Một tâm lý coi thường học
trò nằm trong vô thức chăng? Có lẽ. Thì có ngờ đâu đấy lại là diễn ngôn ứng tác
xuất sắc nhất trong cả cuộc hội thảo. Nó cũng bộc lộ một cá tính mạnh, dám phơi
trần sự thật, của cây bút Dương Thu Hương sau này. Tôi nhớ đinh ninh, đó là lần
đầu, trên một diễn đàn chính thống và công khai, có những điều cấm kỵ được nêu
lên thẳng băng không chút dè dặt; như việc chị nói: “đưa một nhà thơ lên giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng phụ trách
kinh tế thì tránh sao khỏi đất nước đói rã họng”... Sau cuộc họp tôi cứ tiếc
ngẩn tiếc ngơ như người đánh mất một vật quý; tiếc vì bỏ qua đi một cơ hội để
có được một bài nói xuất thần của người học trò mà đến lúc ấy mình vẫn chưa
nhìn thấy hết tài năng. Nhân bài viết của Đỗ Trường đăng lại dưới đây, gọi là
có mấy lời tạ lỗi với nhà văn.
Việc nghiên cứu Dương Thu Hương, đáng ra phải được coi
là một trọng điểm của bộ môn nghiên cứu văn học đương đại, bởi do hoàn cảnh éo
le, chị là một hiện tượng đặc thù có trong mình cả hai tiến trình từng diễn ra
trong một thời đoạn đặc biệt của văn học Việt Nam – văn học miền Bắc sau chiến
tranh và văn học lưu vong hải ngoại sau đó – có chỗ đồng điệu và cũng có chỗ
khác với các nhà văn miền Nam sau 1975 ra định cư và sáng tác ở nước ngoài. Nói
chị trường sức, vì cũng có người được bạn đọc gửi gắm rất nhiều hy vọng như Phạm
Thị Hoài, Đỗ Hoàng Diệu... nhưng một ra đi là... ngừng sáng tác.
Rất tiếc, sự bứt phá của công cuộc đổi mới ở Việt Nam
từ sau 1986 đã không đi đến đâu, hay đúng hơn là mới chỉ đi được một bước đã phải
thụt lùi, nên những ý tưởng khoa học như nói ở trên không thể nào thực hiện được
vì bị quy chiếu ngay vào chính trị (một quan điểm lầm lẫn tai hại của cả con mắt
an ninh văn hóa lẫn con mắt tuyên huấn). Dù sao, trước sau thế nào lịch sử văn
học dân tộc cũng phải làm việc đó. Không phải chỉ Dương Thu Hương mà các nhà
văn hải ngoại khác, sớm muộn sẽ trở về ngồi đúng vị trí của họ trên văn đàn. Nếu
có ai chê cười đi nữa thì người viết mấy dòng này vẫn giữ niềm tin vững chắc ở
điều mình nghĩ, không ngại bị coi là dự báo vớ vẩn hay ảo tưởng.
Xin bạn đọc hãy gắng chờ xem.
GS Nguyễn Huệ Chi
DƯƠNG
THU HƯƠNG-NGƯỜI ĐI GIỮA HAI LÀN ĐẠN Đỗ Trường
Không hiểu thế quái nào, từ những thập niên
cuối của thế kỷ hai mươi đến nay, văn chương đất Việt, lại mắc phải
chứng bệnh lệch pha. Âm phần thịnh vượng khí xung. Dương phần sợ gió
máy, đụng chạm chướng khí, đâm ra lại còi cọc. Điều này, càng rõ
ràng hơn, ngay sau khi ông Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh hứa hẹn cởi
trói, bóc keo dán miệng cho văn nghệ sỹ. Chúng ta thấy, đã xuất hiện
một loạt tên tuổi của những văn nhân, nữ sĩ, từ Dương Thu Hương, Võ
Thị Hảo, đến Phạm Thị Hoài… Sự can đảm, tiếp nối nhau ấy của họ,
tuy ở những mức độ khác nhau, nhưng đã góp phần không nhỏ, cho sự
hồi sinh dòng văn học hiện thực phê phán.
Cho đến tận hôm nay, vẫn có những ý kiến, đôi
lúc còn khác nhau, nhưng có lẽ, không ai có thể phủ nhận, nhà văn
Dương Thu Hương là người đã bập nhát cuốc đầu tiên, khơi thông dòng
chảy này.
*Có
một giai điệu lạ, lạc ra khỏi trong dàn đồng ca ấy.
Tôi không rõ, chính ông Tổng bí thư Nguyễn Văn
Linh, hay văn kiện của Đảng, hoặc ai đó đã viết: TBT Nguyễn Văn Linh
kêu gọi, hãy cởi trói cho các văn nghệ sĩ. (Như vậy, có sự khẳng
định, từ trước đến nay, các văn nghệ sĩ đã bị trói tay, bịt miệng)
Câu văn này, đã được nhắc lại nhiều lần, trong bài viết của các
giáo sư, các nhà ngôn ngữ học và từ cả các văn nghệ sĩ ở trong
nước. Đọc nó, tôi thấy rất mâu thuẫn và dường như có một chút hề
hề. Bởi, Đảng cộng sản là đảng cầm quyền. Từ trước đến nay, chính
Đảng (mới đủ khả năng) trói tay, bịt miệng các văn nghệ sỹ và kiểm
duyệt sách báo. Vậy, ông TBT đứng đầu đảng kêu gọi ai, cởi trói cho
các văn nghệ sĩ? Khi chính ông thắt và đang cầm cái dây đó. Hay ông
đang kêu gọi chính ông? Người bình thường, không ai, làm một công việc
kỳ quái như vậy.
Vâng! Một lời kêu gọi, rặt tính vờ vịt, vô
trách nhiệm, chạy tội này, không hiểu các giới trí thức trong nước,
có suy nghĩ gì, khi sử dụng câu văn này?
Phải nói, đây là thời kỳ khởi sắc nhất của
văn học trong nước, kể từ sau Nhân Văn - Giai Phẩm. Một loạt tên tuổi
nhà văn và các tác phẩm của họ, đã tách hẳn ra khỏi dàn đồng ca,
tụng ca, tìm một hướng đi, cách viết mới, rửa lại bộ mặt nhem nhuốc
cho nền văn học trong nước. Những Thân
Phận Tình Yêu (Nỗi Buồn Chiến
Tranh) của Bảo Ninh, Tướng Về Hưu
của Nguyễn Huy Thiệp… gắn liền với tên tuổi của bà đỡ Nguyên Ngọc.
Thiết nghĩ, dù có đổi mới, có cởi trói cho văn nghệ sĩ, nhưng nếu
không có Nguyên Ngọc, khao khát cái mới của người đọc ở thời điểm
ấy, thì những tác phẩm trên chưa chắc đã thành công đến như vậy.
Bởi, đến nay, có nhiều tác phẩm, xét về nghệ thuật cũng như nội
dung, không hề thua kém Nỗi Buồn Chiến
Tranh, hay Tướng Về Hưu, nhưng
lại không được công kênh, chào đón nồng hậu như vậy, vì thiếu địa
lợi, vắng nhân hòa và bàn tay bà đỡ như Nguyên Ngọc. Quả thực, văn
chương thơ phú, cũng như con người, đều có số phận của nó.
Khi các nữ sĩ Dương Thu Hương, Võ Thị Hảo, Phạm
Thị Hoài…vẫn đủ can đảm và nội lực viết thẳng tưng về những vấn
đề nhức nhối nhất của xã hội, con người, thì các đấng văn nhân
dường như, ngòi đã bị xì, bị tịt. Người đọc, chờ cuốn tiểu thuyết
kế tiếp của Bảo Ninh, đến nay, đã một phần tư thế kỷ, nhưng vẫn
thấy tít tắp mù xa. Nguyễn Huy Thiệp lại chuyển sang (gam) truyện
dài, tiểu thuyết lịch sử, nhưng anh đã thất bại, về cả nội dung, tư
tưởng lẫn nghệ thuật viết. Gần đây, nghe nói, anh tuyên bố, rửa tay
gác bút.
Thật là buồn thay! Các nhà văn thuở ấy, hồn
khí ở nơi đâu bây giờ?
Nhà văn Dương Thu Hương, sinh năm 1947 tại Thái
Bình, chị đã có những năm tháng dài là người lính, ở mặt trận ác
liệt Bình Trị Thiên. Rất may mắn, chị còn sống và trở về, sau chiến
tranh. Giải ngũ, chị vào học trường viết văn Nguyễn Du và làm việc
trong ngành điện ảnh. Và từ đây, chị chuyên tâm, và hoàn toàn dấn
thân vào con đường văn chương đầy khổ ải này.
Có thể nói, trong chiến tranh, Dương Thu Hương đã
mờ mờ nhận ra, không riêng thế hệ chị, mà cả một dân tộc bị dối
lừa. Nhưng chỉ đến khi, kết thúc cuộc chiến, chị mới nhận thức được
rõ ràng, đầy đủ. Đắng cay là như vậy, nhưng dường như, Dương Thu Hương
đã kịp kìm lại nỗi đau ấy. Sự dồn nén, đợi chờ đó, nó chỉ phát
nổ và cháy lên, khi chị đã có một chỗ đứng, và trở thành nhà văn
Dương Thu Hương nổi tiếng.
Thật vậy, những bài văn chính luận, những trang
sách hiện thực phê phán của chị đã phơi trần những sự thật, từ cung
đình xuống đến đời sống dân cày. Để từ đó, Dương Thu Hương đã xổ
toẹt Đảng, ly dị hội nhà văn. Và cánh cổng nhà tù, đã mở ra cho
chị từ đây…
Có một số nhà văn, nhà nghiên cứu cho rằng,
những tác phẩm của Dương Thu Hương gây tiếng vang và đọng lại trong
lòng người, phần nhiều do chính trị. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy.
Bởi, chị đã đứng hẳn về phía nhân dân để viết. Và chính sự thật
trong những cuốn sách của chị, đã mở cửa, cho độc giả nước ngoài,
tiếp cận và hiểu đúng về văn học Việt, cũng như nỗi thống khổ của
con người. Từ đó, làm tên tuổi của chị gần gũi, và được người đọc
trong, ngoài nước yêu mến nhiều hơn, là lẽ đương nhiên.
Tuy đến với văn chương hơi muộn, nhưng Dương Thu
Hương viết nhanh và khỏe. Kể từ năm 1980, đến những năm cuối thập niên
chín mươi, dường như năm nào chị cũng ra sách. Đặc biệt, năm 1985, chị
cho in ba, bốn tập truyện ngắn và tiểu thuyết. Viết nhanh và khỏe như
vậy, nhưng có thể nói, tập truyện nào của Dương Thu Hương cũng hay,
nhiều người tìm đọc, kể cả những truyện ngắn đầu tay. Tư tưởng,
cách viết của chị đã vượt ra khỏi cái dàn đồng ca, tụng ca ấy. Và
cũng chính nó, đã xé toạc bóng tối của đời sống con người, xã
hội, mà bấy lâu nay người ta cố tình che đậy. Thật vậy, nếu văn
chương không đi thẳng vào đời sống xã hội, một cách trung thực nhất,
thì nó chỉ là những trang viết chết.
Nếu như được phép lựa chọn, những cuốn sách
đại diện cho sự nghiệp văn chương của Dương Thu Hương, thì chắc chắn,
tôi sẽ nghĩ đến tiểu thuyết Những
Thiên Đường Mù và tập truyện Chân
Dung Hàng Xóm. Đây là hai cuốn sách điển hình về tư tưởng, nghệ
thuật viết truyện của chị. Nhưng nhìn từ góc độ khác, Tiểu Thuyết Vô Đề (Khải Hoàn Môn),
lại là cuốn sách tôi thích hơn cả. Bởi Dương Thu Hương rất can đảm,
đánh giá lại, đưa ra cái nhìn rất mới về chiến tranh, ngoài ra còn
nhiều chi tiết, tình huống phức tạp, dễ gây tranh luận với lối hành
văn nhanh, sinh động, khác với cách viết thông thường của chị.
*Nhà
văn phản kháng - Sự phản kháng trong văn chương
Cùng với Nỗi
Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh, Tháng
Ba Gãy Súng của Cao Xuân Huy, Tiểu
Thuyết Vô Đề là cuốn sách viết về chiến tranh hay nhất mà tôi đã
được đọc. Có thể nói, Tiểu Thuyết
Vô Đề là cuốn tự truyện trong tiểu thuyết, mổ xẻ tâm lý người
lính, trước sự tàn nhẫn man rợ của chiến tranh. Cuốn sách này, được
xuất bản ở Hoa Kỳ vào mùa hè năm 1991, khi Dương Thu Hương đang ngồi
tù ở Việt Nam. Đặt bút viết Tiểu
Thuyết Vô Đề, chắc chắn, chị đã lường trước được áp lực không
chỉ của chính quyền trong nước, mà còn cả phần đông người Việt ở
nước ngoài. Nhưng chị đã vượt qua cả hai làn đạn ấy, để có một tác
phẩm văn học, hay đến như vậy. Thì quả thật, làm cho người đọc không
chỉ yêu mến tài năng, mà còn cảm phục, tinh thần, lòng dũng cảm của
chị.
Có thể nói, khuynh hướng mới, tự truyện trong
tiểu thuyết gần đây, đã cho người đọc hiểu được tác giả và cuộc
sống, thời đại đó, soi rọi qua chính những tình tiết, gắn liền cuộc
đời hay những trải nghiệm thật của họ. Tiểu Thuyết Vô Đề cũng vậy, nhà văn Dương Thu Hương, đã
dùng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, thay cho Quân, thuật lại thân
phận, cuộc đời người lính chiến. Tư tưởng, cảm xúc của tác giả,
được thông qua sự hồi tưởng, hành động nhân vật, bằng thủ pháp bẻ
đôi câu chuyện, cắt ngang cuộc đời Quân. Và lời tự thuật của người
lính, được bắt đầu từ nhát cắt ấy.
Ngay những dòng đầu tiên, Dương Thu Hương đã dẫn
người đọc vào cận cảnh rùng rợn của cuộc chiến. Dù không có tiếng
bom rơi, đạn nổ, nhưng ta đã cảm được cái chết ở đâu đó, hoặc nó
đang đến rất gần:
“Suốt
đêm tôi nghe gió hú ngoài vực cô hồn.Tiếng rên rỉ triền miên, tiếng nức nở, đôi
lúc tiếng rít hỗn hào như ngựa cái hí ngày động cỡn. Mái lán rung bần bật, những
ống tre nứt thổi sáo từng hồi, tấu lên giai điệu thê lương của đám tang vùng
thôn dã. Cây đèn chai của chúng tôi phập phù như muốn tắt. Tôi thò cổ khỏi
chăn, thổi tắt ngọn lửa, mong bóng đêm sẽ bịt hết mọi giác quan…” (chương1)
Vâng! Đó là cái chết tang thương của sáu cô gái
ở binh trạm hay thanh niên xung phong, người miền Bắc, mà tác giả cho
rằng, (có thể) do những người lính thám báo VNCH gây ra. Chi tiết
này, gây ra phản ứng, tranh cãi cho người đọc, nhất là những người
lính VNCH. Như có lần tôi đã viết, là người sinh sau đẻ muộn, rất
may, tôi không phải tham gia, cuộc chiến huynh đệ tương tàn, đẫm máu và
nước mắt này. Nhưng đọc và nghe, tôi cảm được quân kỷ, cũng như phẩm
chất của người thám kích nói riêng và người lính VNCH nói chung. Cho
nên, đến lúc ngồi viết những dòng chữ này, tôi vẫn không tin, hành
động dã man bỉ ổi đó, do một số người lính thám báo gây ra. Nhưng,
đọc Tháng Ba Gãy Súng của người
sĩ quan VNCH Cao Xuân Huy, viết về hành động giết chính đồng đội
mình, của lính thủy quân lục chiến, rồi quăng xác xuống biển, chỉ
vì chỗ ngồi trên tàu, khi di tản, rút chạy, làm tôi thấy khó hiểu.
Buộc tôi phải hoài nghi: Sự quân kỷ của lính thám báo VNCH, có lẽ,
nó lại nằm trong cái (xác suất) số dư như trong toán học chăng?
Sự giết chết đồng đội của nhóm lính thủy quân
lục chiến, giữa chốn đông người, tôi cho rằng, còn dã man, tàn bạo
hơn nhiều lần, so với những kẻ đã giết 6 nữ thanh niên xung phong, là
người của phía bên kia.
Tôi hoàn toàn, không tìm ra lời giải đáp. Và
tôi chỉ còn có thể an ủi mình: Chiến tranh điều gì cũng có thể xảy
ra.
Vâng! Chúng ta nghĩ gì? Khi đọc đoạn trích hồi
ký dưới đây:
“…Chưa
kịp tìm chỗ ngồi, tôi nghe một tiếng súng nổ.
Hai
người lính Thủy Quân Lục Chiến cúi xuống khiêng xác một người lính Bộ Binh vừa
bị bắn chết ném xuống biển. Một người lính Thủy Quân Lục Chiến khác đang gí
súng vào đầu một trung úy Bộ Binh ra lệnh:
“Ðụ
mẹ, có xuống không?”
“Tôi
lạy anh, anh cho tôi đi theo với.”
“Ðụ
mẹ, tao đếm tới ba, không nhảy xuống biển tao bắn.”
“Tôi
lạy anh mà, tôi đâu có gia đình ở ngoài này.”
“Ðụ
mẹ, một.”
“Tôi
lạy anh mà, anh đừng bắt tôi ở lại, anh muốn lạy bao nhiêu cái tôi cũng lạy hết.
Tôi lạy anh, tôi lạy anh.”
“Ðụ
mẹ, hai.”
“Trời
đất, mình đồng đội với nhau mà, anh không thương gì tôi hết. Tôi lạy anh mà.”
“Ðụ
mẹ, ba.”
Tiếng
ba vừa dứt, tiếng súng nổ.
Người
trung úy Bộ Binh ngã bật ngửa ra, mặt còn giữ nguyên nét kinh hoàng. Viên đạn
M-16 chui vào từ đỉnh đầu. Xác của anh ta được hai người lính Thủy Quân Lục Chiến
khác khiêng ném xuống biển.
Tên
lính vừa bắn người thản nhiên tiếp tục chĩa súng vào đầu một thiếu tá Bộ Binh
đang sợ hãi nằm mọp người ở cạnh đó, mặt lạnh băng đầy sát khí:
“Ðụ
mẹ, tới thằng này, mày có xuống không?”
Ông
thiếu tá Bộ Binh này hơi lớn tuổi, mặt cắt không còn hột máu, run lên cầm cập,
năn nỉ:
“Anh
tha cho em, anh tha cho em.”
“Ðụ
mẹ, một….”
(Tháng ba gãy súng –chương 5- Cao Xuân Huy)
Vâng! Tôi cũng định dừng sự việc đau đớn này ở
đây, bởi tình tiết trên, không phải là điều chính, tôi muốn viết,
muốn bàn trong bài này. Nhưng trời đã về khuya, màn đêm dày đặc
trước ô cửa, không có gió, mà lòng cứ thấy nao xao, buộc tôi phải
bật dậy. Tôi ngồi, viết những suy nghĩ của mình, gửi cho hai người
anh văn chương lớn tuổi. Các anh là sĩ quan cấp tá quân đội VNCH, đều
chỉ huy trung đoàn ngoài mặt trận. Rất may, cả hai anh đều viết, trả
lời những thắc mắc, suy nghĩ của tôi. Tuy nhiên, là kẻ hậu bối, tôi
không dám, không đủ khả năng kết luận đúng sai. Nhưng khi đi sâu vào
phân tích Tiểu Thuyết Vô Đề, tôi giữ nguyên những tình tiết vốn có
trong tác phẩm.
Và cũng xin phép các anh, tôi đưa nguyên văn bức
thư ấy lên đây, để bạn đọc tự suy xét, có đánh giá của riêng mình
vậy:
“1/-
Lính thám báo (biệt kích) hầu hết đều được chọn lựa rất kỹ càng, sau đó cũng phải
trải qua một thời kỳ huấn luyện nghiêm khắc. Không phài chỉ có khả năng tác chiến,
mưu sinh giỏi mà quan trọng là tinh thần kỷ luật rất cao. Tất cả đều đáng tin cẩn.
Vì các toán thám báo hoạt động đơn độc và hầu hết trong các công tác thật nguy
hiểm, nếu không có kỷ luật, họ sẽ không thi hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh của cấp
chỉ huy, nhất là trong tình trạng sinh tử. Vì vậy, việc nhà văn Bảo Ninh (hay
là Dương Thu Hương) kể về hành động của tham báo (biệt kích) trong các tác phẩm
của họ, dưới con mắt của người lính miền Nam, sẽ trở nên quá cường điệu, nếu
không nói là… không thể.
Điều
nên nhớ là nhiệm vụ chính của lính thám báo hay biệt kích là đột nhập (âm thầm)
vào vùng địch để ghi nhận tin tức, tình hình của quân địch, hay bắt sống địch
mang về khai thác. Chỉ nổ súng khi thực sự cần tự vệ (nếu bị phát hiện), và
nhanh chóng phân tán, tìm mọi cách thoát ra khỏi vùng địch. Với họ, nổ súng là
điều tối kỵ và bất lợi nhất. Như vậy các sự kiện (theo Bảo Ninh và DTH) kể: các
thám báo bắt địch quân (lính gái hay TNXP) tra khảo, hảm hiếp… (nhẫn nha ngay
trong lòng địch một thời gian khá dài) là điều không đúng !
2/-
Về chuyện đám lính TQLC bắn giết các quân nhân không cùng binh chủng trên các
tàu di tản từ Đà Nẵng (theo Tháng Ba Gãy Súng của Cao Xuân Huy) là chuyện có thật.
Là một vết nhơ đáng lên án. Nhưng bản chất sự việc khác hẳn với chuyện Thám
Báo.
Vì
đám lính này thuộc loại vô kỷ luật. (Có nhiều thanh niên du đảng, phạm pháp,
sau thời gian thụ xong án, cũng được đưa vào lính, bổ sung cho một số đơn vị
hao hụt quân số). Với bản chất (xấu) ấy, lợi dụng khi đơn vị gặp lúc xáo trộn,
mạnh ai nấy sống, không còn được sự chỉ huy chặt chẽ nữa, thì những con người
này trở về với bản chất xấu của họ, giết người, cướp bóc. Vì vậy, sau khi các
chiếc tàu di tản từ miền Trung vào Nam, đã không cho cặp bến Vũng Tàu hay Sài
gòn, mà tất cả được lệnh cặp vào Đảo Phú Quốc. Một Tòa Án Mặt Trận đã được
thành lập khẩn cấp tại đây, hầu hết những người lính TQLC phạm tội đều bị xử bắn.
Do
đó, theo mình, những tên lính lưu manh. phạm tội này, không thể so sánh với những
người lính thám báo hay biệt kích. Khác nhau rất xa, mà người sĩ quan miền Nam
nào cũng nhận thấy khác biệt rất rõ ràng.”
Tuy có lần, nhà văn Dương Thu Hương đã tuyên bố,
dùng văn chương để làm chính trị. Nhưng khi đọc, nghiên cứu, tôi thấy
những tác phẩm của chị được chia thành hai mảng, chính luận và văn
hiện thực phê phán nhân đạo, rất rõ ràng. Nếu như, văn chính luận
của chị đanh thép, quyết liệt, hừng hực sức chiến đấu chống bạo
quyền, làm nên tên tuổi nhà văn phản kháng Dương Thu Hương, thì văn học
hiện thực, nhân đạo xoáy sâu vào nỗi đau của con người, xã hội, lại
làm nên một nhà văn Dương Thu Hương can trường và tài hoa khác.
Phải nói thẳng, từ sau Nhân Văn - Giai Phẩm bị
đàn áp, đến năm đầu đầu thế kỷ này, chưa có nhà văn nào, can đảm
viết thẳng thắn, máu lửa như Dương Thu Hương. Những ngày tháng tù đày
ấy, dường như càng làm cho tinh thần chị vững vàng và can đảm hơn
lên. Những bài viết, những trang sách của chị, không chỉ còn là nhát
dao chọc vào ung nhọt của xã hội nữa, mà nó như trái bom, dội xuống
đầu chế độ và nhà cầm quyền. Do vậy, sách của chị, cho đến nay,
hoàn toàn bị cấm xuất bản và phát hành trong nước.
Việc cấm xuất bản và phát hành, kể cả những
cuốn sách văn học hiện thực nhân đạo, của những nhà văn Dương Thu
Hương, Võ Thị Hảo, Phạm Thị Hoài… gần đây, cho thấy rõ một điều,
nhà nước chưa bao giờ từ bỏ lý lịch hóa, chính trị hóa văn học.
Với cách quản lý văn hóa, nhưng lại thiếu văn hóa, ích kỷ, thiển
cận như vậy, gây thiệt thòi cho người đọc và tổn hại cho cả nền văn
học, vốn dĩ đã èo uột.
*Hệ
quả quái thai được sinh ra từ chiến tranh.
Ngược dòng lịch sử, đất Việt ta đã trải qua
bao phen chống ngoại xâm và những năm tháng dài nội chiến, chém ngang
hình đất nước, nhưng chưa cuộc chiến nào tàn nhẫn, man rợ như cuộc
chiến huynh đệ tương tàn vừa qua. Chủ thuyết nào, ý thức hệ nào, đã
ấn súng, ấn dao vào tay học sinh, sinh viên, và cả những người nông
dân chất phác, hiền lành, để họ lao vào nhau chém giết, một cách
thú vật, điên cuồng như vậy?
Một câu hỏi tưởng chừng đơn giản, vậy mà, trải
qua mấy chục năm và bao thế hệ, không tìm ra câu trả lời. Bởi, lời
giải đáp ấy, đã được che giấu, bằng họng súng và tù đầy. Và chỉ
đến khi, người nghệ sĩ, nhà văn Dương Thu Hương dám đánh đổi tù đày,
thì sự thật mới được phơi bày. Một sự thật, ai cũng biết, nhưng
không đủ can đảm nói và viết ra.
Để viết những trang sách này, Dương Thu Hương đã
bước ra khỏi cuộc chiến, ra khỏi hận thù, để tìm góc nhìn trung
thực nhất. Thông qua lời tự thú của Quân, nhà văn không chỉ vạch trần
tội ác dã man tàn bạo, của người lính miền Bắc, mà còn vạch ra
hành động vô nhân đối với đồng loại của người lính thám kích miền
Nam. Chúng ta, đọc lại đoạn trích dưới đây, để thấy được cách giết
người man rợ của người lính miền Bắc:
“…Hùng
thường nghĩ ra những cách giết người đặc sắc trong các trận giáp lá cà. Và gã kể
lại cho đồng đội nghe với khoái cảm không che đậy. Kẻ thì gã xọc lê từ họng xuống
tim, – kẻ gã chọc từ nách bên phải qua bên trái, – kẻ gã lại đâm từ hạ bộ ngược
lên ở bụng. Kỳ thú nhất là một lần đánh ấp, gã bò vào phòng riêng một tên sĩ
quan nguỵ, chờ tên này dính chặt với cô vợ trắng phôm phốp của y như một cặp cá
thờn bơn, gã mới phóng lê từ trên xuống ‘Một xọc xuyên hai, bảo đảm là sướng mắt…’
”.(chương
11)
Khi người lính miền Bắc, đang sung sướng, vui
mừng, tìm ra những kiểu giết người mới, thì người lính miền Nam lại
điên cuồng với những với những kiểu hãm hiếp, giết người thời trung
cổ:
“…Chúng
tôi hướng vào góc rừng đã tỏa ra mùi thối khủng khiếp mà đi. Tới vực cô hồn, gặp
sáu cái xác truồng. Xác đàn bà. Vú và cửa mình bị xẻo, ném vung vãi khắp đám cỏ
xung quanh.
Nhờ
những tấm khăn dù, nhờ những chiếc cổ áo sơ mi kiểu lá sen tròn và hai ve nhọn
mà chúng tôi nhận ra đấy là những người con gái miền Bắc. Có lẽ họ thuộc một
binh trạm hoặc một đơn vị thanh niên xung phong cơ động nào đó bị lạc. Cũng có
thể họ đi kiếm măng hoặc rau rừng như chúng tôi rồi vấp bọn thám báo.
Chúng
đã hiếp các cô tàn bạo trước khi giết! Những cái xác bầm đập méo mó! Da thịt
con gái nõn nà tươi thắm vậy mà khi chết cũng thối rữa y như da thịt một lão
già phung lỡ hay một con cóc chết! …” (chương 1)
Viết đến những hình ảnh man rợ này, chợt làm
tôi nhớ đến câu chuyện, hơn bốn mươi năm trước. Tôi có người chị họ
khá xinh đẹp, làm việc ở Hòa Bình. Đầu những năm 1969-1970, chị đang
là đối tượng kết nạp Đảng. Thời kỳ đó, thương binh, bộ đội người
miền Nam ra Bắc tập kết, an dưỡng khá đông. Thành phần này, rất được
chính quyền ưu đãi. Bọn này, thường tụ tập bầy đàn, rượu chè, ăn
nhậu, không chịu trả tiền, đập phá, đốt nhà, đánh người vô cớ…
Nhưng chính quyền thường làm ngơ. Không hiểu sao,
có một thương binh quê ở miền núi An Khê, Bình Định, đem lòng yêu người
chị họ tôi. Lúc đầu, chị không chịu, nhưng có lẽ, do sắp xếp của tổ
chức hay vì cái thẻ Đảng viên, nên chị gật đầu. Cưới được một thời
gian, chị dẫn hắn về nhà tôi chơi. Bữa tối, mẹ tôi mua lòng lợn, đãi
khách. Cả nhà đang ăn ngon lành, tự nhiên hắn kể chuyện chiến trường.
Đến đoạn giết tù binh, lấy gan xào với rau rừng ăn, làm cả nhà buông
bát đứng dậy. Lúc đó, tôi hơn chục tuổi, nhưng do tính tò mò, ngồi
nghe hết câu chuyện ăn gan người của bọn hắn. Theo hắn, bọn hắn ăn
thịt đồng loại, không hẳn là vì đói, mà cần cảm giác và ăn cho
biết vậy thôi. Sau năm 1975, hắn cũng không chịu về quê Bình Định. Sau
này, nghe nói hắn bị điên. Không rõ, bị điên vì bị vợ bỏ, hay bị
vật, bởi những linh hồn người, hắn đã ăn gan xẻ thịt.
Không ai có thể giải thích được, những cái
quái đản, mà người ta đã đưa vào cuộc chiến này. Nó như những thứ
bùa ngải hận thù, không chỉ nhử một dòng họ, gia đình, anh em, mà
cả dân tộc lao vào chém giết nhau.
Vâng! Một sự nhồi sọ của chủ thuyết quái thai,
không tưởng, hay một học thuyết bán mua chiến tranh của những kẻ đến
từ bên kia bán cầu. Chúng cùng nhau, đưa cả dân tộc đến tuyệt lộ.
Đoạn văn diễn tả sự dã man, lòng hận thù đến mù quáng, lên tới tột
đỉnh, dưới đây, là những tiếng kêu bi thảm, xót xa, hay là một lời ai
điếu cho cả một dân tộc, của Dương Thu Hương?
“…Hai
bên đều hò hét, cả hai bên đều điên cuồng chém giết, – cả hai bên đều rú lên
khoái trá khi máu đối phương phụt khỏi tim, óc đối phương vọt khỏi não, – cả
hai bên đều quằn quại như sâu bọ dưới những làn đạn lửa, – phần sống sót lê khỏi
chiến địa để làm mồi dự trữ cho các mặt trận tiếp theo, – phần đã chết tự hiến
nốt hình hài cho các loài ác thú và dòi bọ.
Cả
hai bên đều yên trí là mình đã hy sinh xứng đáng cho lý tưởng. Than ôi, họ có
chung một nòi giống, con của mẹ Âu Cơ và cha Lạc Long Quân. Họ là những hữu thể
được tái sinh trong cùng một bào thai – không xứ sở nào có được cái huyền thoại
mê ly đến thế!.” (chương 13)
*Quan
tài, đường đi đến của cuộc chiến huynh đệ tương tàn
Hành trình, dòng người cõng những cỗ quan tài,
đi ra nơi có tiếng súng nổ, là biểu tượng, là con đường chết của
cuộc chiến này. Và đó cũng là thông điệp nhà văn muốn gửi đến
người đọc, về giá trị, kết cục của nó, trong tác phẩm Tiểu Thuyết Vô Đề. Chiếc quan tài
đó, không chỉ chứa thể xác, mà nó còn là những nấm mồ chôn đi ham
muốn, linh hồn khát vọng của con người.
Nếu ta đã đọc, Bên
Kia Bờ Ảo Vọng, hay Những Thiên
Đường Mù, thì thấy tính ẩn dụ, so sánh trong Tiểu Thuyết Vô Đề, đã đạt đến mức độ cao hơn. Thủ pháp
nghệ thuật này, được chiếu rọi từ những ký ức rời rạc, đứt quãng
của Quân, (người thuật truyện) xuyên suốt tác phẩm.
Đọc đoạn văn dưới đây, ngoài cái quặn đau cho
một kiếp nhân sinh, ta còn thấy được, trong binh đao khói lửa, còn đâu
nữa cái đẹp, thanh bình từ tạo hóa sinh ra. Chiến tranh đã nhập đồng
vào linh hồn, với người lính, vẻ đẹp chỉ còn hiển hiện trong cái
chết, trong sự chém giết nhau điên cuồng. Đây là một trong những đoạn
văn ẩn dụ, so sánh, hay và rung động nhất, mà tôi đã được đọc:
“…
Đoàn người mang những cỗ quan tài in hình trên đường viền của núi, giữa khung cảnh
rạng đông. Bóng họ đi động chậm chạp nhưng kiên nhẫn, mê mải. Hành trình. Con
người tự vắt kiệt sức mình để đem được quà dâng cho chiến trường. Trong các tặng
vật ấy, biết đâu chẳng có một chiếc dành cho tôi?… Và tôi, và bất cứ người lính
nào cũng đã sẵn sàng tiếp nhận món quà kì lạ đó… Trong cả hai hành động, có
chung vẻ đẹp tuyệt vời của chiến tranh.
Bất
chợt, tôi sực nhớ tiếng kêu xé ruột, man đại của mẹ tôi, gương mặt dầm mồ hôi,
nỗi đau làm méo mó một cách kinh dị. Rồi cũng chính trên gương mặt méo mó kinh
dị ấy, ngời lên nụ cười rạng rỡ hạnh phúc khi tiếng khóc oe oe của đứa con cất
lên và đôi bàn chân đỏ hỏn của nó quẫy đạp trong không khí… Đó, vẻ đẹp mặn mòi
của đời sống, vẻ đẹp của tạo sinh. Vẻ đẹp ấy đã xa vời. Nó lẩn khuất với những
kỷ niệm vụn vặt thời thơ bé. Tôi bỗng kinh hoàng. Người ta không thể cùng một lần
đắm mình vào hai dòng nước…” (chương 9)
Có người đã mạt sát, hành vi chủ động, van xin
được làm tình với Quân là thú vật của Viếng, người nữ quân nhân,
một mình quanh năm canh nghĩa địa, sống với xác chết, giữa rừng. Tôi
cho đây là cái nhìn khắt khe, thiếu cảm thông. Bởi, hành động đó là
bản năng, khao khát sống, khao khát yêu, khao khát làm tình của con
người. Ai cho Viếng, một cơ hội, một ước vọng đó? Khi chiến tranh bom
đạn và những xác chết đang bủa vây lấy cô. Nếu như, ta đã đọc những
câu thơ của người lính VNCH Huỳnh Hữu Võ, chắc chắn sẽ có cái nhìn
khách quan, cảm thông hơn về Viếng, về những người lính cả hai phía,
nơi chiến trường: Anh phải ngủ thật nhiều
ban ngày/để đêm từng đêm ngồi ôm súng gác/anh phải cười nơi đây thật to/để khỏi
nghe tiếng súng/anh phải văng tục nơi đây cho đã/vì thiếu bóng đàn bà suốt
tháng/anh phải thủ dâm.
Tôi nghĩ, nếu như nhà văn để Quân không từ chối
cự tuyệt Viếng, thì tính nhân đạo sẽ nhân lên. Và chắc chắn, người
đọc sẽ thỏa mãn hơn. Tuy nhiên, ý đồ của tác giả, muốn bật lên cái
tàn nhẫn tận cùng của chiến tranh, sẽ phải giảm đi.
Đọc Tiểu
Thuyết Vô Đề, ta không chỉ thấy được bản năng sống, khao khát yêu,
nhu cầu sinh lý con người bị tước bỏ, để cho những người lính, như
Biền phải làm tình với cả súc vật, một cách nhục nhã như vậy. Mà
ta còn thấy được, sự giả dối lưu manh ngay trong chiến tranh, của
những tướng lãnh, những kẻ chuyên giảng giải đạo đức. Hình ảnh so
sánh dưới đây, cho ta thấy rõ điều đó:
“…Lũ
dân thường như chúng ta, chịu cực đủ điều, bóp miệng bóp mồm, bóp cả đến con c…
Tụi tướng lĩnh nó có khổ như thế đâu? Ra Bắc vào Nam, đâu đâu chúng nó cũng có
đàn bà. Ngày xưa thì là phi là thiếp, giờ thì các đồng-chí-nữ phục vụ! Trò đểu,
thời nào cũng giống nhau là thế!…” (chương 6)
Sự lưu manh, giả dối ấy, không dừng lại mức độ
ăn chơi hưởng lạc, nó đã được đẩy lên mức giết người tàn nhẫn. Nhân
danh đảng, cùng với sự dốt nát của mình, chính ủy trung đoàn đã đưa
cả đại đội nướng vào cái cối say thịt. Từ đây, ta thấy rõ hơn, sinh
mạng người lính trong chiến tranh, dưới bàn tay của những kẻ cuồng
vọng này, quả thật, chỉ là trò chơi, quá rẻ mạt:
“Lão
Hữu muốn lập công với sư đoàn nên quyết định đánh lẻ. Bọn dưới nịnh lão, ủng hộ
kế hoạch tác chiến vắng mặt sư trưởng. Lão lại là bí thư đảng ủy trung đoàn,
toàn thể các đảng ủy viên nhất trí quyết định của ban thường vụ. Đại đội trinh
sát vừa muốn lấy lòng lão Hữu, vừa lười nên báo cáo ẩu, đia hình địa vật hoàn
toàn sai. Thế là đại đội B41 của thằng em tôi được lệnh tiêu diệt các hỏa điểm
của địch, mở đầu trận F.E.18. Chúng nó bò tới trận địa, vừa rút xẻng ra đào hầm
trú ẩn thì bị ngay. Ở đó, không phải loại đất pha cát như tụi trinh sát báo
cáo, thuần một thứ đất sỏi pha đá ong già, lưỡi xẻng chọc xuống là lửa lóe lên.
Các hỏa điểm đích cứ thấy đốm lửa lóe lên ở đâu là nã cối và các loại đạn nóng
vào đó. Đại đội B41 phơi lưng, không một hòn đá, gốc cây ẩn núp. Địch trút cả
núi đạn xuống. Hôm sau phải điều động ba đại đội tới đánh trả và lấy xác các tử
sĩ ra. Lại thêm năm mươi nhân mạng hy sinh…” (chương12)
*Lời
sám hối dưới cái nhìn nhân bản
Thật kỳ lạ, hai cuốn tiểu thuyết có cách viết
và cái nhìn rất mới về chiến tranh lại thuộc về hai nhà văn nữ. Đó
là Tiểu Thuyết Vô Đề của Dương
Thu Hương và Dạ Tiệc Quỷ của Võ
Thị Hảo. Khi đọc, tôi có cảm giác khác hẳn, bởi nó đã giải mã
được bản chất của sự việc, cùng bộ mặt thật của những kẻ đứng sau
cuộc chiến vừa qua. Mà những cuốn sách khác chỉ mới dừng ở mức
độ, bóc trần sự tàn nhẫn, khốc liệt và thân phận con người sau
chiến tranh, kể cả Nỗi Buồn Chiến
Tranh của Bảo Ninh.
Thật vậy! Khải
hoàn môn ấy, được tạo bằng xương máu của cả một dân tộc khổ đau,
nhưng vinh danh lại thuộc về những kẻ bán mua chiến tranh. Những lý
tưởng, những hình tượng thánh thần, chỉ là liều thuốc, ru người vào
trong khói lửa binh đao. Từ cái nhìn ấy, Dương Thu Hương đã mỉa mai,
điểm mặt chỉ tên, những kẻ đứng sau, thực sự là ông chủ của cái Khải hoàn môn đó: “Chúng tao thờ một chủ thuyết. Chúng mày
cũng thờ một chủ thuyết. Vị thần chúng tao thờ tên là Mác, mũi lõ, mắt xanh,
râu rậm. Còn vị thần chúng mày thờ tên là gì? Tóc thưa hay tóc rậm? Trán hói
hay trán vuông? Để râu dê hay râu cáo?” (chương 12)
Và cũng chính cái chủ thuyết hoang tưởng đó,
đã đẻ ra tầng lớp thống trị mới, với những phương thức cai trị quái
đản, phi nhân. Nếu nhìn lại lịch sử, từ cải cách ruộng đất đến
những gì đang xảy ra trên đất mẹ hôm nay, ta mới thấy được trái tim
nhạy cảm trong con người nghệ sĩ, nhà văn Dương Thu Hương:
“
…Bây giờ, đa phần là bọn phong học cương thường đạo lý. Họ học luân lý Mác-lê.
Cướp vườn cướp ruộng nhà người ta cũng là theo sách Mác. Lột quần vợ người ta
mà ngủ cũng là vì lợi ích của đấu tranh giai cấp…”
(chương 6)
Khi chưa tàn cuộc chiến, Dương Thu Hương đã nhận
ra bộ mặt tráo trở của chế độ. Và đã vạch ra, sự coi thường, rẻ
rúng con người, của những kẻ ngồi trên, sau cuộc chiến. Đây là cái
nhìn sáng suốt, đầy ắp nhân bản của nhà văn. Sự đập phá kho hàng
chiến lợi phẩm, không để rơi vào tay những kẻ có chức, có quyền của
những người lính, tuy là hành động tiêu cực, nhưng nó lại là phát
súng, báo hiệu sớm, cho sự phản kháng của người dân lương thiện với
cường quyền, sau này. Rất cảm ơn, nhà văn Dương Thu Hương, đã sớm chỉ
ra điều này, từ mấy chục năm về trước: “- Em nghĩ nhiều… Em cũng nghe chán vạn điều thiên hạ nói. Nhưng mà,
nhân dân lúc có thật, lúc như bóng ma: Nếu cần lúa, nhân dân là con bò kéo cày.
Lúc có chiến tranh, con bò ấy mặc áo giáp và cầm súng. Rồi, khi mọi sự đã qua,
vào những ngày lễ lạt, hội hè… người ta tôn xưng nhân dân như hú vọng các hồn
ma, tưởng thưởng cho khói thơm và tro tiền, còn phần xôi thịt thì kẻ khác hưởng…”
(chương 15)
Có thể nói, Tiểu
Thuyết Vô Đề có lời văn đẹp và súc tích nhất, trong những cuốn
sách của Dương Thu Hương, mà tôi đã đọc. Tâm trạng, cũng như cái nhìn
của tác giả về chiến tranh và xã hội đương thời, đã hiện lên rõ
nét, từ diễn biến nội tâm của (nhân vật) người lính. Và tác giả,
đã giải quyết thành công mâu thuẫn nội tâm nhân vật. Tuy nhiên, không
riêng Tiểu Thuyết Vô Đề, mà các
tác phẩm khác, của Dương Thu Hương, có nhân vật và những câu thoại
căng, khá lên gân làm cho người đọc, đôi khi cảm giác hơi bị hẫng.
Tôi không dám nghĩ, Tiểu Thuyết Vô Đề là kêu tiếng kêu đau đớn, lời sám hối chung
cho một nòi giống, một cộng đồng, như có lần nhà văn Dương Thu Hương đã
viết. Nhưng đọc nó, quả thật, tôi đã cảm được nỗi lòng người nghệ
sĩ, nhà văn qua những hành động, hay giằng xé nội tâm nhân vật của
mình. Và đây, là một trong ba cuốn sách viết về chiến tranh, mà tôi
thích. Đọc xong, gấp cuốn sách lại, tôi vẫn cảm thấy thiêu thiếu,
dường như có điều gì nhà văn chưa nói hết….
Đức
Quốc ngày 25-10-2014
Đỗ Trường
Nguồn:
https://old.danchimviet.info/archives/91223/duong-thu-huong-nguoi-di-giua-2-lan-dan/2014/10
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét