Gửi
đến BBC từ San Jose, Hoa Kỳ (4 tháng 3 2021)
Nguyễn Hữu Liêm
*
"Bọn
họ quá lạnh lùng. Mong cho sét đánh ngay vào thức ăn của họ để mồm miệng chúng
biết ăn món lửa,"
(Nietzsche)
Friedrich
Nietzsche, qua đời năm 1900, được cho là một trong số các nhà tư tưởng lớn nhất
của nhân loại thế kỷ 19
Cái tật của bọn học giả, nói như Friedrich Nietzsche
1844-1900), là không viết lên được gì nếu không dựa trên trích dẫn từ sách vở.
Thế còn nhà văn? Tính sáng tạo của nhà văn là khả năng
nấu nướng những gì có sẵn thành một món ăn mới. Còn những thể loại văn chương
thiếu chiều sâu thì chỉ biết đem những vật liệu còn sống, chưa được nấu, để như
vậy và chỉ bày biện thành món ăn với thật nhiều gia vị.
Có lẽ đây là giá trị của văn chương bình dân và phổ
thông. Nó mang phẩm chất tươi mát ở nơi kỹ thuật trình bày đơn sơ và trần trụi.
Nhưng chính đó cũng là khuyết điểm lớn - những trạng thái sống sượng từ sự kiện
chưa được nấu nướng và chuyển hóa bằng ngữ văn.
VĂN
HỌC VIỆT THIẾU VẮNG TƯ TƯỞNG
Văn chương Việt Nam - "Văn Lang" - là một thể loại phong hóa bình dân - một quá
trình dàn dựng sự thể của sự kiện nhân sinh vào một mâm cỗ ngôn ngữ, cho thêm
nhiều gia vị, và không được chuyển hóa. Người ăn mâm cỗ văn thơ tiếng Việt phải
chấp nhận cái tươi mát và sống sượng của cuộc đời làm thực phẩm cho mình.
Và dù độc giả có nhận thấy sự giới hạn và nghèo nàn của
chúng, họ cũng không có chọn lựa nào vì con người và văn chương Việt Nam chưa
bước lên tới bình diện tư tưởng để chuyển hóa sự thể sống sượng ở sự đời. Người
đọc văn tiếng Việt phải ngậm đắng nuốt cay mà tiếp thu phong hóa văn chương nầy.
Khi chúng ta đi vào thế giới ngôn ngữ nơi sách vở, cái
cần thiết là tư tưởng - khi cuộc đời đã được thăng biến lên bình diện phạm trù.
Văn chương Việt Nam thiếu cái đó. Nó cứ dọn những bữa ăn sống và tươi và đổ lên
thật nhiều gia vị. Ðối với trái cây hay sà lách thì được. Nhưng lịch sử và con
người Việt Nam là thịt, là cá, là gạo đang phơi trần trong khí hậu nhiệt đới. Nếu
không nấu, không chuyển hóa, người dùng bữa sẽ dễ bị bội thực và ngộ độc. Văn
hóa Việt Nam đang bị bội thực và ngộ độc vì khả năng tri thức dân tộc chỉ dừng
lại ở biên giới văn chương - thể loại văn chương thuần diễn tả.
Hãy nhìn Việt Nam gần suốt thế kỷ qua cho đến hôm nay.
Lâu lắm mới có một vài tác giả viết về tư tưởng, nhưng phần lớn thiếu sáng tạo,
và rồi bị bỏ quên. Trước 1975, ở ngoài Bắc thì chỉ có học thuyết Marx-Lenin, vốn
không thể gọi là tư tưởng vì không có tự do tư duy; còn trong Nam thì một chút
ít triết học hiện sinh từ Âu Châu nặng chất văn chương được bày biện sơ sài
trên các mâm cỗ thức ăn chưa được nấu, sống sượng và lỏng lẻo.
Cho đến giờ này, trí thức Việt hầu hình như vẫn chỉ
làm được ba chuyện: Làm thơ, viết truyện
ngắn dạng mô tả, và dịch sách ngoại ngữ.
Chúng ta phải mang ơn và trân trọng trí thức và văn
nghệ sĩ Việt. Tuy nhiên, vấn đề là ở ngay cả thượng tầng trí thức Việt Nam, họ
còn thiếu sáng tạo trầm trọng. Tất cả tạo nên một nền văn hóa chữ nghĩa thuần
trích mượn - a throughoutly derivative
intellectual culture... Các tạp chí ở hải ngoại, kể cả các mạng điện tử, đều
cũng chỉ chia chung một màn kịch - và trò chơi - văn học. Cả một cộng đồng ngôn
ngữ tiếng Việt bị hút hồn trong cơn say thi ca và văn chương nhẹ cân và thiếu
chiều sâu nầy.
ĐÂY
CÓ PHẢI LÀ MỘT ĐỊNH MỆNH VĂN HÓA?
Nói như thế có bất công chăng! Đến đây chắc có người sẽ
phản biện rằng, văn chương là gì nếu không phải là những chuyện kể. Nó khác với
triết học hay tư tưởng - vì thơ văn khai sáng cuộc đời từ một góc độ tiếp cận
khác. Đòi hỏi thơ văn phải như là những luận đề triết học hay lịch sử, văn hóa,
là lạc đề - và chưa nắm được yếu tính văn học. Văn chương mang mầu sắc triết học
chỉ là một hình thức làm dáng!
Xin trả lời: Vâng, tùy tầm nhìn. Nếu ta muốn văn
chương Việt nằm mãi ở trình độ diễn tả sự kiện như những chuyện kể cho giới
bình dân thì không có gì để bàn đến. Nhưng nếu ta muốn nâng văn Việt lên tầng
cao mới thì phải nghiêm chỉnh nhìn kỹ vấn đề. Hãy đọc văn - xin được thả vài
tên quen thuộc - Dostoevsky hay Kafka, Camus hay Hess, chẳng hạn, thì sẽ thấy
được khiếm khuyết của văn học Việt.
Chỉ cần đọc một đoạn trong "Ghi chú dưới tầng hầm" (Dostoevsky) hay "Huyền thoại Sisyphus" (Camus)
để thấy văn chương người ta đã được nấu nướng cẩn trọng như thế nào. Có thể
cùng một câu chuyện, nhưng suy tư của các nhà văn lớn luôn bao phủ hay gợi ý
tinh tế một tầng khái niệm mang giá trị hoàn vũ về con người, thực tại thế
gian, và sử tính.
Còn văn chương Việt thì chỉ nằm ở tầm diễn tả sự thể
thế gian - và dừng lại ở đó. Có phải nhà văn Việt Nam mang tầm nhìn giới hạn,
thiếu ý chí và khả năng sáng tạo? Hay là vì sự non yếu của tiếng Việt đang giam
cầm khả thể văn học tầm cao? Có thể so sánh rằng, cổ thụ dưới thung lũng thấp
không thể sánh chiều cao với đồng chủng ở trên đồi - khi sàn văn hóa của dân ta
còn quá thấp, nấc thang tiến hóa tâm thức đang ở Thời quán thiếu niên, thì văn
học không thể mặc áo vượt qua đầu được. Sự thể yếu kém của văn học Việt Nam có
phải chăng là một định mệnh văn hóa!
NHÀ
VĂN TA ĐANG ĐẮM SAY VỚI CHÍNH MÌNH
Có lần, một nhà văn tâm sự với tôi rằng khi bài của
mình được đăng lên báo hay tạp chí, ông chỉ đọc say mê bài mình viết - và chỉ
bài của mình, dù khi thảo đã đọc nó cả chục lần. Cái thú đọc bài mình viết trên
báo cũng giống như là một cậu thiếu niên mặc áo đẹp nhìn vào gương. Không có gì
là mới hay lạ cho đối tượng cả.
Nó chỉ là cái ta ngã mạn được xoa nắn, tái dựng bởi
chính ta. Ðó là cái thú văn chương trong vòng lẩn quẩn - lấy cái hiện tại từ sự
kiện quen thuộc, bày biện nó lại qua một kiểu cách ngôn ngữ khác, để chiêm ngưỡng
lần nữa. Trong thú vui này, con người bị chìm đắm vào cái ta, không bước lên
hay thoát ra ngoài vòng cuộc sống bằng tinh thần hay tư tưởng. Văn chương thiếu
tinh thần và tư tưởng không đánh thức được ai, nó chỉ ru ngủ thiên hạ - và làm
cho mình bị say đắm với chính mình.
Trở lại để trích dẫn Nietzsche lần nữa: "Con gà mà đẻ nhiều thì trứng sẽ nhỏ
đi."
Cái yếu của văn chương Việt Nam là nhiều chữ quá mà
không nói lên được điều gì. Văn chương - qua dạng truyện ngắn thuần mô tả - làm
cho người đọc bị kiệt sức. Một múi chanh của sự thể nhân sinh - phần lớn là số
vốn cuộc đời bản thân - khi vào trong tay của nhà văn Việt thì bị vắt đến nát
nhừ nhằm rút ra thêm được chút tàn lực chất chua, chất chát.
Như những tập tự truyện gần giống nhau và đồng bản chất
kể lễ, nhà văn Việt nói tới, nói lui thì cũng chỉ một âm điệu đã nhàm - cái âm
điệu bi đát, ai oán, đầy tiêu cực và thiếu tinh thần. Cuối cùng họ chỉ lặp lại
chính mình. Từ đó, các hội nhà văn, nhà thơ trở thành những đoàn thể cho văn
thi sĩ Việt định danh, tùy thuộc ngân sách nhà nước, là những "echo chamber" cho những bất
mãn chung chung, vang vọng âm ngữ bầy đàn vốn đã kéo dài trên thế kỷ qua.
VIẾT
MÃI CHỈ LÀ CHÙM CƯỚC CHÚ CHO KIỀU
Đây có lẽ là gia sản chính từ Truyện Kiều của Nguyễn
Du - văn chương chỉ diễn tả được bi kịch cá nhân trong hoàn cảnh - situational
tragedy - chứ không khai phá được một tầng nhân cách trên cơ sở ý chí - the
tragic consequences of the individual Will.
Tác giả Việt bắt buộc từng nhân vật văn chương phải
mang cho mình một số phận nạn nhân, hoàn toàn thụ động, bất lực. Thế gian chỉ
là một bóng tối bao trùm mà ta không thể khai sáng, không muốn thắp một ngọn nến
xua tan màn vô minh. Thực tại như là một con quỷ xé nát cuộc đời mà ta chỉ còn
van xin ân huệ.
Từ đó, hầu hết văn chương tiếng Việt - và sau này di
cư qua Mỹ, Pháp, văn tiếng Anh, Pháp bởi người gốc Việt - phần lớn vẫn chỉ là
những chùm cước chú cho Truyện Kiều. Từ trong quặng mỏ chứa thuần các lớp thân
phận, ta cứ thấy hoài một chuyện - những biến hóa chữ nghĩa được mãi khai thác
từ cái cuốc mòn văn chương nhà ta. Văn chương Việt - Việt hay Anh, Pháp ngữ -
chỉ là những tuyển tập thú tội.
Ở đó, bi đát không vươn lên được tầm bi tráng; số phận
cá nhân chỉ là một lát mỏng cắt ngang khúc cây từ hoàn cảnh tập thể dân tộc
trong sự trống vắng về ý chí tác hành bằng ý thức sử tính và thời đại.
Đọc văn Việt thì như là nghe vọng cổ, hay nhạc bolero
- cũng như cha ông ta đọc Kiều. Nó chỉ làm cho ý chí hành động bị tê liệt. Nói
hơi đại ngôn một tí rằng, thể loại văn chương, thi phú nầy chính là nguồn gốc
sâu xa cho hầu hết những thảm kịch lịch sử Việt Nam cho đến hôm nay - một lịch
sử chỉ hoàn toàn chứa đựng những năng động thuần chất tình cờ, ngẫu nhiên -
không mang một tinh yếu ý chí cá thể.
Trong khi thi ca Tây phương biến bi kịch cá nhân thành
là một nguồn kích khởi ý chí hành động; thì ngược lại, văn thơ Việt nhấn chìm
người đọc vào số phận bi đát của nhân vật. Càng đọc thi ca Việt ta càng bị đắm
mình vào cái đập nước ngôn từ do chính chúng ta tự kiến lập lên.
HÃY
VỊN VÀO NIETZSCHE MÀ ĐỨNG DẬY
...Chính vì thâm nhiễm Kiều với chủ nghĩa số phận bi
thương, thụ động mà Việt Nam phải bị Thực dân Pháp đem cho một linh hồn mới. Từ
bi kịch đô hộ đó, từ khát vọng vương lên làm lịch sử, ta cầu cứu đến Marx với lời
sấm ý chí, "Ta sẽ dẫm lên đống gạch
vụn từ quá khứ để tái tạo lại lịch sử như là một Thượng đế mới."
Nhưng, tai họa không thể rời nàng Kiều.
Nhắm mắt gán Marx vào hồn Kiều đã trở nên một thang
thuốc tự vận. Cuối cùng, khi đã hết thực dân và đế quốc, văn chương Việt lại lần
nữa vực linh hồn Kiều sống lại trên nghĩa trang Marx.
Từ "Phận
đành chi dám kêu oan" (Kiều) đến "Mẹ
khỉ, cái thằng đểu này là điềm gở nhất của số phận mình" (Tướng hồi
hưu, Nguyễn Huy Thiệp) ta thấy rằng: Cái ác, cái xấu tất cả đều ở bên ngoài ta,
là từ xã hội, nơi tha nhân. Khi sự yếu đuối ý chí được lấy làm biện minh cho thụ
động trong oán hờn liệt kháng thì thơ văn Việt chính là một lời nguyền tự đến -
a self-fulfilling prophecy.
Rất có thế vì thế mà ở Việt Nam hiện nay, phong trào dịch
và đọc Nietzsche - với những khẩu hiệu tung hô mẫu người "Siêu nhân," "Ý chí Quyền lực," "Vượt qua Thiện-Ác,"
"Phủ quyết tâm thức Nô lệ," "Lên án tinh thần Bầy đàn" -
đang khá thịnh hành. "Cuộc đời không
chỉ là sự đáp ứng nội tâm theo nhu cầu ngoại thân, nhưng mà là của Ý chí Quyền
lực, phát khởi từ trong ta nhằm chinh phục và làm chủ ngoại cảnh"
Nietzsche viết.
Có thể nói rằng những khái niệm "Siêu nhân", "Ý chí Quyền lực" chính là những
câu sấm mới thay cho lời nguyền văn học Việt hiện nay.
Phải chăng, hiện tượng nửa triết nửa văn với Nietzsche
này chính là một nỗ lực từ vô thức đi tìm một năng lực Ý chí mới - khi văn học
Việt đang thiếu những món ăn tinh thần cho một dân tộc đang muốn vươn ra khỏi
tình trạng độc tài, thiếu tự do hiện nay?
TS Nguyễn Hữu Liêm
Bài
thể hiện quan điểm riêng của luật sư, tiến sĩ triết học Nguyễn Hữu Liêm,
hiện sống tại San Jose, California, Hoa Kỳ.
8 nhận xét:
Viết văn hay làm thơ thì mỗi người có một nguồn cảm hứng và ý tưởng riêng nên văn thơ Việt Nam cũng phong phú theo cách riêng của nó.
HN sang thăm chúc anh buổi chiều an lành thật vui nhé anh!
http://i1067.photobucket.com/albums/u422/thienngavu1/Haveaniceday.gif
Ở Miền Bắc một thời .. Cái gọi là NHÂN VĂN GIAI PHẨM ... Bắt giam giữ quá nhiều nhà văn nhà thơ .. Nên viết Văn - Thơ họ cho là nói xấu chế độ là đi tù nên ..viết lách hạn chế lắm .. Mình ngày xưa rất thích viết đã tùng làm cộng tác viên .. Của nhiều báo .. Nhưng sau thôi không bao giờ làm nữ .. Hai ông bạn mình làm chuyên nghiệp là Quôc Ân - Thái Hiểu .. Bị đi cải tạo mà .. Vậy đó . Ai mà dám viết . Ôi một thời thật buồn .. Một chiều bình an vui vẻ nhé
https://9mobi.vn/cf/images/2015/03/nkk/hinh-dong-1.gif
Ý hay lắm ! Thứ ba vui nhiều Hằng Nga nhé!
http://www.lovethispic.com/uploaded_images/thumbs/104230-Happy-Tuesday.gif
Chuyện văn chương triết học ở Việt Nam phức tạp lắm ! Thứ ba thanh thản bác Quang Thái nhé!
http://www.chromaluna.com/content/comments/weekdays/tuesday/HappyTuesday.gif
TS Nguyễn hữu Liêm có dạy môn triết tại đại học cộng đồng San Jose City College (khác với đại học San Jose State). Có thể ông lầm lẫn giữa Môn Triết (Philosophy) và môn Văn (Literature). Triết là một ngành riêng biệt. Theo Webser định nghĩa thì môn Triết là môn chuyên đề nghiên cứu về Tri Thức, Chân Lý cùng bản chất và nội dung của đời sống con người. Nếu định nghĩa rộng hơn chúng ta thấy Môn Triết nghiên cứu về SỰ HIỆN HỮU, LÝ LUẬN, MỨC HIỂU BIẾT, CÁC LOẠI GIÁ TRỊ CÙNG CHUYÊN KHẢO NGÔN NGỮ. Triết rõ ràng là môn HAY NGÀNH riêng biệt về TƯ DUY
Còn văn chương nó nằm trong phạm trù văn học nó hơn thua nhau hay có mức độ giá trị về MIÊU TẢ CUỘC SỐNG, HOẠT ĐỘNG CON NGƯỜI, BIẾN THIÊN XÃ HỘI LỊCH SỬ. Nếu Văn là Literature theo định nghĩa chúng ta thấy nó là tập hợp của các tác phẩm viết ra, hát ra một cách có nghệ thuật. Nó bao gồm các sản phẩm của ngôn ngữ vận dụng tài viết để viết ra từ giá trị của nguồn gốc dân tộc khác nhau mà có các thể loại nào đó và chủ đề nào đó.
Nếu đem “râu ông nọ bỏ cằm bà kia” bằng cách nhìn văn chương VN qua lăng kính Triết Học có thể đi đến nhiều lầm lẫn có tính mô phạm kể cả lệch lạc về đánh giá văn chương. Văn chương khác với Triết học do văn chương toát ra các LUẬN ĐỀ XÃ HỘI HAY CHÍNH TRỊ NHẤT THỜI NÀO ĐÓ. Ví dụ trong các tác phẩm của Nhất Linh hay các tác giả của Tự Lực Văn Đàn là sự Đấu Tranh chống Xã Hội Phong kiến cũ, tiếp nhận đời sống văn minh tây học, bình đẳng xã hội và giới tính. Văn Chương đủ thể loại: miêu tả, thuật sự, luận đề. Các nhà văn hơn thua nhau ở trình độ trong phát triển các yếu tính đó. Một triết gia có thể không có khả năng của một nhà văn về VIẾT nhưng lại hơn nhà Văn ở lãnh vực LÝ LUẬN,TƯ DUY VỀ CHÂN LÝ HAY ĐẠO ĐỨC, BẢN CHẤT CỦA ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI
Đọc bài của TS Liêm chúng ta nhận thấy có thể ông đã bám chặt cái lăng kính của Triết Học nhiều quá nên ông không thấy được vẻ sáng nào của văn học VN qua các thời kỳ, nhất là từ thời Quốc Ngữ VN phát triển mạnh mẽ. Đáng tiếc, do vậy và có thể vậy nên TS Liêm có những “miêu tả” đầy định kiến cùng nhiều ta thán khá tiêu cực đó thôi.
ĐHL
nguồn
Định Nghĩa Triết Học
https://thebadbread.com/2020/01/10/what-is-philosophy/
Định Nghĩa Văn Chương
https://www.britannica.com/art/literature
đính chính
Tự Lực Văn Đàn: xin đọc là TỰ LỰC VĂN ĐOÀN
xin lỗi bạn đọc (ĐHL)
Một ý kiến hay và khách quan ! Chúc bác Đinh Hoa Lư ngày mới rạng rỡ nhé!
https://lh6.googleusercontent.com/-LBHKJWoAFKA/UDTI1uirCkI/AAAAAAAAEhQ/y_ziGaWOfHg/s550/825373_orig.gif
Buổi sáng an lành quý bạn nhé!
http://cur.glitter-graphics.net/pub/3051/3051840nj5eyl9t3e.gif
Đăng nhận xét