Trong
3 ngày (22 – 24/10), tại Dinh Thầy Thím, xã Tân Tiến, thị xã La Gi sẽ diễn ra Lễ
hội Văn hoá du lịch Dinh Thầy Thím năm 2018. Lễ hội nhằm tưởng nhớ công đức Thầy
Thím và là hoạt động gắn với kỷ niệm 23 năm Ngày Du lịch Bình Thuận
(24/10/2018). Đây là một trong 5 lễ hội lớn của địa phương và được tỉnh Bình
Thuận chọn là lễ hội phục vụ phát triển du lịch.
Xin
mời quý bạn đọc bài viết CHUYỆN XƯA MÙA LỄ HỘI của tác giả Phan ChínhCHUYỆN XƯA MÙA LỄ HỘI
Phan Chính
Dường
như ở vùng đất biển La Gi vào những ngày lễ hội văn hóa Dinh Thầy Thím (La Gi,
Bình Thuận) có sự chuyển động rõ nét hơn khi khắp ngõ đường rực rỡ sắc màu cờ
phướn và những lượt xe ô tô từ các nơi qua lại rộn ràng. Có vẻ như khác thường
với một không gian đất trời lởn vởn những áng mây bay trầm mặc sắc thu xanh.
Tôi nhận ra nay là những ngày giữa tháng chín ta ở La Gi vẫn còn bất chợt những
cơn mưa cuối mùa của thời tiết miền đông Nam bộ. Trong tôi vẫn không thể nào
quên cảnh rừng hoang sơ ngày nào dù đang đi trên con đường nhựa phẳng phiu,
hàng quán, bến xe nhộn nhịp bóng người ở ngảnh Tam Tân chẳng khác gì một góc phố
thị thành.
So với
bây giờ cơ ngơi chánh điện, đền thờ, nhà lưu trú, bếp ăn, phòng họp…có sự thay
đổi quá lớn trong gần hai chục năm gần đây. Khoảng hai ba chục vạn người là
khách cúng bái, tham quan đến đây trong mùa lễ hội đã mở ra một khu du lịch ngảnh
Tam Tân với cảnh quan thơ mộng và một góc biển êm đềm. Khách thập phương trong
những năm đường sá còn khó khăn, xe ô tô có khi dừng từ Hiệp An cách dinh và mộ
Thầy Thím gần 3 cây số, lại phải lội bộ theo đường xe bò mà vẫn nằm lại đêm để
chiêm bái mong cảm nhận được thiêng khí ở đây. Không riêng gì cho người nặng
lòng tâm linh mà bình thường, giữa không gian tĩnh lặng xanh rợp bóng cây rừng,
tiếng chim thánh thót cũng thấy hồn mình thanh thản đến vô cùng. Nếu nói về qui
mô kiến trúc so với những di tích nổi tiếng trong khu vực thì công trình điện
thờ dinh Thầy Thím còn khiêm nhường
nhưng lại có được cảnh quan của một cánh rừng nguyên sinh mang dấu tích cổ xưa
gợi ra nhiều sự liên tưởng khá lý thú. Góc cây đa già hàng trăm tuổi, trước đây
với bộ rễ đủ dáng hình kỳ quái, nhưng rõ nhất là hình thù con cá sấu với tư thế
hiền từ bái yết hướng về cổng dinh như nghênh đón khách thập phương. Những thân
cây dầu lông cổ thụ như gom tụ dấu chấm phá của sự sống tiềm ẩn thuở sơ nguyên.
Đến với khu mộ Thầy Thím càng thấy việc làm của những người trong hội Tam Quí
và sau này rất có lý vì đã đọc được ý nguyện của thầy mà giữ nguyên mộ Thầy
Thím cùng hai đệ tử bạch hổ, hắc hổ ở Bàu Thông chỉ đắp bằng cát trắng. Khách
viếng bái không khỏi xúc động khi tự tay mình bốc nắm đất trắng tinh đắp lên
ngôi mộ với lòng thành kính, ngưỡng mộ đức tính giản dị, thuần hậu của thầy.
Chuyện
xưa kể rằng: Dưới thời Gia Long, tại làng La Qua, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
có một đạo sĩ giàu lòng nhân ái, có nghĩa cử cao đẹp hành đạo giúp đời. Quê
làng của đạo sĩ từ nhiều đời đắng cay nghiệt ngã, quanh năm đói ăn thiếu mặc
như mắc tội với đất trời. Do đó, nỗi bức xúc của dân làng là làm sao có một mái
đình để dâng lời cầu nguyện, rước phép an lành. Cảm thấu được nỗi mong ước sâu
xa đó, đạo sĩ tập họp những kỳ lão, trai tráng trong làng thông báo ý định ra
tay giúp việc dựng đình nhưng với điều kiện phải dọn sẵn một nền đất rộng và
trong thời gian dựng đình không một ai lai vãng. Mọi người đều bán tín bán nghi
nhưng vẫn làm theo đạo sĩ. Trong khi đó ở làng Bát Nhị vừa xây một ngôi đình thật
nguy nga nhưng các hương chức cậy giàu, lại có lời xúc phạm, khinh khi dân làng
bất hạnh không xây nổi mái đình. Đạo sĩ bình tâm khuyên dân làng nhẫn nhục và
chờ đợi. Không bao lâu, sau một đêm mưa to gió lớn, sấm sét đầy trời dân làng
được tin vui đã có ngôi đình mới. Ai cũng vui mừng, đến nơi dọn đất trước đây
đã thấy sừng sững ngôi đình ngói đỏ. Nỗi vui lẫn niềm kinh ngạc của dân làng
chưa nguôi thì lại nghe tin dữ bên làng Bát Nhị bị mất đình. Thế là bọn hào lý
nổi cơn thịnh nộ, cấp báo lên quan tố cáo đạo sĩ là phù thủy dùng phép ma tà
thuật đánh cắp đình làng. Lúc bấy giờ dưới triều Tự Đức ra lệnh bắt đạo sĩ,
khép tội gây rối và mưu bạo loạn. Vua bèn ra hình phạt “Tam ban triều điển” (tức
tội hình chết chém, uống độc dược hoặc treo cổ).
Giữa
pháp trường, đạo sĩ cùng vợ điềm nhiên và xin cấp một tấm lụa điều, xếp hình
con rồng. Sau khi dùng mực son điểm nhãn, dải lụa điều biến thành rồng mang cả
hai vợ chồng bay về phía Nam, đáp xuống làng Tam Tân.
Đến
Tam Tân, vợ chồng đạo sĩ xin tá túc ở gia đình ông Hộ Hai, rồi ngày ngày sống bằng
nghề đốn gỗ, hái thuốc chữa bệnh cho dân làng. Tài chữa bệnh của vợ chồng đạo
sĩ nổi tiếng khắp nơi và từ đó được mọi người kính cẩn, xưng tụng gọi là Thầy
Thím- Thím là theo cách gọi thông thường với người vợ của Chú. Còn có nghĩa là
người phụ nữ (Hoa). Nhưng có giải thích chữ Thím/ Thiếm là cách gọi kính trọng
với người vợ của Thầy (người có tài pháp thuật- pháp sư) của người miền Trung.
Thầy có chiếc bầu gởi lại chủ nhà mỗi khi đi khỏi đều dặn dò giữ gìn như báu vật
treo ở góc nhà. Một hôm, chủ nhà tò mò lén mở ra xem thì chiếc bầu bốc lửa làm
cháy cả căn nhà. Chuyện vỡ lở, Thầy Thím vào lánh ở hẳn trong rừng sâu gần Bàu
Cái. Thầy nhận đóng thuê ghe thuyền cho ngư dân và giao rất đúng hẹn. Điều rất
lạ là chưa có ai thấy những người thợ phụ giúp Thầy mà chỉ nghe tiếng búa rìu đẵn
gỗ, tiếng đục đẽo vang cả góc rừng nhưng đến nơi thì vắng lặng càng làm cho người
ta tin Thầy có phép“sái đỗ thành binh” (tức gieo đậu mà có binh lính).
Đến
đời Thành Thái thứ 18, vua xét lại án phạt và ban sắc phong cho Thầy Thím “Chí
đức tiên sinh tôn thần, Chí đức nương nương tôn thần”.
Đọc
sự tích Thầy Thím không những thấy được tài đức của người đạt đến đức độ chánh
pháp. Từ đây có biết bao câu chuyện truyền khẩu mà người dân địa phương sùng
bái cảm phục về những việc làm mang màu sắc thần bí nhưng đầy lòng nhân ái,
nghĩa hiệp, cứu giúp dân nghèo.
Ở góc
nhìn lịch sử, làng Tam Tân ngày xưa là một nơi heo hút cuối tỉnh Bình Thuận, trở
thành mảnh đất tụ nghĩa của người dân lưu tán và những nghĩa binh từ miền Đông
ra khi Pháp chiếm 6 tỉnh miền Tây. Nhân vật huyền thoại Thầy Thím như hình ảnh
một sĩ phu yêu nước, chống sự hà khắc của bọn quan quyền phong kiến ở bản xứ và
chọn nơi đây để ẩn dật. Nhưng cạnh vấn đề tâm linh thấm đậm vào tâm thức con
người trở thành tín ngưỡng dân gian, đi đôi với các nghi thức thờ cúng mang ý
nghĩa tôn vinh công đức, nhớ ơn người phù trợ dân làng như một thành hoàng, đó
cũng là truyền thống đạo lý của văn hóa dân tộc. Câu chuyện về Thầy Thím thu phục
được thú dữ, chim muông đã nói lên mối quan hệ và thái độ đối xử với thiên
nhiên, những việc làm bốc thuốc chữa bệnh cho dân nghèo, răn dạy thương lái
buôn gạo chèn ép người dân…đó cũng là sự biểu lộ tình cảm khát khao về một biểu
tượng thiêng liêng, phù trợ của người dân bị áp bức dưới thời phong kiến. Giá
trị nhân văn trong sự tích Thầy Thím được thể hiện qua lễ hội, nghi thức cúng
bái gắn với phong tục tập quán của người dân địa phương là nét văn hóa truyền
thống có ảnh hưởng lớn trong đời sống xã hội.
Phan Chính
2 nhận xét:
Rất mừng khi đọc được bài sự tích Dinh Thầy Thím tại La Gi - nơi tôi đã có thời gian ngắn chọn làm quê hương.
Rất vui khi thầy ghé thăm và đọc bài !
Đăng nhận xét