Nguồn:
https://trithucvn.org/van-hoa/an-duong-vuong-va-trieu-vu-de-nen-tho-ai.html?
https://trithucvn.org/van-hoa/an-duong-vuong-va-trieu-vu-de-nen-tho-ai.html?
Xem thế đủ biết các cụ ta xưa không hề sai lầm. Các cụ vẫn xem Triệu Vũ Đế (Triệu Đà) là sự tiếp nối của vua Hùng, chứ không hề nói đến ngài Thục Phán An Dương Vương!
Chúng ta thường nói: Nước ta có lịch sử lâu dài, hơn bốn
ngàn năm. Nói thế là đúng, nếu như cộng các đời vua Hùng hơn 2000 năm với các
triều đại tiếp theo đến ngày nay, hơn 2000 năm nữa, mặc dù dân tộc ta đã trải
qua hàng ngàn năm Bắc thuộc, nghĩa là phụ thuộc người phương Bắc, bị Bắc triều
đô hộ. Phần đông dân ta chỉ là nghe nói thế thôi, nên nhiều người còn nửa tin nửa
ngờ, đơn giản vì lịch sử nước ta hồi ấy có thấy chính sử ghi chép kỹ càng gì lắm
đâu?
Khoảng hơn hai ngàn năm qua các đời vua Hùng, nếu “chia chác” chi ly ra thì phải là nhiều
hơn 18 đời như ngày nay ta vẫn nói thế. Gạt bỏ những lớp vỏ huyền tích xa xưa,
nếu tính từ vua Hùng thứ nhất là con trai của Lạc Long Quân và bà Âu Cơ, cháu nội
Kinh Dương Vương, thì các đời vua Hùng quả thật có hơn hai ngàn năm lịch sử. Đọc
bài Đại Việt thông giám tổng luận của quan Thiếu bảo Lễ bộ thượng thư Đông các
đại học sĩ kiêm Quốc tử giám tế tửu tri Kinh diên sự là Đôn thư bá Lê Tung (Tên
thật là Dương Bang Bản, quê Hà Nam) viết, thì các đời vua Hùng được ghi như
sau:
“Hùng
Vương nối nghiệp của Lạc Long, chăm ban đức huệ, để vỗ yên dân, chuyên nghề làm
ruộng, chăn tằm, chẳng có can qua chinh chiến, con cháu nối dòng đều gọi là
Hùng Vương, phúc gồm 18 đời, năm trải hơn 2000 năm; buộc nút dây mà làm chính
trị, dân không thói gian dối, có thể thấy được phong tục thuần hậu quê mùa vậy.
Đến vua sau (tức vua cuối cùng) đức kém, lười chính sự, bỏ việc vũ bị không sửa,
ham mê tửu sắc làm vui, binh nước Thục vừa đến thì quốc thống mất”.
Thế là Thục Phán, hậu duệ của nước Thục (ở khoảng Tứ
Xuyên Trung Quốc bây giờ) đã đem quân xâm chiếm nước Văn Lang của Hùng Vương, rồi
hợp nhất bộ tộc Tây Âu của ông ta với tộc Lạc Việt của Hùng Vương, thành bộ tộc
Âu Lạc, rồi lên làm vua, xưng là An Dương Vương, chuyển đô từ Bạch Hạc xuống
Phong Khê, xây thành ốc Cổ Loa, nay thuộc huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.
Cũng cần nói thêm rằng: Tổ tiên của Thục Phán, tức nước Thục, đã bị nhà Tần diệt
từ năm 360 TCN. Con cháu nhà Thục sống sót chạy xuống phương Nam, nương náu ở
vùng núi Cao Bằng, một phần xuống đến tỉnh Yên Bái của nước ta bây giờ. Thục
Phán là người nước Thục, chiếm nước của vua Hùng, làm vua được 50 năm, sau bị
Triệu Đà diệt. Về nhân vật Thục Phán (An Dương Vương), bài Tổng luận của sử thần
Lê Tung (Dương Bang Bản) viết:
“An
Dương Vương, phía Tây thì dời sang Ba Thục, phía Nam thì diệt vua Hùng Vương,
đóng đô ở Loa Thành, giữ nước Âu Lạc, nhờ được nỏ móng rùa, đánh lui quân nhà Tần,
quen mui đánh được, yên vui sinh kiêu, quân Triệu (Đà) đến đánh mà cõi bờ không
thể giữ”.
Tóm tắt thế thôi, chứ sự thực ra thì An Dương Vương Thục
Phán cuối đời bê tha hưởng lạc, lại thêm kiêu căng hồ đồ. Ông ấy đã nghe lời
dèm pha của bọn gian thần, giết các Lạc Hầu Lạc Tướng trung thành như Nồi Hầu,
Đinh Toán… Ngay cả bậc lão trượng, đệ nhất công thần giúp An Dương Vương xây dựng
thành Cổ Loa, chế Nỏ Thần là Tướng quân Cao Lỗ (quê xã Cao Đức, huyện Gia Bình,
tỉnh Bắc Ninh bây giờ) cũng bị nghi oan mà chết, đời sau tôn làm Cao Lỗ Vương.
An Dương Vương mới chính là kẻ làm mất nước vậy! Sử nước ta không có lời nào
khen ngợi ông vua người nước Thục này.
Về nhà Triệu, cũng bài Đại Việt thông giám tổng luận của
Lê Tung nói trên ghi:
“Triệu
Vũ Đế nhân loạn nhà Tần, chiếm lấy đất Lĩnh Biểu, đóng đô ở Phiên Ngung (thuộc
tỉnh Quảng Đông bây giờ-VBL), cùng với Hán Cao Tổ (Lưu Bang-VBL) đều làm đế một
phương, có lòng nhân thương dân, có mưu trí giữ nước, vũ công khiến Tàm Tùng
(Tên vua nước Thục ngày xưa, sau xưng là Thục Vương, dạy dân trồng dâu nuôi tằm)
phải kinh sợ, văn giáo khiến Tượng Quận được chấn hưng; lấy thi thư mà biến đổi
tục nước, lấy nhân nghĩa mà cố kết lòng người; dạy dân cày trồng, nước giàu
binh mạnh. Đến như các việc sai sứ (sang nhà Hán) thì lời rất khiêm tốn, Nam Bắc
giao hoan, thiên hạ vô sự, hưởng nước hơn trăm năm, đáng là bậc vua anh hùng
tài lược. Văn Vương (con Trọng Thuỷ-VBL) là đích tôn của Vũ Đế nối giữ nghiệp
cũ, phàm các chế độ điển chương, hết thảy đều tuân theo phép cũ của vua trước,
lấy nghĩa mà cảm nước láng giềng, đánh lui quân địch, giữ yên biên cương, cũng
là bậc vua nối nghiệp giữ nền vậy!”…
Triệu Đà, tức Triệu Vũ Đế, tổ tiên là người Chân Định,
Trung Quốc. Ông ấy nhân loạn nhà Tần mà chiếm lấy đất Lĩnh Biểu, tức bao gồm phần
đất đai của người Bách Việt (hàng trăm tộc Việt), thuộc phía nam núi Ngũ Lĩnh,
xưa gọi là đất Lĩnh Ngoại (ngoài Ngũ Lĩnh), tức các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây,
đến bán đảo Hải Nam của Trung Quốc bây giờ. Hàng trăm tộc Việt (Bách Việt), mà
Triệu Vũ Đế cai quản, trong đó có người Việt của nước ta bây giờ, gọi chung là
nước Nam Việt. Triệu Đà lãnh đạo dân Bách Việt, chống nhau với nhà Hán, các cụ
ta xưa tôn vinh Triệu Vũ Đế là người dựng nước độc lập đầu tiên là có lý do lịch
sử của nó.
Triệu Đà tuy gốc ở Chân Định, nhưng cả đời ông ấy sống
với người Việt, lấy vợ Việt, con cháu nối tiếp nhau là sự hoà hợp của hai dòng
máu. Làm Hoàng đế một phương, chắc Triệu Vũ Đế không chỉ có một bà vợ. Nhưng
Triệu Đà có một bà vợ họ Trình, quê huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình bây giờ. Đền
thờ Triệu Vũ Đế ở Kiến Xương vẫn còn đó. Hằng năm, vào ngày 1.4, dân địa phương
vẫn tổ chức lễ hội để tuởng nhớ công lao của Triệu Vũ Đế. Nước Đại Việt ta sau
này, hồi ấy chỉ là một quận (Giao Chỉ) của nước Nam Việt mà thôi. Triệu Vũ Đế
làm vua 71 năm, thọ 121 tuổi.
Nhà Triệu bị nhà Hán thôn tính, nước Nam Việt trở
thành đất đai của nhà Hán. Năm 40 sau công nguyên, hai chị em Trưng Trắc và
Trưng Nhị khỏi nghĩa giành độc lập. Về sự kiện này, bài Tổng luận của Lê Tung
chép:
“Kịp
đến Trưng Vương là dòng dõi Hùng Vương, chị em đều có tiếng dũng lược, căm giận
về chính lệnh hà ngược của Tô Định (Thái thú quận Giao Chỉ-VBL), hăng hái đem
người các bộ, nổi quân hùng mạnh, lừng lẫy uy danh, quận huyện hưởng ứng, cho
nên lấy được 65 thành ở Lĩnh Ngoại (tức đất đai Nam Việt cũ thời nhà Triệu-VBL),
thu lại hết đất cũ Nam Việt, cũng là bậc hào kiệt trong nữ lưu. Song vì trời
không giúp họ Lạc, nên quân nhà Hán sang lấn, nếu bấy giờ có vua anh hùng tài
lược, thì nhà Hán đâu dám nhòm ngó đến đèo Mai Lĩnh”.
Bàn về sự thất bại của Hai Bà Trưng, các sử gia ngày
trước bình luận ở hai điểm chủ yếu. Thứ nhất là đèo Mai Lĩnh trước đó đã bị nhà
Hán chiếm mất. Đây chính là con đèo rất hiểm trở, có vị trí chiến lược cực kỳ
quan trọng, là cửa ngõ mà nhà Hán có thể nhòm ngó xuống nước Nam Việt của ta. Mất
đèo Mai Lĩnh thì Hai Bà Trưng khó có thể giữ được thành quả chiến đấu của mình.
Thứ hai là vua đàn bà, không thực sự có tài thao lược lớn, nên mới mau chóng bị
thua. Nguyễn Trãi có hơn ba năm phiêu dạt bên Tàu, chưa rõ vì lý do gì, nhưng
ông cũng đã từng qua con đèo Mai Lĩnh, còn có tên khác là đèo Đại Dũ này. Ông
viết: “Đi hết Mai quan mà không thấy cây
mai nào cả”… Đèo này, Tể tướng nhà Đường là Trương Cửu Linh, đồng thời là một
nhà thơ lớn, cho mở mang rộng rãi, rồi trồng rất nhiều cây mai, nên mới có tên
là đèo Mai Lĩnh, cũng là biên giới giữa nhà Hán và Nam Việt của ta trước đó.
Trong 65 thành mà hai Bà Trưng chiếm lại, chủ yếu nằm trên đất Lưỡng Quảng của
Trung Quốc ngày nay. Hiện đền thờ Hai Bà Trưng rải rác khắp mọi nơi bên đất Lưỡng
Quảng, biểu thị niềm tôn kính của nhân dân Bách Việt đối với sự nghiệp vĩ đại của
Hai Bà Trưng. Ngay như ở thời Quang Trung Hoàng đế nước Đại Việt thế kỷ 18,
cũng đã có chủ trương đòi lại Lưỡng Quảng bằng ngoại giao và thậm chí, bằng cả
võ lực nếu cần thiết, bởi đất ấy là đất đai của người Nam Việt xưa kia. Chỉ tiếc
rằng Nguyễn Huệ chẳng may mất sớm, sự nghiệp còn dở dang.
Vậy, xem xét công nghiệp của hai ông Thục Phán An
Dương Vương và Triệu Vũ Đế, ai hơn? Chẳng cần phải bàn luận chi nhiều, cũng đã
thấy rõ. Chúng tôi nêu thêm một số căn cứ để minh họa thêm về sự nghiệp dựng nước
của Triệu Vũ Đế để bạn đọc cùng tham khảo.
1.Về
sự thật được ghi trong chính sử nước ta
– Thục An Dương Vương thuộc dòng dõi nước Thục bên
Tàu. Ông ta cũng là một tay dũng lược, làm thủ lĩnh bộ tộc Tây Âu, nhiều năm
đánh nhau với vua Hùng. Con rể vua Hùng là Nguyễn Tuấn (tức Tản Viên) đánh nhau
với Thục Phán nhiều trận. Vua Hùng suy yếu rồi mất nước. Thục Phán cai trị nước
Văn Lang 50 năm. Sử ta không thấy câu nào khen ngợi công nghiệp của An Dương
Vương cả.
– Triệu Vũ Đế, tổ tiên cũng là người Hán, nhưng ông ấy
đã sống với người Việt, đã thành người Việt (Việt hoá), lấy vợ Việt, thụ hưởng
văn hoá thuần phác của các tộc Việt ở phương Nam, lập ra nước Nam Việt, lãnh đạo
người Bách Việt chống nhau với nhà Hán, khôn khéo lấy sách lược “Nội cương ngoại
nhu”, bảo vệ được đất nước, tồn tại mạnh mẽ tới hơn trăm năm. Đến đời chắt của
Triệu Đà (Ai Vương) thì suy yếu, lại thêm Hoàng hậu họ Cù là người Hán mưu toan
dâng nước Nam Việt cho nhà Hán, nên Tể tướng Lữ Gia dù cố gắng mấy cũng không bảo
toàn được Nam Việt. Công lao dựng nước của Triệu Vũ Đế được chính sử nước ta hết
lời ca ngợi, xem ông là vị vua dựng nước đầu tiên.
2.
Nước Nam Việt trong văn chương
Chỉ nêu vài ví dụ: Diễn ca của các cụ ta xưa về cuộc nổi
dậy của Hai Bà Trưng có câu: “Đô thành
đóng cõi Mê Linh / Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta”… Ghi việc Hai Bà
Trưng đã giải phóng toàn bộ đất đai của người Bách Việt, gồm Quảng Đông, Quảng
Tây đến bán đảo Hải Nam của Trung Quốc ngày nay, chứ không phải chỉ có đất đai
của nước Đại Việt sau này (Đời Hậu Lý – 1009-1226- mới có quốc hiệu Đại Việt).
Phần lớn đền thờ Hai Bà Trưng là ở Lưỡng Quảng của Trung Quốc bây giờ.
Đời Trần (1226-1400), Trương Thiếu Bảo (Trương Hán
Siêu) có bài “Bạch Đằng giang phú” nổi tiếng, đoạn mở đầu, Trương Hán Siêu viết
rằng ông đã học theo Tử Trường (Tư Mã Thiên) cái thú thích tiêu dao, rằng ông
cũng đã từng đi chơi khắp đó đây, “Cửu
Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt / Nơi có người đi đâu mà chẳng biết”, rồi
ông lại “Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông
Triều / Đến sông Bạch Đằng thuyền bơi một chèo / Bát ngát sóng kình muôn dặm /
Thướt tha đuôi trĩ một màu Nước trời một sắc / Phong cảnh ba thu”… Đó không
chỉ là một cuộc du chơi trong văn chương có tính ước lệ, mà còn dựa trên những
cơ sở hiện thực lịch sử, rằng đó là vùng đất, là quê hương muôn đời của người
Bách Việt. Khi Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn ốm nặng, vua Trần Anh Tông
(Con rể) đến thăm và hỏi rằng nếu chẳng may ngài mất đi, giặc phương Bắc lại
sang lấn cướp thì kế sách giữ nước như thế nào. Hưng Đạo Vương nói rằng: “Ngày xưa, Triệu Vũ Đế dựng nước, vua Hán
cho quân đánh thì nhân dân làm kế thanh dã (Kế “vườn không nhà trống”) rồi đem
đại quân từ Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường sa, dùng đoản binh úp đằng
sau, đó là một thời”!…
Thế kỷ 15, Nguyễn Trãi viết trong “Bình Ngô đại cáo” như thế này:
“Như
nước đại Việt ta từ trước / Vốn xưng nền văn hiến đã lâu / Núi sông bờ cỡi đã
chia / Phong tục Bắc Nam cũng khác (Bắc: chỉ Trung Quốc; Nam, chỉ phương Nam, tức
Nam Việt xưa). Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập / Cùng Hán, Đường,
Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương / Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau /
Song hào kiệt đời nào cũng có!”
(Duy
ngã Đại Việt chi quốc / Thực vi văn hiến chi bang / Sơn xuyên chi phong vực ký
thù / Nam Bắc chi phong tục diệc dị / Tự Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo
ngã quốc / Dữ Hán, Đường, Tống, Nguyên nhi các đế nhất phương / Tuy cường nhược
thời hữu bất đồng / Nhi hào kiệt thế vị thường phạp).
Thế nghĩa là Nguyễn Trãi vẫn tôn trọng lịch sử, nói
đúng sự thật lịch sử. Sách giáo khoa của ta khoảng vài chục năm trước vẫn in đầy
đủ bản Đại cáo bình Ngô có chữ Triệu,
đối với chữ Hán ở câu sau, nhưng Giáo sư Bùi Văn Nguyên lại chú thích: “Có lẽ Nguyễn Trãi nhầm”. Thật là lửng
lơ quá. Nguyễn Trãi quyết không nhầm. Chỉ có con cháu đời sau là nhầm lẫn mà
thôi! Sách giáo khoa Trung học phổ thông khoảng mấy năm trước, vẫn in đầy đủ
theo nguyên tác, nghĩa là có chữ “Triệu”, nhưng lờ đi không chú thích gì nữa.
Chúng tôi hiểu sự bế tắc này có căn nguyên ở đâu, nên phần nào thông cảm với với
các nhà làm sách giáo khoa. Tuy nhiên, lịch sử thì không thể có sự “thông cảm” được.
3.
Trong đời sống tâm linh của nhân dân ta
– Theo các nhà nghiên cứu lịch sử thì hầu hết các bi
ký, ngọc phả, thần phả ở các đền miếu hai bên bờ sông Đà, đều thờ các vị tướng
của vua Hùng chống giặc Thục (Phán).
– Tài liệu khảo sát mới công bố gần đây của tác giả Phạm
Quý Mùi trên tạp chí Xưa & Nay, số 426, tháng 4-2014 cho hay: Trong tổng số
15 ngôi đình đền được khảo sát ở tỉnh Hải Dương, cụ thể như sau: Có 1 đền thờ
vua Hùng Duệ Vương ở Cẩm giàng. 1 đền thờ ở Cẩm Giàng thờ tướng giúp vua Hùng
đánh Triệu Đà (Tôi nghĩ là tướng của Thục An Dương Vương thì đúng hơn. Làm gì
còn tướng của vua Hùng khi Thục Phán đã diệt vua Hùng từ mấy chục năm trước?).
2 ngôi đền ở huyện Chí Linh thờ Cao Lỗ Vương, người chỉ đạo xây Loa Thành và chế
máy bắn tên hàng loạt, mỗi lần bắn ra diệt hàng trăm địch, truyền thuyết cho đó
là Nỏ Thần). Riêng bia đình thôn Lễ Quán (Nay thuộc thành phố Hải Dương) thì thờ
An Dương Vương, vì đây là địa phương mà An Dương Vương khi bị Triệu Đà truy đuổi
chạy qua đây, có để lại 200 lạng bạc và dặn dân làm đền thờ sau khi ông ta bỏ
nước chạy ra biển tự tử. Số còn lại gồm 10 ngồi đình đền ở các huyện Gia Lộc,
Chí Linh, Cẩn Giàng, Tứ Kỳ, Thanh Miện, Ninh Giang… đều thờ các tướng của vua
Hùng đánh nhau với giặc Thục (Thục Phán). Chỉ cần nhìn vào con số thống kê trên
đây ở tỉnh Hải Dương thôi, chúng ta đã thấy rõ lòng dân đối với An Dương Vương
như thế nào. Trong đời sống tâm linh, An Dương Vương đối với nhân dân nước ta
chưa có gì đáng kể, lý do là vì ông ta cướp nước Văn Lang của vua Hùng. Năm
mươi năm cai trị của An Dương, chưa nói lên được điều gì lớn đối với dân ta, ngoài
công lao chế tác vũ khí và xây thành ốc của tướng quân Cao Lỗ, còn lại, chỉ là
những kỷ niệm đau buồn. Trên khắp nước Đại Việt ta, theo chỗ chúng tôi được biết,
không ở đâu có lễ hội tưởng nhớ An Dương Vương cả.
Nhưng đến khi Triệu Vũ Đế thôn tính được An Dương
Vương, thì dân ta lại hưởng thái bình thịnh trị hàng trăm năm, đặc biệt là
không bị Hán hoá, không bị Trung Quốc đồng hoá, cho dù ta chỉ là một phần của cộng
đồng các dân tộc Bách Việt ở phía Nam Ngũ Lĩnh, tức nước Nam Việt. Ở huyện Kiến
Xương, tỉnh Thái Bình, hàng năm vẫn có lễ hội tưởng nhớ công lao của Triệu Vũ Đế.
Sử ta từ khi được chép vào sách vở, đều xem Triệu Vũ Đế
là vị vua dựng nước đầu tiên. Các đời vua Hùng Vương lập nước, tồn tại khoảng
hơn 2000 năm, sau bị Thục Phán đánh bại, chính sử không thấy chép kỹ càng, Đại
Việt sử ký toàn thư chép ở phần ngoại kỷ, tức là theo truyền thuyết mà chép đại
khái thế thôi. Trong khi đó, nhà Triệu được chép trang trọng vào phần “bản kỷ”, được thừa nhận là triều đại dựng
nước đầu tiên. Thời các vua Hùng Vương, nước ta có chữ viết hay chưa? Có thể
tin là đã có chữ viết, ví như “hoả tự”
(chữ hình ngọn lửa) ngày nay đang được nghiên cứu cho rằng đó là chữ viết của
người Việt cổ. Sau hàng ngàn năm Bắc thuộc, chữ viết của người Việt cổ dần bị Bắc
triều tiêu huỷ, đến nỗi mất cả tăm tích, thay thế bằng chữ Hán từ thời Sĩ Nhiếp
(Sĩ Vương) đô hộ. Tuy nhiên, những chứng tích vật thể còn tồn tại đến bây giờ,
ví như trống đồng Đông Sơn chẳng hạn, đã cho thấy trình độ văn minh của người
Việt đã đạt đến đỉnh cao rực rỡ như thế nào. Một dân tộc đã làm ra trống đồng
tinh vi như thế, lại hàm ẩn trong các họa tiết hoa văn chạm khắc đến mức tuyệt
vời bề sâu văn hoá và tâm hồn của một dân tộc, không thể nói là không có hoặc
chưa có chữ viết! Chữ Hán được sử dụng làm văn tự chính thống ở nước ta, đến
khi có chữ Quốc ngữ ra đời… Nhà Minh đánh bại nhà Hồ (1407), Minh Thành Tổ ra lệnh
cho các tướng nhà Minh phải triệt để tiêu hủy nền văn hóa của nước ta. Sau đó,
hắn còn chỉ thị tiếp tục tiêu hủy đến cùng văn hóa nước ta, từ sách vở đến bia
ký. Tội ác của chúng trời không dung đất không tha, quỷ thần đều căm giận.
4.
Vậy sai lầm bắt đầu từ đâu?
Đây là lời của quan Tham tụng Lại bộ thượng thư kiêm
Đông các đại học sĩ thiếu bảo, Yên quận công Phạm Công Trứ viết trong bài (tựa)
cuốn “Đại Việt sử ký tục biên”, năm Ất
Tỵ 1665:
“…Hãy
thử xét xem. Ngày xưa Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử viện giám tu là Lê Văn
Hưu vâng mệnh Trần Thái Tông chép bộ ‘Đại Việt sử ký’ bắt đầu từ Triệu Vũ Đế đến
Lý Chiêu Hoàng và sử quan Phan Phu Tiên vâng mệnh Nhân Tông của bản triều (tức
triều Hậu Lê) chép nối bộ ‘Đại Việt sử ký’ từ Trần Thái Tông đến khi người Minh
trở về nước, nghĩa lớn khen chê đã rành rành ở lời công luận của bút chép sử
…Vào khoảng năm Hồng Đức thứ 10 (1479) sai Lễ bộ tả thị lang kiêm Quốc tử giám
tư nghiệp Ngô Sĩ Liên biên soạn bộ ‘Đại Việt sử ký toàn thư’. Tiếp đến Tương Dực
Đế năm Hồng Thuận thứ 3 (1511) sai Binh bộ thượng thư kiêm Quốc tử giám tư nghiệp
kiêm sử quan đô tổng tài là Vũ Quỳnh biên soạn bộ ‘Đại Việt sử thông giám’, chép
từ Hồng Bàng Thị đến 12 sứ quân, tách làm ‘ngoại kỷ’, từ Đinh Tiên Hoàng đến
năm đầu Thái Tổ cao hoàng đế bản triều mới lại định thiên hạ làm ‘bản kỷ’… Đến
năm Hồng Thuận thứ 6 (1514) lại sai Thiếu bảo Lễ bộ thượng thư Đông các đại học
sĩ kiêm Quốc tử giám Tế tửu tri Kinh diên sự là Đôn thư bá Lê Tung soạn bài ‘Đại
Việt sử thông giám tổng luận’.”
Trong bài “Phàm
lệ về việc biên soạn sách Đại Việt sử ký toàn thư”, tác giả viết:
“Sách
này làm ra, gốc ở hai bộ ‘Đại Việt sử ký’ của Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên, tham
khảo với Bắc sử, dã sử, các bản truyện chí và những việc nghe thấy truyền lại,
rồi khảo đính biên chép mà thành. Chép bắt đầu từ Ngô Vương, vì Vương là người
nước Việt đương lúc Nam Bắc phân tranh đã dẹp loạn dựng nước để nối đại thống với
Hùng Vương và Triệu Vũ Đế. (Nay theo “Bản kỷ toàn thư” của Vũ Quỳnh, bắt đầu từ
Đinh Tiên Hoàng, là để nêu rõ mối đại thống nhất).”
Xem thế đủ biết các cụ ta xưa không hề sai lầm. Các cụ
vẫn xem Triệu Vũ Đế (Triệu Đà) là sự tiếp nối của vua Hùng, chứ không hề nói đến
ngài Thục Phán An Dương Vương! Việc chia ra từng phân khúc, khi xếp vào “ngoại kỷ” hoặc “bản kỷ”, chỉ là để “nêu rõ mối
đại thống nhất”, theo thiên kiến của tác giả các bộ sách sử mà thôi. Tuyệt
nhiên không có việc phủ định quá khứ oai hùng của Triệu Vũ Đế, như một niềm tự
hào vốn đã có từ bao đời, trong lịch sử, trong văn chương, trong đời sống tâm
linh của người Bách Việt, kế đó là của người Đại Việt ta!
Chúng ta đã có một thời giáo dục sai lịch sử, khi cho
rằng Triệu Đà (Triệu Vũ Đế) là giặc, lại còn xem An Dương vương là vua của nước
ta, đúc tượng đồng thờ ông ấy ở Cổ Loa, đặt tên đường ở khắp nơi, trong Nam
ngoài Bắc. Con cháu đời sau cứ thế mà nối tiếp cái sự nhầm lẫn đến tệ hại này.
Rồi không biết sẽ còn sai lầm đến đâu nữa. Tôi cho rằng đã đến lúc thẳng thắn
nhìn lại lịch sử, viết cho đúng lịch sử, đừng nên làm nó méo mó đi, bởi như thế
là bất nhẫn với tiền nhân, có tội với tiền nhân và con cháu chúng ta. Rất mong
được các nhà làm sử, dạy sử quan tâm chỉnh sửa sai lầm rất đáng tiếc này.
Hà
Nội mùa thu năm 2015
Vũ Bình Lục
Vũ Bình Lục
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét