Bắc
Ninh thi thoại của Nguyễn Khôi (Đình Bảng) đã tái bản nhiều lần ở Việt Nam, độc
giả trong và ngoài nước đánh giá cao giá trị nghệ thuật của tác phẩm này. Xin trích một
số chương giới thiệu cùng bạn đọc.
(Phần ngoại biên)
Tặng người em đồng hương – Tiến sỹ Nguyễn Văn Hoa
TRỞ VỀ VỚI BẢN GỐC THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG
- Một là: thời điểm xuất hiện “Xuân Hương thi tập” là thời Vua Minh Mạng (1820-1840)
- Hai là, lúc bấy giờ Hồ Xuân Hương đã nổi tiếng hay thơ Nôm.
- Ba là, lúc bấy giờ Xuân Hương vẫn còn trẻ, còn được người đời (qua văn bản) gọi bằng “cô”.
Qua các văn bản chữ Nôm xưa, Kiều Thu Hoạch đã loại trừ được một số bài thơ bị gán cho Nữ Sỹ như các bài: “Đánh cờ người”, “tát nước”, “cái nợ chồng con”, “đánh đu”, ”bà đanh”, “đồng tiền hoẻn”, “ông cử võ”…
Kinh thành ngày trước, tỉnh bây giờ
Tượng đồng Trấn Vũ hương còn ngát
Bia đá Khuê Văn chữ chửa mờ
Bảo Tháp lơ thơ chòm cỏ mới
Hồ sông lai láng bóng trăng xưa
Nào ai Cố lão ra đây hỏi
Chốn cũ phồn hoa đã phải chưa?
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai
Bốn mùa triêu mộ chuông gầm sóng
Một vũng tang thương nước lộn trời
Bể ái ngàn trùng khôn tát cạn
Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi
Nào là cực lạc là đâu tá
Cực lạc là đây chín rõ mười.
Trơ cái hồng nhan mấy nước non
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy chòm
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình son trẻ tí con con.
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm chừng mười họa hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng
Cầm bằng làm mướn mướn không công
Nỗi này ví biết dường này nhỉ
Thời trước thôi đành ở vậy xong.
Sự này có thấu hỡi chăng chàng
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc
Phận liễu sao mà nảy nét ngang
Cái tội trăm năm chàng chịu cả
Chữ tình một khối thiếp xin mang
Quản chi miệng thế lời chênh lệch
Chẳng thế nhưng mà thế mấy ngoan.
Lấy ai khuynh quốc lại khuynh thành
Vô duyên nên nỗi người chê “đểu” (1)
Có đẹp chăng thời gái ở tranh
Ghét mặt cục vàng ra cục đất
Tắt đèn nhà ngói bẵng nhà gianh
Thay lời mượn bút đem thư gửi
Nghĩ lại sao cho để được đành
Vó ký phen này quyết thẳng rong
Non nước chơi hoài non nước đó
Gió giăng nào phải gió giăng không
Mặt càng đối mặt tình ngao ngán
Tay chửa rời tay bước ngại ngùng
Lão Nguyệt lẽ nào trêu quải mãi
Chén đồng xin hẹn khắc đêm đông.
Khen ai khéo vẽ cảnh cheo leo
Cửa son tía ngắt lơ thơ móc
Đường đá xanh rì lún phún rêu
Phưởng phất chồi thông cơn gió tốc
Mịt mờ ngọn cỏ lúc sương reo
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mỏi gối chồn chân cũng muốn trèo.
Kìa đền Thái Thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.
Cái nợ phù sinh có thế thôi
Chôn chặt văn chương ba thước đất
Ném tung hồ thỉ bốn phương trời
Nắm xương dưới đất chau mày khóc
Hòn máu trên tay mỉm miệng cười
Đã thế thời thôi cho mát mẻ
Trăm năm Quan Phủ Vĩnh Tường ôi.
Cũng đòi học nói nói không nên
Ai về nhắn nhủ phường lòi tói
Muốn sống đem vôi quét trả đền.
Nó bảo nhau rằng ấy ái uông.
Trèo lên trèo xuống mỏi xương kheo
Cành la cành bổng vin co vít
Bông chín bông xanh để lộn phèo.
Đem cái xuân tình cắm ở đâu
Rúc rích thây cha con chuột nhắt
Vo ve mặc mẹ cái ong bầu
Nào ai biết được vông hay chóc
Nọ kẻ chia ra cuống mấy đầu
Thôi thế thời thôi thôi cũng rảnh
Trăm năm càng khỏi tiếng làm dâu.
Lác coi từng đám rõ từng nơi
Giang sơn đâu đó nhô đầu dậy
Hoa cỏ quen hơi mỉm miệng cười.
Mạc quải anh hùng lưỡng thủ mô
(Bùn kia còn biết nơi cao thẳm
Chẳng trách anh hùng thích mó tay).
Để cho nê thổ nảy chơi xuân.
(Bài 2)
Xuân Hương xướng:
Kìa ai ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Khoan khoan xin hãy dừng tay lại
Chớ mó hang hùm nữa mất tay.
Nào ai ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Ví dầu hang chẳng cho ai mó
Sao có hùm con bỗng trốc tay.
– Trách con tạo lừa cơ tem hẻm, chuốt núi xuôi cho lọt khách cổ kim.
Nguyễn Khôi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét