Nguồn:
https://www.vinadia.org/hoi-ky-nguyen-dang-manh/hoi-ky-nguyen-dang-manh-nguyen-tuan/
https://www.vinadia.org/hoi-ky-nguyen-dang-manh/hoi-ky-nguyen-dang-manh-nguyen-tuan/
Từ nhỏ tôi đã đọc Nguyễn Tuân trong kho sách của bà chị
cả tôi. Tất nhiên chẳng hiểu gì lắm! Nhưng cũng muốn bắt chước chủ nghĩa xê dịch
của Nguyễn Tuân: thích lang thang ngắm trời, ngắm đất. Thời kháng chiến chống
Pháp, một mình đi trên đường Việt Bắc, lội suối, leo đèo, rất khoái – thực sự cảm
thấy cái khoái “Đường vui” của Nguyễn
Tuân quả là có thật. Hồi về Hà Nội học Đại học Sư phạm (1957), tôi có lần dắt
xe đạp thử đi suốt đêm ở Hà Nội, từ phố này sang phố khác, bắt chước Nguyễn
Tuân làm “Một người lữ hành trong thành
phố chúng ta”, xem Hà Nội sinh hoạt về đêm như thế nào, thưởng thức những
tiếng rao đêm có giọng điệu riêng của các hàng quà rong xuất hiện rất đúng hẹn
cho mỗi thời khắc.
Tôi chính thức được tiếp xúc với Nguyễn Tuân khi dạy ở
Đại học Sư phạm Vinh. Trường Vinh cử tôi ra đón Nguyễn Tuân vào nói chuyện về
ký chống Mỹ. ấy là vào năm 1965, 1966 gì đó.
(Nguyên Ngọc cho rằng, nếu Nguyễn
Tuân lên núi Tản Viên trước khi viết Trên đỉnh non Tản thì có khi lại viết hỏng)
Từ lúc bị Nguyễn Tuân từ chối chai vang, Trần Văn Hối
bèn sục tìm trong làng kiếm được một chai cuốc lủi, lặng lẽ đặt ở nơi nghỉ của
ông. Lúc ông rời Thạch Thành, chai rượu vẫn còn nguyên. Ông có rượu riêng đem
đi, không uống tạp như Nguyên Hồng, Hoàng Trung Thông hay Đoàn Phú Tứ…
Bữa tiệc cuối cùng khoa văn tiễn ông có nhiều rau
tươi: xà lách xanh non, cà chua, ớt màu đỏ. Nguyễn Tuân có vẻ thích. Ông khen bữa
ăn rất đẹp. Ông kể chuyện từng được một ông sư đãi một bữa thịt chó độc đáo. Thịt
chó ướp gia vị, đặt vào giữa bông sen, bó lại, đem đồ cho chín dừ. Món ăn vừa tục
vừa thanh, vừa có vị chát của nhựa sen vừa có hương thơm của hoa sen.
Tôi nghĩ bụng, thịt chó mà dám cho vào toà sen, lão sư
nào mà hỗn thế. Nhưng vừa ăn vừa nghĩ đến cái tục cái thanh của nó, chắc cũng
thú.
Lần thứ hai, tôi được gặp Nguyễn Tuân là vào mùa thu
năm 1967. Cũng là tình cờ thôi. Tôi ra Hà Nội, có việc đến Nhà Xuất bản Văn học
(49 Trần Hưng Đạo) và gặp Nguyễn Tuân ở đó. Hình như ông đến làm việc với Nhà
Xuất bản về việc in một tập ký chống Mỹ thì phải (Nghe nói NXB đề nghị loại bỏ
bài Tờ hoa, còn ông thì nhất định đòi giữ lại, không in thì thôi).
Dịp may hiếm có, tôi đề nghị được gặp ông. Ông đồng ý,
không tỏ vẻ khó khăn gì cả.
Tôi hỏi ông về những tác phẩm gần đây của ông, về quan niệm và cách viết của ông.
Ông nói liền một mạch, rất sôi nổi:
–
Người ta viết văn, giảng văn, nói đã nhiều về tư tưởng, về đạo đức. Điều ấy
không phải không cần. Nhưng tôi muốn giúp độc giả nâng cao trình độ thẩm mỹ,
đem đến cho họ cảm xúc về cái đẹp. Đó là điều băn khoăn của tôi. Tôi cung cấp
cho họ những gợi ý bằng những suy nghĩ của tôi. Còn họ phản ứng thế nào, tuỳ.
–
Về độc giả, tôi không quan niệm là công nông hay trí thức mà chỉ chú ý phục vụ
con người mới, có tư tưởng mới, có văn hoá, có trí thức. Bao giờ độc giả được tất
cả như thế, tôi không biết, nhưng nhất định sẽ như vậy, tôi rất tin điều đó.
–
Về kinh nghiệm viết văn?
Tôi
cho tác phẩm văn học mà không tạo ra được cái atmosphère thì không có giá trị
gì. Cái atmosphère nó làm cho cùng một hiện tượng, cùng một sự việc mà thành
màu sắc xanh đỏ tím vàng khác nhau. Cái chi tiết nước sông Hồng dâng cao trong
bài “Hà Nội giải tù Mỹ qua phố Hà Nội” là cái chi tiết tạo không khí như thế.
Kinh
nghiệm tạo không khí là phải có quan điểm lịch sử, quan điểm địa lý, quan điểm
thiên nhiên, có óc tưởng tượng mới tạo ra được.
Bài
Nguyễn Văn Trỗi, tôi viết ngay khi có tin ấy. Tôi muốn tạo ra cái résonnance
toàn thế giới. Lúc đó tài liệu gầy guộc nghèo nàn quá, tôi phải cố tạo ra không
khí bằng cách ngồi trước quả địa cầu và bản đồ thế giới mà tưởng tượng.
Có
người nhận xét tôi lan man, không phải không đúng. Nhưng bài văn đâu phải bản
báo cáo mà phải có các mục 1, 2, 3, hay như bài rédaction, bài composition của
học trò, cũng không phải bài thơ Đường luật có đề, thực, luận, kết… Nó tuỳ theo
nhà văn định nói gì và cách nói của anh ta. Lan man là hiện tượng, nhưng nó có
cái fil d’idée của nó. Nó không có hại gì về bố cục, về tư tưởng là được.
Sông
Đà bảo là lan man, thực ra là cái fil d’idée của nó là vấn đề giao thông vận tải…
Có
người lại bảo tôi là thiên nhiên chủ nghĩa không nói đến người. Thế thì bài Xoè
của tôi bỏ đi đâu? Người ta có định kiến sẵn khi phê bình nên không nhìn toàn
diện.
Tôi
cho nội dung không thiếu. Cái quan trọng là cách nói cho nổi cái nội dung đó
lên, thế mới gọi là có đóng góp. Cách nói, nói thế nào là điều tôi băn khoăn
nhiều và thế mới có ích.
–
Tôi không thích khẳng định nhiều quá… Có lối viết đưa ra kết luận rõ ràng, dứt
khoát, có cách viết không kết luận, để tự người đọc kết luận lấy, gọi là lối
nóng, lối lạnh. Tôi thích lối thứ hai này. Người nước ngoài thường than phiền
văn học ta trop d’ affirmatifs, trop de superlatifs, đáng lẽ nói tốt thì lại
nói “rất tốt”, “rất vĩ đại”…
Khi tôi và Nguyễn Tuân trò chuyện với nhau thì cuộc
tranh luận về thể ký còn đang tiếp tục sôi nổi trên các báo chí (1966, 1967).
Tôi bèn hỏi quan niệm của Nguyễn Tuân về thể văn này.
Ông nói:
Tôi hỏi ông về những tác phẩm gần đây của ông, về quan niệm và cách viết của ông.
Ông nói liền một mạch, rất sôi nổi:
“- Đúng, người ta đang tranh luận về thể ký. Ký và cấu. Nhiều người tham gia tranh luận nhưng có viết ký đâu. Tôi thì cứ viết. Có người hỏi làm thế nào để viết ký cho hay, không nhạt. Tôi cho rằng phải có vốn văn hoá, vốn kiến thức. Người viết có nhiều dụng cụ thì đồ chế tạo nhất định phải tinh xảo hơn. Kiến thức lịch sử, địa lý, thiên nhiên…, rồi vận dụng các ngành nghệ thuật. Mà nói chung thì nghệ thuật nào chẳng phải mượn các cách của nghệ thuật khác để thể hiện. Khi anh không chỉ tả mặt mà còn tả cái gáy, cái vai, tả người cúi xuống, cái mông bóng lên, là vô tình đã phải vay mượn điêu khắc rồi”.
(Theo Tô Hoài, Nguyễn Tuân rủ Lương Đức Thiệp sang
Xiêm để tìm ngọc ở Pâylinh).
Trong quá trình làm Tuyển tập Nguyễn Tuân, tôi có điều
kiện tiếp xúc luôn luôn với ông. Ông quả là người khó tính, không phải ai đến,
ông cũng tiếp. Có lần ông đuổi một anh thanh niên đường đột đến thăm ông: “Anh đến gặp con gái tôi đấy à? Nó đi vắng rồi!”.
Lại nghe nói có một cán bộ lãnh đạo ông không ưa, đến chúc Tết ông, ông mở cửa
sổ nhìn xuống nói: “Nguyễn Tuân đi vắng”,
rồi đóng sập cửa lại…Nguyễn Văn Hạnh muốn đến ông, nhưng cũng ngại… Vậy mà đối
với tôi, ông tỏ ra rất dễ dãi. Ông cho phép tôi đến ông lúc nào cũng được,
không cần báo trước, miễn là đến sau 10 giờ sáng. Trước giờ đó, ông có thói
quen đi dạo mấy vòng ngoài phố, 10 giờ thì về ăn cơm.
Có điều này, ông nói tôi mới biết: Anh Lý Hải Châu,
giám đốc Nhà xuất bản Văn học đề nghị hai người làm Tuyển tập Nguyễn Tuân, tuỳ
nhà văn quyết định. ấy là Vũ Ngọc Phan và tôi. Nguyễn Tuân đã chọn tôi. Tất
nhiên tôi rất cảm động, nhưng vinh dự này cũng đặt lên vai tôi một gánh nặng:
phải chọn lựa tác phẩm và nhất là phải viết bài giới thiệu sao cho xứng đáng với
sự tín nhiệm của ông.
Bài viết chỉ có hơn 60 trang (in chữ nhỏ), mà tôi đã
phải viết trong hơn sáu tháng. Rất may đã được Nguyễn Tuân cho là được. Ông chỉ
nói vắn tắt “Tôi không có ý kiến gì khác”.
Tuyển tập Nguyễn Tuân gồm hai cuốn, xuất bản năm 1981,
1982.
Ngày 29 – 5 – 1982, Nguyễn Văn Bổng, hồi đó làm tổng
biên tập tuần báo Văn nghệ, tổ chức một cuộc toạ đàm về Tuyển tập Nguyễn Tuân ở
trụ sở Văn nghệ. Hôm ấy có mặt Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Tế Hanh, Phạm Hổ, Lý Hải
Châu, Lê Khánh,Từ Sơn, Ngọc Trai, Nguyễn Bao, Thiếu Mai… và tôi.
Tôi nhớ hôm ấy, Xuân Diệu nói: “Nghe nói văn Chùa Đàn rất hay, nhưng không có trong Tuyển tập. Phải
trích vài trang Chùa Đàn cho người ta biết mặt mũi tác phẩm này chứ. Tại sao
không cho người ta có cái thú đọc văn hay nhỉ! Qua Tuyển tập, tôi mới hiểu được
anh Nguyễn Tuân. Tại sao lại cứ đòi văn phải có ý nghĩa. Trai gái nó hôn nhau
thì cần gì ý nghĩa. Sự sống có ý nghĩa gì đâu. Tôi rất thích truyện “Một vụ bắt
rượu lậu”. Dân mình thông minh, hóm thật đấy. Xưa tôi đã từng làm đoan, tôi
cũng đã từng đi bắt rượu lậu mà không biết.”
Hôm ấy, Nguyễn Tuân rất vui. Ông phát biểu rất hào hứng:
“Hiện nay có một 'Tuyển tập Nguyễn Tuân' ở
California, một cuốn ở Paris, một cuốn ở Sài Gòn, tôi tặng tướng Trần Văn Trà
do bài hồi ký của ông ta.”
Hôm ấy, ông cũng nói công khai về việc chọn tôi làm
Tuyển tập:
“Vũ Ngọc Phan hồi xưa làm báo
Revue Franco – Annamite, đi xe nhà, làm cái 'Nhà văn hiện đại' chữ nghĩa chằn
chẵn ra, chẳng có trouvaille gì, gọi là cái catalogue St étienne littéraire. Có
vẻ accadémique. Giữa hai người, chọn Nguyễn Đăng Mạnh còn đỡ hơn”.
“Trích như thế làm
cho không còn có tính chất yêu ngôn nữa, đó là fantaisiste và fantastique kia
mà, lão Bố Ô còn huýt sáo, còn có chuyện cháy nhà…
Tôi
còn có truyện 'Thạch tinh', không nhớ đăng báo nào: một anh ăn chơi, bị sỏi thận.
Đêm, hai viên sỏi thận (thành tinh) nói chuyện với nhau, người đó nghe được”.
Ông nói tiếp:
“Còn
Như Phong, còn Mao, thì không thể có Tuyển tập Nguyễn Tuân. Ông Như Phong có lần
nói, văn Nguyễn Tuân để cho người hút thuốc phiện và hát ả đào đọc. Tôi giận lắm.
Tôi bảo Như Phong: “Tôi giận anh lắm, thế trước cách mạng, tôi hút, anh cũng
hút. Thế có phải lúc đó vì đọc sách của tôi mà anh hút không?”
Ông
Vũ Đức Phúc rất ghét văn tôi, vậy mà gần đây ông ấy phải viết khen văn tôi.
Nhưng mà sau khi khen ông ấy lại sợ người ta hiểu sai, đề cao tôi quá, lại nói
Nguyễn Tuân không phải là nhà văn lớn. Nào tôi có muốn là nhà văn lớn đâu, tôi
chỉ mong làm một nhà văn trung bình, viết về cái gì mình thích, thế thôi.
Hồi
Tạp chí Văn hoá – Nghệ thuật có phân ra các ban về văn hoá: ăn, mặc, ở. Hà Huy
Giáp bảo tôi: Anh hay chú ý về cái ăn, vậy anh suy nghĩ xem có cái gì viết, tìm
ra lý luận gì về ăn uống. Tôi viết về giò chả. Ông Vũ Đức Phúc phê phán là phục
vụ bọn phe phẩy mặc áo phin nõn, áo nilông. Sau có chuyện mậu dịch ta bán phở,
thế là phục vụ phe phẩy à?
Ở
Hàng Buồm có quán Bạch Ngọc cơm tám giò chả rất ngon, mở từ thời xưa, có thanh
toán hết nợ cũ (tháng trước) thì mới bán tiếp. Bà chủ quán bảo tôi: “Ông ăn uống
mãi mà ông dại. Người ta ăn gấp mấy ông nhưng không nói. Ông ăn, ông nói, nên
ông chết”.
Lúc ấy có một anh nhiếp ảnh của báo Nhân dân đến chụp.
Nguyễn Tuân lại chuyển sang nói về chụp ảnh: “Camus nói, le photographe, c’est l’histoire de l’instant. Có người lại
ví quay phim là lia một băng liên thanh, còn chụp ảnh là lẩy phát một. Chụp ảnh
là làm một việc rất thiện ý mà người ta khó chịu”.
Cuối cùng ông lại quay về chuyện Tuyển tập. Ông nói:
“Cái người
đàn bà không đẻ được nữa, người ta gọi là tắt kinh, còn nhà văn không viết nữa,
già, hết thời, tôi gọi là đến thời kỳ “tuyển hồi” (viết hồi ký và làm tuyển tập).
In tuyển tập tập I là un pieds dans la tombe rồi, in tập II thì là đưa cả hai
chân…”
Từ sau chuyện Tuyển
tập, thấy Nguyễn Tuân dễ dãi với mình, tôi thỉnh thoảng lại đến ông. Tuy vậy
lần nào đến cũng phải kiếm một cớ gì đấy, gọi là có việc, chứ không phải đến
chơi suông.
Hôm ấy, nhân nghe nói, ông có những nhận xét rất ác về
giới phê bình văn học, tôi đến ông để dò hỏi về điều này. Quả là ông không mấy
lạc quan về tình hình phê bình văn học.
Ông nói:
“Nước
mình không qua tư bản chủ nghĩa, người ta thấy có trở ngại về kinh tế, song
chưa thấy trở ngại về tư tưởng. Lão Khổng Tử ghê gớm lắm!
Phê
bình hiện nay cứ có lối aurait écrire, lối conditionnel. Vào hàng phở lại đòi
ăn cơm và phê bình không nấu cơm, lẽ ra nấu cơm thì sẽ … hay hơn. Thành ra để
tránh conditionnel, người viết phải dùng toàn inpératif hay infinitif.
Tây
phương nó đòi dân chủ, bàn đã khá triệt để, đòi được tự do, được quyền phạm sai
lầm, revendiquer le droit de l’ erreur. Không phải để làm bậy đâu mà đòi một
cái marge cho tự do tìm tòi. Nếu bắt phải đúng thì ai dám tìm tòi. Mà sao phạm
sai lầm lại là độc quyền của một số người!
Trong
lịch sử ta đã có lúc giương lá cờ độc lập tự do để tập hợp nhân dân, nhưng
không mấy khi dám giương riêng lá cờ dân chủ.
On
trouve quand on cherche. Quand on cherche, on trouve quelque chose. Khi người
ta tìm có thể không tìm ra cái định tìm, nhưng nhất định tìm ra cái gì đó, một
cái khác với dự định.
Hiện
nay đang hình thành một thứ provincialisme, một thứ chủ nghĩa tỉnh xép trong
quan niệm, trong tình thần lãnh đạo.
Người
ta phê bình Tình rừng của tôi cũng theo lối aurait écrire.
Còn
cuộc tranh luận chung quanh thể ký thì cứ cãi nhau ký với cấu, ký không cấu,
đúng là trò cười.
Về
Vũ Trọng Phụng thì tôi biết, chả có trốt – kít gì cả đâu. Hồi ấy viết lách lung
tung lắm.
Hiện
nay người ta ách nhiều thứ quá. ách truyện ngắn Gogol, ách Le Rouge et leNoir,
ách Guy de Maupassant, Le Boule de suif, định dịch Le steppe sau lại thôi. ách
cả La peau de chagrin… Phê bình thì theo kiểu aurait écrire. C’ est une
gratuité. Tôi ghét nhất loại chính thống orthodoxe mà lại giả vờ thắc mắc, để
do thám, aux écoutes người khác. ách Miếng da lừa vì cho là chủ nghĩa sống gấp.
ách Le Rouge it le Noir vì cho rằng ông cha ta, vợ chồng ngủ với nhau cũng khăn
áo chỉnh tề, nay nó lại dám cởi quần áo ra thì láo quá!
Ở
ta, một mặt khuyến khích réalisme, mặt khác lại tránh cái réel. Tạo ra một thứ
littérature abstraite, hình như không đúng phương pháp nghệ thuật. Chỉ nói ý,
không có hình tượng thật. Theo tôi cần làm một essai có hệ thống về vấn đề này”.
Tôi thấy cần chuyển câu chuyện sang hướng khác, và muốn
tìm hiểu xem khuynh hướng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân như thế nào khi đọc các sách
vở ngoài nước (từ 1945 đến 1975, sách vở nước ngoài vào nước ta chủ yếu là sách
Liên Xô, Trung Quốc)
Nguyễn Tuân tỏ ra có tình cảm với văn học Nga hơn. Ông
nói, thích Gogol, Tchékhov, thích Le Manteau. Thích Paoutovsky. Cuốn Histoire
d’ une vie, sáu tập của Paoutovsky có đoạn văn rất tuyệt: trên tàu điện, người
ta phân phát cho mỗi người một bông hoa. Một đoạn văn có cái lyrisme rất hay.
Nguyễn Tuân rất ghét lối phê bình văn học kiểu Mao-it
của Tầu lúc bấy giờ.
“Cuốn Ballade d’un
soldat nói về một anh lính lúc đầu nhát, sau có thành tích. Họ phê phán: “Sao lại
đưa ra một anh lính nhát”. Tra từ điển
Larousse, tôi thấy nó định nghĩa: le courage, c’ est triompher la peur. Không
phải can đảm sinh ra đã có, phải có quá trình chứ. Người ta không thích quá
trình, cứ phải sinh ra đã can đảm rồi.
Chung
quy là do thiếu văn hoá. Thiếu văn hoá thì sinh ra hẹp hòi. Đó cũng là tư tưởng
của phong kiến và của nông dân”.
Một lần khác, vào đầu tháng 11 năm 1986, tôi lại đến
thăm Nguyễn Tuân. Nhân đang làm tuyển tập
Vũ Trọng Phụng, tôi muốn hỏi ông một vài chi tiết cụ thể về nhà văn này mà
tôi biết ông rất quý. Ngoài ra muốn ông viết cho một bài về Vũ Trọng Phụng để
in vào Tuyển tập.
Lúc tôi đến, ông đang nằm xem sách. Ông ngồi dậy, có vẻ
mệt mỏi. Trên bàn thấy có một mâm cơm rất đạm bạc. Một bát cơm ăn dở. Vài miếng
dứa trên một cái đĩa.
Tôi hỏi ông về ngôi nhà của Vũ Trọng Phụng ở Cống Mọc,
Vũ Trọng Phụng chết ở đó. Tôi nói anh Vũ Đình Liên cho tôi biết đó là một ngôi
nhà lá.
Nguyễn Tuân cau mặt:
–
Tôi ghét cái anh Vũ Đình Liên. Nhà ở Chợ Đuổi, chả biết vợ con xích mích thế
nào, không ở được với nhau, cứ đến ở nhà Vũ Trọng Phụng. Đúng là một anh thần
kinh!
–
Tôi ghét anh Vũ Đình Liên. Tôi biết hồi trước anh ta có chơi bời gì đâu. Thế mà
cứ nói dối là ngày xưa tôi cũng chơi bời cô đầu, cô đít, ra vào tiệm ăn, tiệm
hút… Giống như cái anh Vũ Ngọc Phan. Hay gì, đẹp đẽ gì cái đó mà cũng phải nói
dối, cứ “hư cấu” ra làm cái gì.
Ông lắc đầu, để tay lên ngực; “mùa rét, mệt”. Ông lấy một miếng dứa ăn tự nhiên, uống một hớp rượu
trong cái ly uống sâm banh – ly tròn có chân.
– Tôi đã viết trong bài đăng ở Tao đàn: Vũ Trọng Phụng chết ở ngôi nhà ngay ngoài phố, gần Cầu Mới, chỗ Ngã Tư Sở, đường Hà Nội – Hà Đông.
– Tôi hỏi: Vũ Trọng Phụng có hút thuốc phiện?
– Có, Vũ Trọng Phụng có hút thuốc phiện, để kéo dài cuộc sống, vì anh ta bị ho lao. Có đem bàn đèn về nhà.
– Bác quen Vũ Trọng Phụng từ hồi nào?
– Không nhớ.
– Từ hồi còn ở Hàng Bạc?
– Ờ.
– Bác có đến chỗ ở cuối cùng của Vũ Trọng Phụng và có đưa ma Vũ Trọng Phụng?
– Có. Tôi không thể nào nhầm, nhầm thế nào được! Tôi ghét cái anh Vũ Đình Liên…
Tôi tranh thủ chuyển sang hỏi ông cái điều mà tôi luôn
trăn trở:
“Người ta hay nói về phong cách Nguyễn Tuân. Nhưng bác lại ít nói về phong cách. Quan niệm của bác về phong cách là thế nào?”
Nguyễn Tuân ngồi im lặng, vẻ mặt như sắp nói một điều
gì đã có quan niệm rất rõ, Nghĩa là sắp phát biểu một tuyên ngôn rành mạch. Một
lát, rồi ông chỉ tay ra trước mặt, nói chậm rãi:
– Có, Vũ Trọng Phụng có hút thuốc phiện, để kéo dài cuộc sống, vì anh ta bị ho lao. Có đem bàn đèn về nhà.
– Bác quen Vũ Trọng Phụng từ hồi nào?
– Không nhớ.
– Từ hồi còn ở Hàng Bạc?
– Ờ.
– Bác có đến chỗ ở cuối cùng của Vũ Trọng Phụng và có đưa ma Vũ Trọng Phụng?
– Có. Tôi không thể nào nhầm, nhầm thế nào được! Tôi ghét cái anh Vũ Đình Liên…
“Người ta hay nói về phong cách Nguyễn Tuân. Nhưng bác lại ít nói về phong cách. Quan niệm của bác về phong cách là thế nào?”
–
“Những người viết mà được chế độ này chấp nhận, hay hay dở chưa biết, nhưng được
chế độ này chấp nhận về thế giới quan, nhân sinh quan. Trên cơ sở cái nhân sinh
quan, thế giới quan chung ấy, mỗi người lại có một cái nhỡn quan riêng, tiếng
Pháp gọi là vision. Đó là cái đẻ ra phong cách. Vì cái đó mà anh thì thích tả
gió, tả nắng, anh thì thích tả mây, tả mưa, người có sở trường này, người có sở
trường nọ. Rồi cách đưa vấn đề cũng khác nhau… Nó đẻ ra tất cả.
Văn
học có cái rất vui là phong cách, cách nói, cách quan niệm về nghệ thuật khác
nhau. Anh giảng dạy lại không đi vào đấy, chỉ nói về nội dung, về tư tưởng nên
trở thành nhạt nhẽo vô duyên. Tại anh thôi, cái chỗ phong phú nhất, vui nhất,
“xôm” nhất anh lại đếch đi vào nên người ta chán”.
Như đã nói, lúc này tôi đang làm Tuyển tập Vũ Trọng Phụng (1986). Vì thế tôi thử dò ý xem Nguyễn
Tuân có muốn viết gì cho tuyển tập này không. Ông lắc đầu nói, giờ không viết
gì được nữa.
Tôi nói có ý định làm một cuốn sách gọi là “Việt Nam, đất nước, phong tục, con người
qua các trang văn của Nguyễn Tuân”. Ông tán thành và nói cứ làm đi.
Tôi lại hỏi ông, vì sao Tờ hoa bị phê phán? Ông Hoài Thanh, anh Chế Lan Viên cho là ông ám
chỉ sai lầm của cải cách ruộng đất?
Nguyễn Tuân nói:
– Vì ông Trường Chinh không thích nên tất nhiên là họ cũng không thích.
Tôi gợi ý:
– Tờ hoa chỉ có cái chi tiết con ong bị đập, nó đốt lại thế thôi.
Nguyễn Tuân nói:
– Ờ. Còn cái này nữa: con bướm – Con bướm cánh phấn sặc sỡ, đẹp như những khẩu hiệu. Nhưng mà chả ai nói đến mật bướm cả. Còn con ong nó rất hiền, nhưng đập nó, trêu ghẹo nó thì nó mới đốt cho.
Ông Trường Chinh không thích. Ông ấy nói với tôi như thế ở một cuộc hội nghị văn nghệ gì đó trước giờ khai mạc. Ông ấy và tôi cùng ngồi chủ tịch đoàn. Ông ấy nói: “Đả thằng phi công Mỹ thì anh viết mới được, nhưng tôi không thích bài Tờ hoa của anh”.
“Hôm ấy tôi hứa viết xong bài, nhưng rồi lỡ hẹn. Bẩy giờ sáng, anh con
trai Simonov dựng tôi dậy, bắt ra xe đến chỗ làm việc. Anh ta nói: “Chúng ta chỉ
đi ăn trưa khi nào viết xong bài tựa”. Cách làm việc như sau: Tôi nói, một người
dịch, một người đánh máy. Vì Nguyên Hồng mà lần đầu tiên tôi phải làm việc như
thế đấy.”
Ông nói tiếp về Nguyên Hồng:
“Người
ta có bốn cái khổ: sinh, lão, bệnh, tử. Nguyên Hồng bỏ qua hai khâu lão, bệnh,
đi thẳng từ sinh đến tử. Ai dám bảo Nguyên Hồng là lão. Văn còn trẻ lắm!
Trước
khi giác ngộ cộng sản, Nguyên Hồng theo đạo. Anh tin thiên đường ở trên trời,
dưới đất chỉ có khổ não và tội lỗi. Sau này giác ngộ cách mạng, anh biết thiên
đường có thể có trên mặt đất này. Nói đến đấy, ông dừng lại và bỗng hô to: “Hồng
ơi! Hãy yên nghỉ! Hồng ơi! Hãy yên nghỉ”. Ông vừa nói vừa khóc.
Nguyễn Tuân cũng rất quý Ngô Tất Tố. Ông đã viết một
bài ca ngợi hết lời tiểu thuyết Tắt đèn
và nhận đóng vai Chánh tổng trong phim Chị Dậu. Theo Nguyên Ngọc, Nguyễn Tuân
đóng phim Chị Dậu chẳng qua vì có
tình với Ngô Tất Tố. Lúc ấy ông yếu lắm. Tuy chỉ đóng một thoáng thôi, nhưng phải
đi ngựa (phim quay ở đình Đồng Kỵ). Đêm trước ông bị sốt. May, sáng hôm sau khỏi,
ông lại uống rượu rất vui.
Nguyễn Tuân cũng rất quý Lý Hải Châu. Hồi làm giám đốc
Nhà Xuất bản Văn học, Lý Hải Châu đã đấu tranh cho việc làm Tuyển tập Nguyễn Tuân, Xuân Diệu… Anh
Châu làm tình báo cách mạng từ trước 1945, đã từng bị thực dân kết án tử hình.
Anh là một trí thức rất có bản lĩnh. Tôi nhớ khi Tuyển tập Nguyễn Tuân được xuất
bản, Nguyễn Tuân nói: “Không có Lý Hải
Châu thì không thể có Tuyển tập Nguyễn Tuân”.
Nguyễn Tuân cũng có cảm tình với Nguyễn Văn Bổng và
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ông khen Hoàng Phủ Ngọc Tường viết được, có văn hoá.
Nguyễn Tuân cũng rất quý ĐTM. Nhưng ông không đánh giá
cao ĐTM về tư cách nhà văn. Hồi ông vào Đại học Sư phạm Vinh sơ tán ở Thạch
Thành, Thanh Hoá, ông nói với tôi: “Anh ĐTM là người tôi rất quý. Nhưng nếu có
ai hỏi, ĐTM có những tác phẩm gì, thì tôi lúng túng quá!”. Tôi để ý thấy Nguyễn
Tuân tỏ ra rất thích thú câu tâm sự rất riêng này của ĐTM vì ông nhắc lại với
tôi hai lần: “Tôi là thằng đàn ông biết độc có một cái l”. (ĐTM nói tiếng Pháp: je suis un homme d’ un
seul vagin). Nguyễn Tuân nói xong cười thích thú, cuống mũi nhăn lại, cái
mũi đã to, càng to hơn trên bộ ria Hoa Kỳ rất Nguyễn Tuân.
Đối với Tố Hữu, một mặt ông không quên cái việc nhà
thơ đã đánh giá cao uy tín của ông đối với giới văn nghệ. Sau cách mạng tháng
Tám, được Đảng gọi ra Hà Nội lãnh đạo văn nghệ, người đầu tiên Tố Hữu thấy cần
phải gặp là Nguyễn Tuân và đến năm 1948 thì đưa ông lên làm tổng thư ký Hội Văn
nghệ Việt Nam. Ngoài ra Tố Hữu cũng là người giới thiệu ông vào Đảng. Dù sao
ông cũng không quên thiện ý ấy. Vì có lần tôi hỏi ông về Tố Hữu, ông nói: “Tố Hữu là người đỡ đầu cho tôi về tư tưởng”
(ông nói tiếng Pháp: parrain idéologique).
Và trong liền mấy năm, cứ vào dịp đầu xuân, ông lại gửi cho Tố Hữu một cái thiếp
chúc tết (bonne année) có in nghiêng một cành hoa tím (Tố Hữu có làm một bài
thơ gọi là Hoa tím tặng Nguyễn Tuân
in trong tập Gió lộng). Nhưng về sau,
bẵng đi, Nguyễn Tuân không gửi nữa. Tố Hữu buồn lắm, nhờ Hà Xuân Trường hỏi
xem. Hà Xuân Trường nhờ Hoàng Ngọc Hiến. Nhưng Hiến ít có quan hệ với Nguyễn
Tuân nên lại nhờ tôi. Rất tiếc là tôi quên mất.
Đầu năm 1987 (1.1.1987), trong một cuộc liên hoan nhẹ ở
Nhà xuất bản Tác phẩm mới (65 Nguyễn
Du), tôi có được dự, Nguyễn Tuân kể chuyện vừa đến thăm Tố Hữu (lúc này Tố Hữu
đã mất hết mọi chức vụ). Ông nói:
“Văn
bây giờ chỉ viết về tương lai hay quá khứ thôi. Hiện tại không viết. Chỉ viết
cái lẽ ra nên như thế. Vì thế không thấy cái xấu, chỉ thấy cái tốt. Chỉ viết toàn
cái tốt là không tốt. Tôi nói thế với anh Lành, anh ấy cũng tán thành.
Ông
Tố Hữu phải có một phen bị quật hẳn xuống như thế ông ấy mới tỉnh ra, ông ấy phải
rơi xuống như bọn mình thì mới thấy khác. Hôm tôi đến thăm, ông ấy mừng lắm,
vui lắm, tiễn tôi mãi ra xa. Tôi xua tay bảo ông về và hỏi: “Cây táo của anh
còn không? Cây táo ông Lành còn không? Cho tôi xin mấy quả. Người ta nói cây
táo có ma nên không có quả?”.
Tố Hữu cười một cách đau khổ – Nguyễn Tuân nhận xét một
cách hóm hỉnh.
Nguyễn Tuân yêu ai, quý ai thì không thích nói ra,
nhưng ghét ai thì nói thẳng, nói công khai, không chút dè dặt. Mà đã ghét thì
thường phát ra những câu rất ác.
Những người ông ghét khá nhiều. Theo tôi được biết, ấy
là: Như Phong, Chế Lan Viên, Hoàng Trung Thông, Phùng Bảo Thạch, Hoài Thanh, Vũ
Đình Liên, Vũ Ngọc Phan, Bùi Huy Phồn, Vũ Đức Phúc, Nam Mộc, Phan Cự Đệ, Anh
Thơ, Huy Cận, Hoàng Văn Hoan, Trường Chinh…
Nhưng theo tôi, chỉ kể trong số người viết văn, ông
ghét nhất ba người: Như Phong, Hoàng Trung Thông và Chế Lan Viên.
Như Phong chết rồi, ông còn gọi là thằng mặt lợn.
Như Phong chết rồi, ông còn gọi là thằng mặt lợn.
Ông ghét Hoàng Trung Thông kể ra cũng dễ hiểu. Thông có thời gian làm Vụ trưởng Vụ Nghệ thuật và từng quy chụp chính trị nhiều tác phẩm của Nguyễn Tuân.
Tôi đã chứng kiến Nguyễn Tuân nổi nóng và đã chửi Hoàng Trung Thông như thế nào khi tôi tìm được nguyên bản Bữa rượu máu để đưa vào Tuyển tập Nguyễn Tuân.
Nghe nói Hoàng Trung Thông đã khóc.
“Anh
nói ‘Thiếu quê hương’, song chúng ta
làm gì mà phải đến nỗi thiếu quê hương”, “có những lúc tưởng như anh xa rời Đảng,
rồi anh lại gắn chặt với Đảng. Vì anh biết rằng anh không thể xa rời Đảng được”,
“Anh đã viết ‘Tình rừng’, dẫu rằng những bài văn đó có đôi chỗ sai sót, nhưng
trong đó vẫn đầy rẫy những tâm tình về sông nước, con người”, “Tôi biết có lúc
Nguyễn loạng choạng, nghiêng ngả. Nhưng khi anh vịn vào từng câu, từng trang
văn, anh đứng thẳng dậy, rồi anh đi, đi đàng hoàng và có lúc đi nghênh ngang nữa
để cùng với những bạn văn của mình đi đến đỉnh cao của văn chương Việt Nam”…
Đúng là có giọng tuyên huấn! Vẫn viết theo giọng tuyên
huấn!
Ngoài ra, Nguyễn Tuân còn ghét điều này nữa ở bài viết
ấy: nguyên là ngày xưa, có một lần Nguyễn Tuân, Hoàng Trung Thông về Đông Anh
cùng với vợ chồng Nguyễn Hồng Phong – Ngọc Trai. Phong quê ở Đông Anh. Đêm ấy họ
đi xem một đoàn cải lương Nam Bộ biểu diễn vở gì đó ở bên cạnh thành Cổ Loa.
Nguyễn Tuân nhớ gần đó có làng Quậy – rượu Quậy rất
ngon – quê một đào hát ông đã quen rất lâu. Họ bèn đến hỏi thăm thì được biết
cô đào ấy đã thắt cổ tự tử rồi vì bị quy là phản động gì đó trong cải cách ruộng
đất. Buồn quá! Họ uống rượu, rượu rất ngon, đúng là rượu Quậy. Nguyễn Tuân vừa
uống vừa khóc, vừa hát đi hát lại bài hát rất buồn của Đặng Thế Phong: “Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thót rơi…”
Trong bài viết của mình, Hoàng Trung Thông có đưa chuyện
này vào. Nhưng Nguyễn Tuân cho là anh đã diễn đạt không đúng tâm sự của mình
lúc ấy nên càng ghét: “Mình buồn cho những
kiếp người chịu oan khuất, buồn cho đời. Nó lại viết như mình khóc nhân tình vậy”
– Chị Ngọc Trai nói lại với tôi như thế.
Nguyễn Tuân cũng rất ghét Chế Lan Viên.
Một lần tôi đến Xuân Diệu. Xuân Diệu bảo tôi: “Mình nghe nói Nguyễn Tuân vừa phát biểu một
câu rất hay về Chế Lan Viên”. Và anh nhắc lại cho tôi nghe cái câu rất ác ấy.
Nhưng tôi muốn biết đích xác câu nói ấy từ chính miệng Nguyễn Tuân kia, nên tìm
đến ông. Tôi gạ chuyện: “Vừa rồi anh Xuân
Diệu cho tôi biết bác có nói một câu gì đó rất hay về Chế Lan Viên”.
Nguyễn Tuân ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Cái anh Xuân Diệu từ ngày vợ bỏ đến giờ có
khá hơn” (Cho đến nay tôi vẫn không hiểu ý nghĩa của câu nói đó. Khá hơn là
thế nào? Tại sao vợ bỏ lại khá hơn?
Nguyễn Tuân nói tiếp:
“Có hai chữ thi nhân và thi sĩ. Tôi thích chữ thi nhân hơn. Thi sĩ là
chỉ anh có nghề làm thơ. Còn thi nhân thì sang và đẹp từ bản chất con người. Chế
Lan Viên không đáng gọi là thi nhân. Thi sĩ thì có thể được bao nhiêu phần trăm
đấy”. Như thế nghĩa là, theo Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên cũng chưa được coi
là thi sĩ trăm phần trăm.
Ông tiếp tục:
“Một
hôm tôi đi vào phòng văn thư của Hội nhà văn. Tôi đi vào đúng lúc Chế Lan Viên
đi ra. Hình như anh ta đến để lấy vé máy bay đi vào Sài Gòn. Anh giơ tay bắt
tay tôi. Tôi không bắt. Chế Lan Viên ra rồi, các cô văn thư hỏi tôi: “Sao bác
không bắt tay anh ấy? Tôi hỏi lại: “Thế các vị có biết vì sao có tục bắt tay
không? Các cô không biết. Tôi nói: Ngày xưa ở phương Tây, hai người tin cậy
nhau, không mang theo vũ khí, họ bắt tay nhau. Tôi không bắt tay anh Chế Lan
Viên vì anh ấy trong người có hàng bồ dao găm”.
Ông lại nói tiếp một chuyện khác:
“Anh Chế Lan Viên ở trong Nam bắn tin ra ngoài này cho tôi, không hiểu
sao, anh Nguyễn Tuân cứ thấy tôi là lảng tránh không muốn gặp. Hôm ấy họp chi bộ,
tôi nói với cô Lê Minh là bí thư: “Cô ghi lại rồi bắn tin cho anh Chế Lan Viên
hộ tôi: “Đúng là tôi tránh mặt anh ấy thật. Lý do là tôi đã già rồi. Người già
tính khí bất thường. Tôi sợ gặp anh ấy, lỡ tôi nổi nóng lên, tát cho anh ấy một
cái thì làm thế nào. Đồng chí với nhau mà tát nhau thì phải kiểm điểm thôi”.
Nguyễn Tuân ghét Vũ Ngọc Phan vì, cũng giống như Vũ
Đình Liên, vốn xưa sống khuôn phép như một anh viên chức, thế mà bây giờ cứ nói
là hồi Pháp thuộc mình cũng chơi bời dữ lắm (Tô Hoài cho là Vũ Ngọc Phan không
dám chơi bời vì sợ Hằng Phương). Tô Hoài còn cho biết một lý do khác: ngày trước
túng tiền, Nguyễn Tuân thường đến vay Vũ Ngọc Phan nhưng từ khi đi tù về (khoảng
1941, 1942, Nguyễn Tuân bị bắt giam ở Căng Nho Quan), Phan không cho vay nữa.
Nguyễn Tuân sai con trai là Toản đến vay, Vũ Ngọc Phan từ chối. “Nó sợ liên quan đến thằng tù dây đây mà!”
– Nguyễn Tuân nói thế.
Ông cũng rất ghét Phùng Bảo Thạch. Thạch chết, Nguyễn
Tuân không đến viếng. Thạch là tay thân Nhật, Nguyễn Tuân cho ẩn náu ở nhà
riêng tại Ngã tư Sở (ông gọi là Am Sông Tô). Vậy mà Thạch đã làm cho ông bị tù.
Vì chứa Thạch nên cũng bị coi là thân Nhật. Thạch bị bắt, bị tra hỏi, đã khai
là Nguyễn Tuân đang nằm ở xóm hát Khâm Thiên và đưa mật thám đến bắt. Nguyễn
Tuân vừa buông màn ngủ thì bị gọi dậy, còng tay luôn.
Ông cũng không ưa Phan Cự Đệ. Có lần ông nói với tôi: “Nghe nói anh Phan Cự Đệ làm Tuyển tập
Nguyên Hồng, tôi buồn quá!”.
Hoài Thanh cũng bị nhiều nhà văn không ưa. Nguyễn Tuân
cũng vậy. Ông gọi Hoài Thanh là thằng nịnh. Hồi Hoài Thanh ốm nặng, Nguyễn Tuân
nói, tôi định đến thăm Hoài Thanh để nhắc lại lời ông ta nói khi đi Trung Quốc
về: Mao Trạch Đông có một cái nốt ruồi rất lớn ở cằm, đúng là tướng đế vương.
Còn Anh Thơ thì Tô Hoài kể chuyện này.
“Một lần Nguyễn Tuân và Anh Thơ cùng đi công
tác ở Lai Châu. Hồi ấy không sẵn khách sạn như sau này, còn hoang vu lắm. Lại
vào lúc mưa to gió lớn. Người ta kiếm được một cái phòng đưa hai người vào nghỉ.
Tất nhiên mỗi người một giường. Nhưng Anh Thơ nhất định không chịu, vì sợ… Nguyễn
Tuân. Nguyễn Tuân rất bực và chắc cũng ngượng nữa. Khi về Hà Nội, gặp lại trong
một cuộc họp, Nguyễn Tuân nói vào mặt Anh Thơ: “Bà làm như tôi chực hiếp bà hay
sao!”.
Còn Nam Mộc? Nam Mộc từng viết một bài về tập Tuỳ bút Sông Đà của Nguyễn Tuân. Tay này
có vết về chính trị nên lên gân lên cốt ghê lắm. Nam Mộc phê Nguyễn Tuân trong
Sông Đà là “ngựa quen đường cũ”, chưa
dứt bỏ được những căn bệnh cũ như chủ nghĩa xê dịch, tư tưởng hoài cổ, rồi nào
là buồn rớt, nhắm nháp thiên nhiên… Tôi chắc Nguyễn Tuân ghét Nam Mộc lắm nên
có lần nói với tôi:
“Thằng cha Nam Mộc, vợ
nó bỏ là phải lắm!”. Ngoài ra có chuyện này nữa, nhiều người biết: một lần kia,
Nguyễn Tuân bệnh nặng phải cấp cứu ở bệnh viện Việt Xô. Người ta đưa ông vào một
phòng bệnh, đã có Nam Mộc ở đó. Nguyễn Tuân không chịu ở chung với Nam Mộc, nhất
quyết từ chối không vào: “Hoặc tôi đi chỗ khác, hoặc Nam Mộc phải đi”.
Bệnh viện đành phải giải quyết theo nguyện vọng của
ông.
Có một điều này, cho đến nay, tôi vẫn chưa hiểu được:
gia đình Nguyễn Tuân ngày xưa ở Thanh Hoá rất lâu. Cụ Tú Lan làm việc ở Toà sứ
Thanh Hoá rồi nghỉ hưu luôn ở đó. Nguyễn Tuân có thời gian bị giam giữ, quản
thúc ở Thanh Hoá. Có lúc làm thư ký ở nhà máy đèn, đồng thời làm thông tín viên
cho báo Trung Bắc Tân Văn thường trú ở Thanh Hoá. Viết văn, ông thường ghi nơi
viết là Thang Mộc ấp, tức Thanh Hoá gọi theo địa danh thời phong kiến.
Ấy thế mà có lần tôi thấy ông xử quá tệ với Thanh Hoá.
Một hôm có mấy anh ở Nhà xuất bản Thanh Hoá đánh xe ra
Hà Nội thăm Nguyễn Tuân. Họ đến Hoàng Ngọc Hiến nhờ đưa đi. Hiến chưa đến Nguyễn
Tuân bao giờ, giới thiệu tôi thay anh.
Tôi đi cùng với họ đến trước nhà Nguyễn Tuân ở 90 Trần
Hưng Đạo. Tôi bảo xe đỗ ngoài đường đợi tôi vào xem ông có nhà không. Tôi thấy
ông đang ngồi một mình ở phòng riêng. Tôi nói:
Ấy thế mà có lần tôi thấy ông xử quá tệ với Thanh Hoá.
“Có mấy anh ở Nhà xuất bản Thanh Hoá muốn đến thăm bác. Họ đang đợi dưới
kia. Ông xua tay: “Thôi anh bảo họ về, tôi cám ơn”. Tôi nài thêm: “Họ có rượu ngon muốn biếu bác”. Ông nói:
“Tôi có rượu rồi, cám ơn”. Tôi lại nài thêm một lần nữa: “Họ nói muốn xin bác
cho in lại những bài bác viết về Thanh Hoá”. Ông vẫn một mực từ chối “Được, anh cứ bảo họ, tôi đồng ý. Thôi bảo họ
về đi”.
Người ta đánh xe từ Thanh Hoá ra thăm mà nhất định
không tiếp. Rất lạ!
Sau này Tô Hoài cho tôi biết, ông rất ghét Thanh Hoá.
Ngày xưa ông viết truyện Đôi tri kỷ gượng,
giễu cợt lối văn bằng phẳng, thiếu cá tính của một nhân vật tên là Mợi. Mợi là
Thanh Châu, người Thanh Hoá. Nhưng Thanh Châu thì có liên quan gì đến Nhà Xuất
bản Thanh Hoá?
Nhân dịp tác phẩm Vỡ
đê của Vũ Trọng Phụng được tái bản, vợ chồng Sơn – Hằng (Hằng là con gái,
Sơn là con rể Vũ Trọng Phụng), tổ chức một cuộc liên hoan ăn mừng tại nhà riêng
ở Mọc Giáp Nhất (ngày 23.01.1983). Rất nhiều nhà văn được mời tới dự: Nguyễn
Tuân, Tô Hoài, Bùi Huy Phồn, Lưu Trọng Lư và vợ con (vợ lạc đường không đến được),
Như Phong, Hoàng Trung Thông, Ông Lưu, nhà nhiếp ảnh từng quen biết Vũ Trọng Phụng.
Bà Tuệ, vợ Nguyễn Tuân, hàng năm đều có đi viếng mộ cụ Tú Lan, nhân tiện cũng
viếng mộ Vũ Trọng Phụng ở gần đấy. Vì thế cũng đến dự liên hoan.
Trong khi chờ đợi dọn tiệc, người ngồi trong nhà, người
ở ngoài sân trò chuyện với nhau.
Nguyễn Tuân nói chuyện với tôi và Bùi Huy Phồn ở ngoài sân. Ông nói, lẽ ra kỷ niệm Vũ Trọng Phụng 70 tuổi tổ chức năm 1982, mọi người đã đồng ý cả, nhưng Hoàng Trung Thông, Hoàng Trinh, Phong Lê, Vũ Đức Phúc phản đối.
Nguyễn Tuân hỏi:
Nguyễn Tuân nói chuyện với tôi và Bùi Huy Phồn ở ngoài sân. Ông nói, lẽ ra kỷ niệm Vũ Trọng Phụng 70 tuổi tổ chức năm 1982, mọi người đã đồng ý cả, nhưng Hoàng Trung Thông, Hoàng Trinh, Phong Lê, Vũ Đức Phúc phản đối.
“Phong
Lê là thằng nào, tên thật là gì, tướng gian ác có lộ ra mặt không, có phải dân
Nghệ không? Vũ Đức Phúc, Phong Lê, Như Phong đúng là cùng một băng đảng với
nhau.”
Tôi ngỏ ý mời Nguyễn Tuân đến nói chuyện với học viên
sau đại học. Ông nói, ngại đăng đàn diễn thuyết lắm, sẽ trả lời sau, nhưng
không hứa hẹn gì. Ông nói với Đồ Phồn, lát nữa chỉ dự ăn một lát rồi xin về sớm,
vì còn mấy đám cưới phải đi. Vả lại sợ rượu vào nói cà khịa, phiền: “Không phải sợ nói sai mà sợ nói đúng mới
gay go. Mình là loại quý tộc lọt lưới mà!”.
Nguyễn Tuân nhìn bao quát ngôi nhà của vợ chồng Sơn –
Hằng, chê kiến trúc không ra gì. Ông cười nói: “Đã lâu không đánh nhau với ai đâm ngứa ngáy, lại cà khịa với cái nhà
này”.
Tôi hỏi thăm Nguyễn Tuân về sức khoẻ. Ông nói, chả biết
trả lời ra sao. Già rồi, khoẻ yếu không biết thế nào. Hỏi thế cứ như là nhạo,
là chế giễu. Phải hỏi như hỏi những ông thủ trưởng chứ: “Anh có khoẻ không ạ!”.
Bùi Huy Phồn hỏi về chuyện bà Chu Thị Năm (Chủ cô đầu ngày xưa, bồ của Nguyễn Tuân).
Nguyễn Tuân nói: “ấy có bà ấy kia (bà Tuệ,
vợ Nguyễn Tuân), ông hỏi thế phiền lắm”. Bà Tuệ nói: “Không, ngày xưa bà Năm đến chơi, tôi vẫn tiếp bình thường”. Nguyễn
Tuân chỉ bà Tuệ: “Những cái cách mạng cho
tôi được hưởng không nhiều lắm. Được hưởng nhiều là bà này này!”.
Tô Hoài đến góp chuyện. Tôi hỏi anh đang viết gì. Anh
nói, sắp in một tiểu thuyết feuilletion cho Thiếu niên tiền phong về loài chim.
Viết để cho thiếu nhi biết về loài chim, nó sinh hoạt, làm tổ, đẻ con, nuôi con
như thế nào. Mình có một cái vốn như thế, không viết, phí.
Tô Hoài nói riêng với tôi, vì có mặt Lưu Trọng Lư: “Người ta viết có thời, tài có thời, hồn thơ
có thời, có một lúc nào đó thôi. Như ông Lư ngày xưa làm thơ mới thì chân thật,
có hồn thơ, sau này tôi cho chẳng còn nữa. Nhiều người như thế.
Còn
viết văn học sử thì không phải cứ có tài liệu nhiều mà đủ. Phải viết có hồn. Có
tài liệu và có hồn. Anh Đệ, anh Đức có tài liệu mà viết không có hồn. Anh (Mạnh)
viết vừa có tài liệu vừa có hồn. Còn bọn mới thì chả có tài liệu gì, cứ phóng ý
ra thôi”.
Nguyễn Tuân bỗng xoay ra nói về Hoàng Văn Hoan:
“Hoàng Văn Hoan có viết một bài tiểu luận về
Vũ Trọng Phụng, hình như gửi cho báo Nhân dân. Tôi có đọc rồi để đâu, tìm mãi
chưa thấy. Đúng là lưới trời lồng lộng thật. Nó chửi Kiều là ăn cắp của Tầu và
cho đề cao Kiều là đề cao con đĩ. Đấy là một tội. Tội thứ hai là nói Vũ Trọng
Phụng cũng viết về đĩ. Bây giờ ai là đĩ? Chính nó là con đĩ. Nhưng nó chết thì
lại có thằng Hoàng Văn Hoan khác. Có những thằng Hoàng Văn Hoan ở Hà Nội này,
khối ra đấy, lại có chức có quyền nữa cơ chứ!”.
Như Phong đến góp chuyện, nói năm 1937, hai mươi tuổi,
có đến nhà Nguyễn Tuân ở Thanh Hoá. Rồi ông nhắc đến bài thơ của Nguyễn Vỹ ví
nhà văn Annam khổ như chó. Nguyễn Tuân cười nói:
“Bây giờ nên sửa lại là nhà văn Việt Nam khổ như sư tử, sư tử bị bẻ hết
vuốt, hết móng”. Rồi ông chuyển luôn sang giọng tâm tình: “Ngày xưa, nhà văn có tình với nhau lắm, hơn
bây giờ. Cái đêm trước ngày đưa ma Phụng, không ai ngủ được. Cánh ở Gia Quất,
cánh ở nhà chú Trô Mã Mây… không ai ngủ được”.
Tôi nói với Nguyễn Tuân: “Bài Một đêm họp đưa ma Phụng bác viết rất hay”. Ông nói: “Bây giờ không viết được như thế nữa”.
Các mâm cơm dọn ra. Như Phong, Nguyễn Tuân, Hoàng
Trung Thông, Lưu Trọng Lư ngồi một mâm, vừa nói chuyện vui, vừa khích bác lẫn
nhau. Hoàng Trung Thông nói không tán thành lời bình của Nguyễn Tuân về câu thơ
Kiều: “Bóng trăng đã xế, hoa lê lại gần”.
Nguyễn Tuân nói: “Cái đó tuỳ ý mọi người
chứ, tôi không theo ai cả”.
Bỗng nhiên thấy Lưu Trọng Lư đùng đùng bỏ ra về. Hình
như là do Như Phong khen Nguyễn Vỹ thế nào đó. Lưu Trọng Lư chạnh lòng, vì do
Nguyễn Vỹ mà Lưu Trọng Lư bị mang tiếng là ăn cắp thơ của Nhật (Bài Tiếng thu).
Lưu Trọng Lư nhất quyết bỏ về, bắt con không ăn nữa, đưa bố về ngay.
Hôm ấy chụp rất nhiều ảnh kỷ niệm.
Nguyễn Tuân rất vui tính. Bốc lên cũng hò cũng hát rất nhộn.
Theo Tô Hoài, những lúc ấy ông thường hò chèo đò hoặc
hát đường trường. Ông cũng hay diễn trò nhại giọng điệu người này người khác để
giễu cợt. (cũng chính trong buổi liên hoan ở nhà con gái Vũ Trọng Phụng ăn mừng
tái bản Vỡ đê, tôi đã được nghe Nguyễn
Tuân nhại giọng Huế của một viên chức thời Tây (Bố Hoàng Xuân Tuỳ, phán đầu
toà, cùng làm việc ở toà sứ Thanh Hoá với cụ Tú Lan, bố Nguyễn Tuân). Ông này
thường nói với lớp trẻ ngày nay:
Lưu Trọng Lư nhất quyết bỏ về, bắt con không ăn nữa, đưa bố về ngay.
Hôm ấy chụp rất nhiều ảnh kỷ niệm.
Nguyễn Tuân rất vui tính. Bốc lên cũng hò cũng hát rất nhộn.
“Cạc anh
giừ sưởng lẳm, cách mạng rồi cạc anh sưởng lẳm! Tui trước làm việc với thằng
Tây, khổ lẳm. Đêm nỏ còn gọi lên hỏi, có chi không? – Dạ bẩm quan lớn, không thấy
sở liêm phóng báo sang có việc chi. Thế mà nỏ cũng xà lù mẹc. Tui bực quả, chào
rồi ra về, đóng cửa đánh sầm một cải. Đấy, thời trước làm với thằng Tây, khổ rửa!”.
Nguyễn Tuân nói xong, cười thích thú. Ông nhại giọng
Huế rất đạt và có duyên.
Lúc ấy, tôi chợt nhớ ra Nguyễn Tuân vốn là một diễn
viên kịch nói có tài từng đóng vai chính trong các vở Kim tiền của Vi Huyền Đắc và Ngã
ba của Đoàn Phú Tứ. Và đã từng được tuyển vào đoàn tài tử đi sang Hồng Kông
đóng phim Cánh đồng ma.
Nguyễn Tuân rất thích truyện tiếu lâm, tiếu lâm ta, tiếu
lâm Tây. Tôi nhớ có một hồi, ở trong nhân dân ta, phát triển rất mạnh một loại
truyện vui gọi là tiếu lâm hiện đại nhằm giễu cợt những sự việc, những nhân vật
đương thời. Nguyễn Tuân có vẻ rất thích những truyện ấy.
Có lần ông kể tôi nghe
một truyện về Phạm Tuân:
“Cái hôm người
ta phóng con tầu đưa Phạm Tuân lên vũ trụ, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt có tới
dự. Một điều lạ là khi nhiên liệu đã nổ rầm rầm mà con tầu không thấy bay lên.
Các công trình sư Liên Xô chạy đôn chạy đáo kiểm tra kỹ thuật mọi mặt đều chẳng
có gì trục trặc cả. Võ Nguyễn Giáp ngẫm nghĩ một lát rồi đề nghị cho mình đến gặp
Phạm Tuân. Tuy biết Võ Nguyên Giáp không hiểu gì về kỹ thuật, nhưng vì nể một vị
đại tướng lại là uỷ viên Bộ Chính trị Việt Nam nên họ đồng ý.
Võ
Nguyên Giáp vào gặp Phạm Tuân một lát, vừa quay ra thì con tầu đã vọt thẳng lên
trời. Các vị có mặt hôm ấy hỏi tướng Giáp đã làm thế nào. Giáp không nói, chỉ tủm
tỉm cười.
Khi
về nước, Lê Duẩn lập tức triệu ngay Giáp đến để hỏi. Giáp vẫn không chịu nói.
Duẩn nghiêm mặt: “Anh giữ bí mật quốc gia là đúng. Nhưng tôi là tổng bí thư mà
anh cũng giữ bí mật sao? Võ Nguyên Giáp đành phải nói thật: “Có gì đâu, tôi thọc
tay ngay vào túi quần nó. Quả nhiên thấy có mấy cái đinh ốc nó vừa xoáy ở con
tàu. Tôi quát: “Muốn sống lắp trở lại ngay!” Thế là con tàu bay vọt lên trời”.
Ông còn kể tôi nghe một truyện nữa – một truyện tiếu
lâm Tây. Đó là lần cuối cùng tôi gặp Nguyễn Tuân. Buổi sáng hôm ấy, như mọi
ngày, ông có thói quen đi dạo quanh phố xá mấy vòng rồi tạt vào Hội Nhà văn một
lúc. Lúc đó tôi nhớ đang có mặt Nguyễn Khải, Bùi Bình Thi, Xuân Quỳnh, Hà Minh
Đức và tôi. Ông đến sau, thấy tôi, ông nói, đã lâu lắm không gặp. Chính hôm ấy
ông lại nhắc lại với tôi một cách thích thú cái tâm sự rất riêng của Đặng Thai
Mai đã nói trên kia. Rồi ông kể tôi nghe một truyện tiếu lâm của Pháp:
“Có một lão giám mục kia, vào lúc hấp hối,
phát biểu một nguyện vọng cuối cùng là muốn được xem “cái ấy” của đàn bà ngoại
đạo nó như thế nào. Người ta thông cảm, đáp ứng yêu cầu của ông. Xem xong, ông
ta nói: “Tưởng thế nào, hoá ra cũng chẳng khác gì của các nữ tu sĩ”.
Nói dứt câu, Nguyễn Tuân cười khoái chí.
Nghe nói ở kỳ Đại hội văn hoá toàn quốc tại Việt Bắc
năm 1948, Nguyễn Tuân, ngay trên diễn đàn, dám kể chuyện “cái rắm thơm, cái rắm thôi”. Hồi ấy sinh hoạt văn nghệ còn thoải
mái lắm mới có thể có chuyện tếu như thế được. Từ năm 1951 trở đi, đừng hòng được
như vậy: Đảng ra công khai, biên giới phía Bắc thông với phe xã hội chủ nghĩa,
sự đổ bộ của tư tưởng Xtaline và Mao Trạch Đông, chỉnh huấn về lập trường giai
cấp chuẩn bị cải cách ruộng đất… Rồi yêu cầu của chiến tranh giải phóng dân tộc
phải tập trung cổ vũ chiến đấu: Ta là chính nghĩa, là anh hùng, không được giễu
cợt! Tiếng cười hầu như mất hẳn trong đời sống văn học.
Tôi cho rằng, ở Nguyễn Tuân, luôn tiềm tàng một cái gọi
là chất trẻ trung tinh nghịch, thể hiện ở người và ở văn.
Trong cuốn 40
năm nói láo, Vũ Bằng tỏ ra biết khá nhiều về cá tính độc đáo của Nguyễn
Tuân. Đọc tập hồi ký này, thấy Nguyễn Tuân bày ra lắm trò tinh nghịch rất oái
oăm, kỳ quái. Chẳng hạn, ngủ lại xóm hát, bỗng dưng leo lên mái nhà ả đào chơi.
Rồi bắt ả đào giả vờ chết để diễn trò khóc lóc ầm ĩ khiến hàng xóm láng giềng
tưởng thật chạy sang chia buồn… Cụ Nguyễn Lương Ngọc còn kể tôi nghe chuyện này
về Nguyễn Tuân: đang ngồi ở nhà ả đào, tự nhiên phóng tay đấm mạnh vào cửa kính
cho vỡ toang ra. Chả để làm gì cả. Y như người dư thừa sinh lực vậy. Hay là
đang nửa đêm, dạy cặm cụi đánh giầy cho tất cả quan viên… Nguyễn Tuân hay có những
ý nghĩ nghịch ngợm: chẳng hạn, tuyên bố, khi chết, muốn người ta đốt xuống cho
mình vài hình nhân nhà phê bình. ở dưới ấy rỗi rãi, trò chuyện với mấy tay phê
bình chắc cũng vui. Hoặc đến các vị trong Ban chấp hành Hội nhà văn, đề nghị
cho biết khi mình chết thì sẽ thuê mấy ô tô đi đưa. Hỏi thế để bây giờ xin trước
vài cái đi uống rượu, sau này xin cứ trừ đi… Trong văn cũng thế. Như trong Một chuyến đi chẳng hạn, ông nẩy ra ý
nghĩ đem giam chung với nhau mấy thằng nghiện thuốc lá nặng, rồi theo dõi xem
chúng ứng xử với nhau như thế nào khi cạn bao thuốc. Còn trong Sông Đà thì lại tưởng tượng tượng ra cái
cảnh ở một bến nước kia, đàn ông, đàn bà đang tắm táp, tự nhiên nước sông đột
ngột rút sạch, mọi người thấy mình bỗng tênh hênh tô hô cả ra (chi tiết này
trong những lần in lại, không thấy nữa)…
Các vị Vũ Đức Phúc, Nam Mộc, Như Phong, Phan Cự Đệ… chắc
cho thế là nhảm nhí, là vớ vẩn. Tôi thì cho đấy chính là cái chất trẻ trung hồn
nhiên rất có duyên của Nguyễn Tuân.
***
Nguyễn Khải nhiều lần nói, Nguyễn Tuân là người sướng
nhất: ngông nghênh, khinh bạc, chẳng trọng ai, chỉ trọng mình, vậy mà đi đâu
cũng được chiều chuộng, đón rước, nể trọng. Lại có người tự nguyện điếu đóm, phục
vụ tận tình.
Nguyên Ngọc có lần cùng sang Liên Xô với Nguyễn Tuân.
Họ ở Lêningrát vào đúng dịp tuyết đầu mùa. Người ta biết Nguyễn Tuân rất thích
xem tuyết rơi, nên dành cho ông một căn phòng rất thuận tiện để ngắm tuyết (về
nước, ông có viết một bài đăng trên Văn nghệ gọi là Lêningrat, tuyết đầu mùa).
Năm sau Nguyễn Tuân lại sang Liên Xô. Đến Mạc Tư Khoa đúng vào dịp tuyết đầu
mùa. Người ta lại đưa ông về đúng cái căn phòng năm trước ở Lêningrát để xem
tuyết rơi. Theo Nguyên Ngọc, ở Liên Xô, Nguyễn Tuân được coi như một thượng
khách. Lại có một anh tên là Marian, chuyên dịch Nguyễn Tuân sang tiếng Nga.
Trong nhà mình, Marian chỉ treo độc một bức chân dung Nguyễn Tuân.
Nguyễn Khải kể với tôi chuyện này: Sau 1975, có lần
Nguyễn Tuân vào Sài Gòn. Ông bị khớp nặng, nằm liệt trên lầu. Trịnh Công Sơn
ngày nào cũng tự nguyện lo chuyện ăn uống theo khẩu vị Nguyễn Tuân: nấu cơm
niêu đất ăn với cá bống kho tiêu là món Nguyễn Tuân thích.
Ở tầng dưới thì Nguyễn Khải và Nguyễn Thành Long đóng
vai tiếp khách cho Nguyễn Tuân. Ai đến thăm thì lên báo cáo xem ông có tiếp
không. Nhiều người ông không tiếp, phải để quà đấy đi về. Có một lần Marian lúc
ấy đang ở Sài Gòn, đến thăm. Nguyễn Khải và Nguyễn Thành Long nghĩ là trường hợp
này không phải báo cáo, cứ cho lên luôn. Marian hôm ấy lại dắt theo một tay
Liên Xô nữa. Nguyễn Khải cứ thấy ông mắng Marian xơi xơi: “Sao mày lại đưa thằng ấy lên!”. Khải nói: “Lần đầu thấy một thằng “tiểu quốc” mắng một thằng “đại quốc”, nghĩ
cũng mát ruột”.
Nguyễn Minh Châu cũng cho Nguyễn Tuân là sướng. Sau
1975, Hội An có tổ chức một cuộc kỷ niệm gì đó, mời Nguyễn Tuân vào viết cho một
bài. Lúc ấy Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu đang ở Đà Nẵng, muốn có xe vào Hội
An chơi, bèn bịa chuyện cần một ôtô vào trước để sửa soạn đón Nguyễn Tuân hôm
sau vào. Thế là được cấp luôn một chuyến xe. Thực ra bịa thế thôi chứ có sửa soạn
gì đâu! Nguyễn Tuân vào đã có xe riêng, một mình một xe. Hồi ấy chuyện xe cộ
không sẵn như bây giờ.
Nghe nói, ngày xưa, Nguyễn Tuân chơi cô đầu cũng rất
sang. Thường bồ bịch với đào hát nổi tiếng hoặc bà chủ nhà hát. Không phải bao
gái mà lại được gái bao. Hồi kháng chiến chống Pháp, ở chiến khu Việt Bắc, ông
được cô đào hát nhân tình nào đó gửi vàng từ Hà Nội ra cho ông tiêu.
Riêng tôi được chứng kiến một chuyện cũng lạ.
Ấy là ngày làm lễ bế giảng trường Nguyễn Du khoá một
long trọng lắm. Quan khách đến dự rất đông. Có đủ bộ trưởng, thứ trưởng, trung
ương uỷ viên và các nhà văn có tên tuổi ở Hà Nội. Anh điều khiển buổi lễ, giới
thiệu lần lượt các đại biểu. Giới thiệu ai thì người ta cũng chỉ ngồi vỗ tay tại
chỗ thôi.
Nguyễn Tuân đến muộn. Không hiểu sao, cả hội trường không ai bảo ai, cùng đứng dậy vỗ tay dài.
Vì thiên hạ vốn trọng người tài chăng? Nguyễn Tuân đúng là một cái tài. Nhưng người tài đâu chỉ có Nguyễn Tuân? Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi… không tài à?
Tôi cho Nguyễn Tuân được trọng vì vừa có tài vừa có
nhân cách. Nhưng giữ được nhân cách đâu có dễ. Cái nghèo, cái đói, cái sợ (sợ cấp
trên) khiến người ta khó giữ được nhân cách, tuy biết thế là hèn. Vì thế người
có nhân cách càng hiếm, càng quý. Cho nên có một người như Nguyễn Tuân là rất
sang cho giới nhà văn.
Trong nhiều tác phẩm của mình, nhất là trong Chiếu lư đồng mắt cua, Nguyễn Tuân thường
vẽ mình như một kẻ bê tha, trác táng, bẩn thỉu, nhếch nhác, rượu chè be bét, suốt
ngày chui rúc vào cái màn hôi hám của ông Thông Phu, một con nghiện bị bệnh bại
liệt bán thân bất toại. Uống rượu thì say đến mức úp mặt vào mâm bát mà gào, mà
hò hét như thằng điên…
Thực ra trong đời thực, ông có phải như thế đâu. Hồi ở
Việt Bắc bà Trần Minh Tước cùng làm việc với tôi ở Sở Giáo dục Liên khu Việt Bắc
vốn quen thân với Nguyễn Tuân, nói với tôi: “Ông
ấy đến cái maillot, cái quần lót cũng giặt là cẩn thận”.
Còn uống rượu thì không bao giờ quá chén. Tô Hoài gọi
là uống rượu ngữ, nghĩa là có chừng mực chứ không say bét như Hoàng Trung
Thông…Ông Hoài Thanh chê Nguyễn Tuân có lắm lệch lạc về tư tưởng, từng bị cánh
nhân văn lợi dụng, nhưng ông vẫn thấy Nguyễn Tuân không bê tha truỵ lạc như nhiều
tay trong nhóm Nhân văn, nghĩa là Hoài Thanh cũng rất nể Nguyễn Tuân về nhân
cách.
Tôi lại nghe nói, sau 1975, một số nhà xuất bản ở Sài
Gòn tự nguyện trả tiền nhuận bút cho những nhà văn “tiền chiến” sống ở miền Bắc, mà trước 1975, họ có in lại sách này
sách khác để bán. Các vị đều nhận cả, riêng Nguyễn Tuân từ chối.
Trở lại câu chuyện Nguyễn Tuân và Nguyên Ngọc ở Liên
Xô. Trong thời gian Nguyễn Tuân ở Liên Xô, người ta cử một cô gái Nga làm phiên
dịch cho ông. Cô gái rất đẹp – đẹp như tượng – Nguyên Ngọc nói thế (Chắc là đẹp
như tượng thần Vệ nữ ở Milô chăng?). Nguyễn Tuân nhờ cô gái mua cho mình mười
bông hồng tươi. Ở Nga, giữa mùa rét, hoa hồng rất đắt: 12 rúp (trong khi một
cái bàn là điện hay một cái áo bay có 7 rúp). Hỏi mua để làm gì, ông không nói.
Mua về, ông tặng luôn cho cô gái phục vụ mình. Cô gái Nga lấy làm lạ, vì cô biết
Việt Nam còn nghèo lắm, lại đang có chiến tranh, sao ông nhà văn này lại chơi
sang thế, không dành tiền mua quà cáp gì về nhà. Cô ta áy náy, bèn tự mình đi
mua một ít hàng rồi gói ghém, bắt Nguyễn Tuân mang về. Cô hỏi, các nhà văn nước
ông có như thế cả không? Nguyễn Tuân nói, tôi chỉ là một nhà văn xoàng ở Việt
Nam thôi. Ông nói thế, chắc là để làm sang cho giới văn nghệ Việt Nam vốn rất
nhếch nhác mỗi khi ra nước ngoài.
Hoạ sĩ Đào Đức còn kể chuyện này: Một lần Nguyễn Tuân
cùng Kim Lân sang Liên Xô. Mấy ngày đầu người ta chưa cấp tiền. Nhà văn Simônốp
ngỏ ý biếu mỗi người 50 rúp tiêu tạm. Nguyễn Tuân từ chối, Kim Lân chả lẽ lại
nhận, nhưng tiếc quá, nói với Đào Đức: mình cảm thấy cứ y như là bị móc ví mất
50 rúp.
Mọi người đều biết, Nguyễn Tuân là người ham chơi, ham
“xê dịch”. Nhưng không vì thế mà vất bỏ nhân cách. Vào lúc đã cao tuổi, ông có
được mời sang Pháp, nhưng ông từ chối. Ông nói với tôi: “Già rồi sang đấy mà chết ở đấy thì nhục quá!”.
Đấy, Nguyễn Tuân sở dĩ được trọng là vì thế. Mình
không giữ được nhân cách thì ông ấy giữ hộ – đại diện giới nhà văn giữ hộ.
Nguyễn Tuân nổi tiếng là ngông. Đúng thế. Nhưng chơi
ngông không dễ đâu. Không có tài, không có đức, chơi ngông làm sao được! Ngông
có cả một cơ sở đạo lý của nó đấy. Cho nên những bậc chơi ngông xưa nay đều là
những tấm gương đạo đức cả – Tản Đà gọi là “thiên
lương”:
Nguyễn Tuân đến muộn. Không hiểu sao, cả hội trường không ai bảo ai, cùng đứng dậy vỗ tay dài.
Vì thiên hạ vốn trọng người tài chăng? Nguyễn Tuân đúng là một cái tài. Nhưng người tài đâu chỉ có Nguyễn Tuân? Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi… không tài à?
“Hai chữ thiên hương thằng Hiếu nhớ”
– Sao, có việc gì thế?
– Không có gì. Đến thăm bác thôi.
– Thế thì cám ơn, cám ơn. Thôi để lúc khác nhé.
Sợ tôi chưa hiểu, ông chỉ xuống cái bô ở gậm phản… Tôi
ngượng quá, vội bỏ ra.
Một lần khác, tôi đến thăm ông cũng đúng vào lúc ông ốm.
Nhưng lần này cửa đóng. Ngoài cửa tôi thấy có dán một tờ giấy lớn ghi mấy dòng
chữ:
“Bệnh nhân Nguyễn Tuân không tiếp
khách, bao giờ khỏi sẽ xin đến tạ. Ai đến, xin gọi và xướng tên hai lần. Không
có tiếng trả lời thì xin vui lòng lui cho. Cám ơn”.
Đến thăm mà phải xướng tên, ai còn đến làm gì!
Trông ông rất đẹp lão. Nguyễn Khải nhận xét và nói một câu rất gở: “Đẹp lão thế là sắp sửa đấy!” Nguyễn Tuân nói, ông không sợ chết, chỉ sợ ốm kéo dài thôi. Hôm ấy, ông nói rất nhiều chuyện vui. Tôi đã từng nghe câu nói của ông về các nhà phê bình: khi chết đi, muốn người ta đốt xuống cho mình vài anh phê bình… Hôm ấy ông lại cho ra thêm một câu nữa:
“Vừa rồi có mấy anh nhà
văn nước ngoài đến hỏi tôi: “Ông thường có thói quen viết vào lúc nào?”. Tôi
nói, thường vào ban đêm. Họ hỏi lý do. Tôi nói: “Vì lúc ấy các nhà phê bình họ
đi ngủ cả rồi!”.
Tôi thấy ông cầm trên tay một điếu thuốc lá nhưng
không hút, lại còn xin thêm Nguyễn Khải điếu nữa. Ông nói: bác sĩ nói phải hạn
chế hút. Mỗi ngày một điếu thôi, tránh hít sâu vào. Còn rượu thì cấm hẳn. Và phải
tránh có xúc động mạnh. Rồi ông cười: “Làm
nghề viết văn mà phải tránh xúc động thì còn viết gì được nữa!”.
Ấy thế mà đúng 3 ngày sau ông qua đời.
Bửu Chỉ ở Huế ra Hà Nội. Chị Ngọc Trai tổ chức một bữa nhậu. Nguyễn Tuân uống rượu. Hôm sau vào bệnh viện và tịch luôn.
Nhưng như thế thì cũng là một cách tự sát chứ sao! Vì chính ông đã biết phải kiêng rượu kia mà! Thuốc lá còn được hút mỗi ngày một điếu. Còn rượu thì cấm hẳn.
Như vậy thì điều anh Đình Quang nói không hẳn đã sai.
“Nguyễn Tuân ốm nằm ở bệnh
viện Phủ Doãn. Ông thèm rượu quá mà bị cấm, đang đêm bèn leo tường chốn ra bờ hồ
Hoàn Kiếm uống rượu và chết luôn trên ghế đá. Cũng có vẻ rất Nguyễn Tuân đấy chứ!”
Giờ lại nghe chuyện anh Đình Quang. Chả biết thực hư thế nào!.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét