Tôi xin mạn phép hầu chuyện với tư cách của người
đương thời và trong cuộc, được tắm gội một thời hai nền giáo dục, vừa Việt vừa
Pháp, khi thơ ấu, cũng như những năm ở Đại học, với những gì nghe thấy (de
visu) hoặc cảm nghiệm (sur du vivant) 1.; vì thế không tránh khỏi những nhận định
chủ quan, cần lắng nghe và được góp ý.
Vào khoảng năm 1990, tôi có dịp thăm một lớp học
(quatrième, tức lớp 8 bây giờ ở Việt Nam) tại trường làng Champlite, Besanҫon.
Giờ học hôm ấy là môn la-tinh. Một cảm giác ngỡ ngàng, tôi như tìm lại quá khứ
của mình những năm 1953, 54… hồi còn học lớp septième (tức lớp 6 bây giờ). Tôi
cũng đã từng học la-tinh như thế; lại thêm mấy giờ Hán tự! Dáng dấp ông thầy và
phương pháp cổ điển đều y hệt; hình ảnh thân thương của các thầy cũ lại hiện
ra: giáo dục Pháp và giáo dục Việt Nam có quá nhiều điểm tương đồng!
Không rõ khi nào và do ai, tôi được nghe luận cứ chỉ
trích nền giáo dục thuộc địa rằng người Pháp đã từng dạy cho người Việt “tổ tiên ta là người Gaulois”! 2.
Tôi vẫn mãi phân vân làm sao mà một người Pháp “có học”, ngay cả những người chủ trương
thuộc địa hóa xứ An Nam này, lại có thể “can
đảm” bắt người Việt học một câu “ngớ
ngẩn” như thế! Chắc chắn một điều, không có người Pháp nào lại cho phép ta
nhận tổ tiên của họ là tổ tiên của mình!
………..
1. Theo
phương cách của Léopold Cadière.
2. Les Gaulois sont nos ancêtres.
Hoài niệm lại những năm học từ những năm 50 của bản
thân mình, với những sách giáo khoa rất quen thuộc… Một chuỗi những sách giáo
khoa Pháp tràn ngập lần lần xuất hiện trong trí nhớ: Le Livre Unique de
Franҫais của L.Dumas ; Le Nouveau Livre Unique de Lecture et de Franҫais của J.
Chatel et A. Chatel v.v… Và câu “Les
Gaulois sont nos ancêtres” (Tổ tiên ta là người Gaulois) lại ở trong Chương
I của Histoire de France, Cours Elémentaire, 1913 do Ernest Lavisse chủ biên.
Việc “mượn” sách
giáo khoa của một nước khác du nhập buổi ban đầu trong ngành giáo dục là chuyện
thường tình xảy ra, khi chưa có sẵn sách giáo khoa để đáp ứng. Một số nước sau
thế chiến II, một khi tiếp cận với giáo dục phương Tây, đã vội vã chuyển hướng
giáo dục theo mô hình 6-3-3 (Tiểu Học/THCS/THPT); ngay cả các nước rất truyền
thống như Hàn Quốc, Nhật Bản cũng đã từng vay mượn sách giáo khoa kể cả của kẻ
thù!
Việc khoa cử truyền thống theo Nho học được bắt đầu từ
1075 đời Lý Nhân Tông nay không còn đáp ứng cho phát triển xã hội khi tiếp xúc
với Tây học cùng văn hóa khai mở phương Tây, đành chấm dứt từ năm 1919 dưới thời
Khải Định.
Từ ấy chương trình giáo dục theo mô hình Pháp và dĩ
nhiên dựa vào sách giáo khoa Pháp. Về sau, ngay cả khi được độc lập vẫn còn
song song hai chương trình Giáo dục Việt và Pháp. Không lạ gì những gia đình
khá giả phần lớn cho con mình theo Tây học: các cơ sở giáo dục mang tên Yersin,
Jeanne d’Arc, Chasseloup Laubat, Pascal, Marie Curie, Couvent des Oiseaux,
Albert Sarraut, Pellerin, Providence; một số sau này được đổi tên; một số vẫn tồn
tại ở miền Nam cho đến năm 1975 với tên cũ.
Phải thừa nhận rằng loại hình giáo dục này đã đào tạo
ra một đội ngũ trí thức rất đáng tự hào trong nhiều lãnh vực: khoa học, văn học,
y học kể cả các ngành Mỹ thuật và Âm nhạc; đặc biệt là một đội ngũ trí thức phản
tỉnh đã thừa hưởng nền giáo dục khai phóng này, từ đó khát mong một nền độc lập
cho đất nước.
Ở đây chúng tôi không có thời gian để lạm bàn đến những
ảnh hưởng tư tưởng tiến bộ, những giá trị khai phóng của Thế Kỷ Ánh Sáng (Thế kỷ
XVIII) với các triết gia và trí thức Pháp. Qua chương trình giáo dục ấy, trí thức
Việt Nam rất háo hức được tiếp cận với Voltaire, Montesquieu, J.J Rousseau, mở
ra những chân trời mới trong tư duy, mơ về những tiến bộ và cải cách. Xin đành
khép lại trong giới hạn văn học, và cũng chỉ trong một giai đoạn: tiền bán thế
kỷ XX.
Người Việt đã quen nếp tư duy qua văn học Trung Hoa dưới
dạng biền văn kết hợp thơ ca. Cả Bình Ngô đại cáo (1428) 3. của Nguyễn Trãi và
Truyền kỳ mạn lục (1547) của Nguyễn Dữ cũng viết bằng chữ Hán dạng văn biền ngẫu,
theo thể lục ngôn hoặc thất ngôn… 4. nay tiếp cận một nền văn học Pháp với dạng
văn xuôi lạ lẫm và hấp dẫn, dễ diễn đạt hết tâm tư; ngay cả thi ca xem ra cũng
phóng khoáng hơn nhiều. Văn hào Chateaubriand một thời mê hoặc giới trẻ Pháp với
loại thể câu dài, ngữ điệu nhịp nhàng theo hơi thở cảm suy cùng mạch tư duy (phrase
périodique) được các nhà văn tiên khởi Việt Nam đón nhận để biểu đạt mạch lạc cảm
xúc của mình; thêm vào đó sự nở rộ của chữ Quốc ngữ hỗ trợ và góp phần đa dạng
hóa rất phù hợp với trào lưu tiếp cận này. Người ta vẫn nhắc tới Hoàng Ngọc
Phách với tác phẩm Tố Tâm (1922/1925) như là khởi đầu cho trào lưu hội nhập văn
học Đông Tây. Nhưng thật ra tác phẩm văn học đầu tiên viết bằng chữ Quốc ngữ
theo lối văn phong “nước ngoài” lại là một tác phẩm ít người biết đến “Thầy Lazarô Phiền” của Nguyễn Trọng Quản
cách đây đến 133 năm, do J.Linage, Catina, Sài gòn xuất bản năm 1887, trước Tố
Tâm đến 38 năm! Vũ Ngọc Phan, Dương Quảng Hàm cũng không đề cập gì đến tác phẩm
này. Mãi cho đến năm 1970, Giáo sư Nguyễn Văn Trung, nguyên là giáo sư Triết Đại
học Văn khoa Saigon và Huế phát hiện qua một bản dịch tiếng Pháp của người con
là Nguyễn Trọng Đắc, “L’Histoire de
Lazaro Phien” 5.. Từ đó người ta dần truy cứu ngọn ngành và phát hiện nguyên
bản tác phẩm này hiện được lưu giữ tại Kho sách Thư Viện Khoa học Xã hội 26 Lý
Thường Kiệt Hà Nội, có lẽ do Trường Viễn Đông Bác Cổ (Ecole Franҫaise
d’Extreme-Orient - EFEO) để lại.
………….
3.
Grande Proclamation de la Pacification des Ngo-Chinois.
4.
Tuấn kiệt như sao buổi sáng/ Nhân tài như lá mùa thu
Hoặc:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo (Nguyễn Trãi/
Ngô Tất Tố dịch)
5.
L’Histoire de Lazaro Phien. Nhà in Nguyễn Văn Của, Saigon 1934.
Do tiếp xúc nhiều với các nhà truyền giáo lại được
giáo dục theo lối Tây phương, cùng với phong trào phát triển chữ quốc ngữ, với
tiện ích dễ đọc dễ viết một khi đã tiếp thu sách vở qua tiếng Pháp, nên không lạ
gì phong trào văn xuôi phát triển ở miền Nam trước các tác giả miền Bắc; và
cũng không lạ gì ba tác giả tiên phong Tây học là ba tín hữu ở Miền Nam: Paulus
Của (tức Huỳnh Tịnh Của); Petrus Ký (Trương Vĩnh Ký) và P.J.B Nguyễn Trọng Quản
(con rể của Petrus Ký).
Lại nữa, sĩ phu Bắc Hà cũng chưa mặn mà gì lắm với Tây
học; không dễ dàng gì đành vứt bỏ bút lông với chữ thánh hiền thể hiện hình
thái như cả một bức tranh để dùng bút sắt viết những chữ “ngoằn ngoèo” xa lạ, chỉ là ký hiệu vô nghĩa để diễn đạt âm của
ngôn ngữ. Họ đã thấm nhuần việc đèn sách của một thời gian dài 844 năm (1075 -
1919); lại còn ngấm ngầm chủ nghĩa yêu nước khi thấy người nước ngoài thống
lĩnh chính trị, văn hóa nên cũng chẳng mặn mà gì với các tác giả “Tây học” xứ Nam kỳ. Phải chăng vì thế
mà các tác giả miền Nam không được quan tâm lắm trong dòng văn học sử Việt Nam
dưới khía cạnh nghiên cứu của Dương Quảng Hàm và Vũ Ngọc Phan?
I.
DẤU ẤN VĂN HỌC PHÁP RÕ NÉT TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VIỆT
(Influences &Confluences: Ảnh hưởng và hội lưu.
IN+ fluere, chảy vào; CUM+ fluere, cùng chảy)
Phải thừa nhận rằng, chỉ một thời gian không dài, khi
tiếp cận với nền giáo dục và văn hóa Pháp, trí thức Việt Nam đã choáng ngợp và
lĩnh hội một cách tích cực những nét mới lạ, khai phóng, không bị gò bó trong
tư duy cũng như trong diễn cảm.
Thật vậy, từ xa xưa văn hóa Pháp đã tự mặc định cho
mình cái sứ mạng khai phóng: Guibert de Nogent từ Thập tự Chinh thứ nhất đã khẳng
định Gesta Dei per francos (Thượng đế hiển thị hành vi qua nhóm người Franc).
Sau đó là thời Phục Hưng với những giá trị nhân văn, dạy cho con người một thứ
minh triết (sagesse) và một triết lý sống (philosophie de la vie) với những bài
học về hào hoa lịch lãm, biết sống và tao nhã. Rồi đến thế kỷ 17 với một hào
quang văn học khó bì sánh kịp, mệnh danh là “Đại
Thế Kỷ”, tiếp theo là “Thế kỷ Ánh
Sáng” (TK 18) như thể muốn nhắc nhở hoặc khai lối cho nhân loại về những tư
tưởng khai phóng về triết học và cả mô thức chính trị tam quyền. Đúng là người
Pháp rất tự hào và họ có cơ sở tự hào như trong cuộc đối thoại giữa người lính
Đức và viên y tá Pháp trong mẫu truyện Bản Giao Hưởng số 3 (La 3e symphonie) -
của Greoges Duhamel, kể lại cái im lặng lạnh lùng, thù địch của người lính Đức
và viên y tá Pháp, cho đến một hôm người lính Đức bỗng nghe bản Giao hưởng số 3
- Anh hùng ca - của Beethoven từ môi miệng của người lính Pháp: im lặng bị phá
vỡ và ngôn ngữ hình thành giữa đôi bên. Giá trị nhân văn đã phá được những rào
cản và cảm hóa lẫn nhau. Người y tá Pháp thì ca ngợi về âm nhạc Đức còn người
lính Đức đáp lại bằng ca ngợi văn học Pháp: cả 24 chữ cái, từ A cho đến Z, đều
có thể tìm được tên một nhà văn. Và quả như vậy, bắt đầu vần A là Anatole
France và kết thúc vần Z là Zola.
Cái hào nhoáng có cơ sở ấy càng thể hiện rõ khi người
ta hỏi André Gide là nhà văn, nhà thơ nào tiêu biểu nhất của Pháp. André Gide
đã thở dài, trả lời: Than ôi, đó là V. Hugo! (Hélas, c'est Victor Hugo). Cái “than ôi” ở đây không phải là một ca tụng
mà biểu thị một “bất đắc dĩ”, đành phải
kể một người nhưng cũng khó mà minh định với nhiều tên tuổi lỗi lạc khác; nói
cách khác còn có nhiều tên tuổi xứng danh nữa, nhưng đành chọn một vị chưa hẳn
là toàn bích. Nhưng cùng một câu hỏi như thế đối với nhiều dân tộc khác thì chắc
chắn việc lựa chọn xem ra sẽ dễ hơn nhiều: với Ấn Độ đơn giản là Tagore, Tây
Ban Nha với Cervantes, Ý sẽ là Dantes, Hy Lạp với Homère, La-Mã thì có Virgil, Anh với
Shakespeare, và Việt Nam thì dứt khoát là Nguyễn Du...
Những trai trẻ Việt đầu thế kỷ XX như bị mê hoặc bởi
văn chương lãng mạn Pháp. Lần đầu tiếp cận với những ý niệm lạ đời “le mal du siècle” - sầu thế kỷ -, “le lyrisme personnel” - trữ tình 6. -, “l’exaltation
du moi” - biểu đạt tâm tư -, “le
vague des passions” - bâng khuâng cảm vọng - … mà cũng chẳng cần rõ tăm
tích ngọn nguồn các từ ấy là gì, y hệt như thế hệ thanh niên Pháp đón nhận từ
romantic của người Anh, Pháp-hóa thành romantique 7. mà chẳng hiểu nghĩa là gì 8..
Phần nào đó y hệt tâm tư của Xuân Diệu “tôi
buồn không hiểu vì sao tôi buồn” 9. mà vẫn thấu hiểu cái bàng bạc bâng khuâng
đó; hoặc như Huy Cận với “trái sầu rụng
rơi” và Vũ Hoàng Chương “đầu thai nhầm
thế kỷ”…
1.
TỐ TÂM (1925) - HOÀNG NGỌC PHÁCH
(Âme pure)
Như trên ở phần dẫn nhập, nhiều nhà nghiên cứu cho tác
phẩm Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách viết năm 1922 và được xuất bản năm 1925 như là
tác phẩm tiên khởi của nền văn xuôi Việt Nam. (Nhưng thực ra “Thầy Lazarô Phiền”, xuất bản 38 năm trước,
1887, mới là tác phẩm đầu tiên viết bằng chữ Quốc Ngữ với một lối văn dung dị, “lấy tiếng nói thường mọi người hằng nói ra” 10.
, không dùng điển tích sáo ngữ, ít nhiều theo văn phong kiểu Tây Âu).
…………
6. Trữ tình được dịch theo nội hàm ý nghĩa;
từ lyrisme chỉ do từ lyre, một loại đàn.
7. Về từ lãng mạn tương ứng với romatique, có
người cho đó là cách phiên âm từ roman theo kiểu Trung Hoa: âm /R/ thành âm
/L/. Theo thiển ý chúng tôi, các trí thức Việt hồi ấy đã rất tinh tường khi
dùng từ “lãng mạn” = tràn bờ; họ đã hiểu đúng tinh thần của từ “débordé” trong tiếng Pháp, và dịch ra một từ đúng nghĩa nội hàm.
8. Trong một bài viết về Racine và
Shakespeare, Stendhal đã dùng hình dung từ (épithète) romantique đã được du nhập
mà chẳng ai biết nguyên nghĩa là gì để áp dụng vào các tác giả tiên khởi trong
xu hướng mới mẻ này. (Stendhal, dans une brochure sur Racine et Shakespeare,
applique à tous les novateurs l’épithète de romantique, qui fut adoptée sans
que personne en sût exactement la signification. Littérature franҫaise .
Larousse (?))
9.
Hôm nay trời nhẹ lên cao
Tôi
buồn không hiểu vì sao tôi buồn. Xuân Diệu
10. “Định hướng” của chính tác giả ở lời tựa đề
ngày 1.12.1886
Khi đọc Tố Tâm, những người được thụ hưởng chương
trình giáo dục Pháp nhận diện được ngay những ảnh hưởng văn học Pháp lưu dấu
trong tác phẩm. Có những trích dẫn tác giả ghi lại nguyên tác và ghi chú tác giả
như ở chương 1 đoạn 10, hay chương 3 đoạn 20:
HOÀNG
NGỌC PHÁCH
|
Alfred
de VIGNY
|
Tôi
lấy câu thơ tiên sinh Vigny rằng: “khóc than, kêu cầu, khấn vái đều là hèn” (Hoàng Ngọc Phách, Tố
Tâm, Chương I đoạn 10).
|
Gémir, pleurer, prier est également lâche.
(A.Vigny, La
mort du Loup).
|
HOÀNG
NGỌC PHÁCH
|
LAMARTINE
|
Lúc sóng vỗ dưới chân như vậy thì tôi nhớ
đến chỏm đá tả trong bài thơ "Le Lac"
của Lamartine tiên sinh mà hồn
thơ lai láng…
Trong khi đêm khuya
cảnh vắng như vậy ở đó chỉ nghe tiếng thông reo bên bờ, tiếng sóng gầm dưới
nước. Lặng ngồi mà ngắm quang cảnh, thì thấy trong lòng sinh ra một thứ cảm
giác mơ màng…
(Tố
Tâm chương 3 đoạn 20)
|
←Regarde, je viens seul m’asseoir sur cette
pierre/ Où tu la vis s’asseoir/Tu mugissais ainsi sous ses roches
profondes;/ Ainsi tu te brisais sur leurs flanc déchirés…Lamartine / Le
Lac vers 7-10
|
Nhưng trong rất nhiều đoạn thì tác giả diễn tả cảm xúc
của mình mượn ý của nhiều tác giả Pháp, như thể đã được nhuần nhuyễn chuyển
hóa; nếu chưa “học” hai trích đoạn trong sách giáo khoa Pháp “Les
deux infinis” - hai cõi vô cùng – hay “le roseau pensant” - cây sậy biết tư duy- của
Pascal thì độc giả khó lòng nhận diện được.
HOÀNG NGỌC PHÁCH
|
PASCAL
|
Ôi! "lòng người ta có những điều phải mà chính lẽ
phải không biết đến được".
(Tố Tâm.Chương II, đoạn 16)
Trước chỗ giời cao bể rộng, mình tự thấy mình bé nhỏ lạ
thường, như gợn bụi, như mảy lòng, lửng lơ không dính vào đâu cả. Trong lòng
sinh ra một thứ kinh sợ, sợ cái tối vĩnh tối đại của hoá công (Tố Tâm. Chương
III, đoạn 20)
1. Trước chỗ trời cao bể
rộng
2.
Lửng lơ không dính vào đâu cả
3.
Trong lòng sinh ra một thứ kinh sợ
1.Nhưng, có một điều chúng tôi tự thấy hơn cái vô cùng, vô cực đó là
chúng tôi có tri giác biết Tạo hoá là to, có tính tình, biết yêu nhau là
sướng. 2.Còn giời cao bể rộng mấy muôn năm vẫn trơ trơ đó, ngọn sóng kia cứ
việc ào ào suốt ngày nọ sang ngày kia, không biết mình là to lớn (Tố Tâm, Chương III, đoạn 20)
1. Nhưng, có một điều chúng
tôi tự thấy hơn cái vô cùng
2. Còn trời cao bể rộng (…) không biết
mình là to lớn
|
←Le coeur a ses raisons que la raison ne connaît
point (Pascal)
←Qui se considérera de la sorte, 3/ s’effrayera
de soi-même (…), 2/ entre ses deux abîmes de l’infini et du néant, 3/ il
tremblera 1/dans la vue de ces merveilles
(Les
deux infinis. Collection litteraire. XVIIesiècle. Lagarde
& Michard . Editions Bordas. Les Pensées p.146)
←1.dans
la vue de ces merveilles (khi ngước
nhìn quang cảnh diệu kỳ ấy…)
←2.entre deux abîmes de l’infini
et du néant (lửng lơ
giữa cõi vô cùng và hư không)
←3. (…) s’effrayera de
soi-même. (…) il tremblera
dans la vue de ces merveilles…(…trong lòng kinh
sợ và run lên..)
Mais quand
l’univers l’écraserait, l’homme serait encore plus noble que ce qui le
tue, parce qu’il sait qu’il meurt, et l’avantage que l’univers a sur lui,
l’univers n’en sait rien.
(Le roseau pensant
.Collection littéraire. XVIIesiècle. Lagarde & Michard .
Editions Bordas. Les Pensées p.157
←1.(...) homme serait encore plus noble que ce qui le
tue (con người còn cao cả hơn mãnh lực đang hãm hại nó…)
←2. et l’avantage que l’univers a sur lui, l’univers
n’en sait rien (vũ trụ
tuy thắng…nhưng nào đâu biết…)
|
2.
NGỌN CỎ GIÓ ĐÙA (1926) - HỒ BIỂU CHÁNH.
(L’herbe au gré du vent)
Sau 5 năm dựng truyện, Ngọn cỏ gió đùa được xuất bản vào năm 1926 như là một tác phẩm tầm
cỡ bậc nhất đầu tiên trong văn học Việt Nam. Tác phẩm sau này được dựng thành
phim và được quần chúng đón nhận rộng rãi. Cả một xã hội Việt Nam dưới thời
Nguyễn thế kỷ XIX (Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức…) như được phục dựng
sống động và trung thực với mọi khía cạnh hiện thực. Triết lý Á Đông và Đức Từ
Bi Đạo Phật được khai mở, tỏa lan trong toàn tác phẩm làm người đọc như bơi lội
trong những cảnh tượng sinh hoạt hàng ngày với những gian dối bất trắc nhưng
không thiếu những hành vi cao thượng như những tia sáng lóe lên giữa cảnh lầm
than. Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định có thể tìm thấy lại được các phong tục
tập quán, ngôn ngữ hoặc phương ngữ đương thời kể cả y phục của người Việt thế kỷ
XIX. Một câu truyện Việt Nam trong một bối cảnh văn hóa, tín ngưỡng thuần Việt.
Nào có ai ngờ là Hồ Biểu Chánh đã giữ y nguyên cốt truyện
của Les Misérables (1826) của Victor Hugo! Hồ Biểu Chánh đã cảm tác chứ không
phải sáng tác. Chẳng khác nào Jean de La Fontaine đã cảm tác các truyện ngụ
ngôn của Aesop (VII-VI TCN) và chuyển hóa chúng thành những tác phẩm giá trị
trong văn học Pháp thế kỷ XVII.
Nếu chưa từng đọc les Misérables của V. Hugo thì không
tài nào nhận ra toàn bộ câu chuyện là của V. Hugo. Ngay cả các nhân vật có lẽ
cũng gần như đồng số lượng và cùng một “hơi
thở” của V. Hugo. Chỉ một điều khác biệt là bàng bạc giáo lý nhà Phật và ảnh
hưởng Nho giáo trong mọi ứng xử nghĩ suy thay cho tinh thần đạo lý bác ái Thiên
Chúa Giáo của V. Hugo; từ đó toàn bộ ngôn ngữ, thói quen, tập tục của từng nhân
vật thuần đượm phong thái xã hội dân gian Việt Nam thế kỷ XIX dưới triều Nguyễn,
nêu cao các giá trị trọng nghĩa khinh tài, chính nhân quân tử, đoan trinh từ hiếu
và từ bi hỷ xả…
Xin đối chiếu một số nhân vật chính:
HỒ BIỂU CHÁNH
|
VICTOR HUGO
|
Lê Văn Đó Hòa Thượng Chánh Tâm Ánh Nguyệt Thu Vân Đỗ Cẩm Phạm Ký
Triết lý Á Đông/ Đạo
Phật
|
←Jean Valjean
←Monseigneur Myriel
←Fantine
←Cosette
←Thénardier
←Javert
←Charité
chrétienne
|
3.
HỒN BƯỚM MƠ TIÊN (1933) - KHÁI HƯNG
(Ame de papillon dans un rêve d’immortalité)
Chỉ vỏn vẹn trên trăm trang giấy, tác phẩm đầu lòng của
Khái Hưng viết năm 1933, được bạn đọc Việt Nam thời ấy đón nhận như là tác phẩm
nhiều độc giả nhất. Một câu truyện tình lãng mạn, thoang thoảng mùi thiền cửa
Phật, với những câu văn thướt tha với ngữ điệu nhịp nhàng theo lối “phrase périodique” của Chateaubriand 11., rất
khác xa những ảnh hưởng văn thơ biền ngẫu một thời chế ngự và là khuôn vàng thước
ngọc của trí thức Việt Nam. Với những đoạn văn xuôi trong văn học Pháp, các tác
giả Việt Nam hội nhập được một hình thái biểu cảm mới lạ: thi ca bằng văn xuôi
(poème en prose). Một điểm trùng hợp giữa hai ngôn ngữ Việt-Pháp là các từ tiếng
Pháp trong câu sẽ mất trọng âm (accent de mot) và chỉ còn trọng âm cuối nhóm
(accent de groupe) vì thế câu văn Việt Pháp có những nét tương đồng trong ngữ
điệu. Có lẽ không quá cường điệu khi nhận xét rằng Khái Hưng đã ảnh hưởng khá
nhiều Chateaubriand với những dạng câu dài với ngữ điệu nhịp nhàng mang tính
thi ca ấy.
KHÁI HƯNG
|
CHATEAUBRIAND
|
|
Mái chùa rêu phong đã lẫn màu cùng đất, cùng cây, cùng
cỏ. (13 âm tiết; 4 nhóm ngữ điệu)
Khoảnh khắc, mấy bức tường và mấy cái cột gạch quét
vôi chỉ còn lò mờ in hình trong cái cảnh nhuộm đồng một màu tím thẩm. (27 âm tiết; 7 nhóm ngữ điệu)
Trong làn không khí yên tĩnh êm đềm, tiếng chuông
thong thả ngân nga… như đem mùi thiền làm tăng vẻ đẹp của cảnh thiên nhiên. (26 âm tiết; 4 nhóm ngữ điệu) Lá cây rung động, ngọn khói thướt tha, bông lúa sột soạt,
như cảm tiếng gọi của Mâu Ni muốn theo về nơi hư không tịch mịch.
(27 âm tiết; 5 nhóm ngữ điệu)
|
J’écoutais ces chants mélancoliques, qui me
rappelaient que dans tout pays le chant naturel de l’homme est triste lors même
qu’il exprime le bonheur.
(36 syllabes; 4 groupes rythmiques)
Ainsi disant, je marchais à grands pas, le visage
enflammé, le vent siflant dans ma chevelure, ne sentant ni pluie, ni frimas, enchanté, tourmenté et
comme possédé par le démon de mon coeur .
(51 syllabes; 9 groupes rythmiques)
|
|
.........
11.Chateaubriand.
René. L’appel de l’Infini. XIXe s. Collection littéraire. Lagarde &
Michard. P 42. BORDAS 1961
Nếu trình bày theo thi ca sẽ rõ hơn về nhịp điệu và số
âm tiết cân đối rất phù hợp:
KHÁI HƯNG
|
CHATEAUBRIAND
|
Mái chùa rêu phong
đã lẫn màu7/
cùng đất2,/
cùng cây2,/
cùng cỏ2.
Khoảnh khắc2,/
mấy bức tường3/
và mấy cái cột gạch
quét vôi7/
chỉ còn2/
lò mờ2/
in hình2/
trong cái cảnh nhuộm
đồng (một) màu tím thẩm/8.
Trong làn không khí
yên tĩnh êm đềm/8,
tiếng chuông thong
thả ngân nga/6…
như đem mùi thiền/4
làm tăng vẻ đẹp của
cảnh thiên nhiên/8.
Lá cây rung động/4,
ngọn khói thướt tha/4,
bông lúa sột soạt/4,
như cảm tiếng gọi
của Mâu Ni/7
muốn theo (về) nơi hư không tịch mịch/7
|
J’écoutais ces
chants mélancoliques9, /
qui me rappelaient
que dans tout pays9/
le chant naturel de
l’homme est triste10,/
lors même qu’il
exprime le bonheur10.
Ainsi disant4,/
je marchais3/
à grands pas3,/
le visage3/
enflammé3,/
le vent siflant dans
ma chevelure9, /
ne sentant3/
ni pluie3,/
ni frimas3,/
enchanté3,/
tourmenté3,/
(et) comme possédé
par le démon de mon coeur/12.
|
Ngoài những ảnh hưởng trên, Giáo sư Bùi Xuân Bào 12. còn
phát hiện những âm hưởng của nhà văn Pháp Franҫois Coppée trong đoạn văn đã từng
làm chúng tôi say mê đọc đi đọc lại nhiều lần: Lá rụng!
.........
12.
Bui Xuan Bao. Le Roman vietnamien contemporain. Tr.158 Tủ Sách Nhân Văn Xã Hội.
Saigon 1972
KHÁI
HƯNG
|
FRANҪOIS COPÉE
|
Mặt trời đã lặn sau đồi tây (…). Lan đứng chấp tay tụng
niệm, con mắt lờ đờ nhìn xuống con đường đất quanh co lượn khúc dưới chân
đồi.
Gió chiều hiu hiu…
Lá rụng.
(Văn
xuôi lãng mạn Việt Nam NXB. Khoa học xã hội, 1998. Hồn Bướm Mơ Tiên, Khái Hưng,
tr.107)
|
"Mặt trời đã lặn, chìm xuống chân đồi, và
bỗng vụt tắt. Trong khoảng không gian xám tối màu lam ngọc, hiu hiu gió thổi
nối tiếp ngày tàn (...); và bỗng nhiên lá vàng rơi rụng như cả một trận mưa
vàng óng ánh… Lá rụng! Lá rụng”!
(Mais, il s'est couché, il a plongé derrière l'horizon; et
brusquement, tout s'éteint. Sur le paysage assombri dans le vaste ciel
couleur de perle, se répand le frisson funèbre qui se
succède à l'adieu du jour (...). Tout à l'heure, dans le rayon, les
feuilles mortes, en tombant, étaient pareilles à une pluie d'or…Les feuilles tombent ! Les
feuilles tombent!(Franҫois COPPEE, Toute une jeunesse tr.322)
|
Thật đáng thán phục lối “hội lưu nghệ thuật” của Khái Hưng trong đoạn văn trên; và theo thiển
ý của chúng tôi, đoạn văn của Khái Hưng còn làm cho người đọc rung cảm hơn nhiều,
diễn xuất những ý tứ tiếc nuối mong đợi, vừa muốn rời xa, vừa muốn kéo lại hình
ảnh người sinh viên, với rất nhiều nghịch lý nội tâm… Khái Hưng đã cho “lá rụng” điểm khúc đến ba lần giọt buồn
nội tại. Thật khó mà nhận ra được những ảnh hưởng sâu kín này, thể như con tằm
ăn dâu nay nhả tơ vàng; nào ai biết tơ ấy là thành quả chuyển hóa của Khái
Hưng!
Tám năm sau, với Thanh Tịnh, ta sẽ thấy tính cách “hội
lưu” văn học ấy càng tuyệt vời, rất nhuần nhuyễn.
4.
TÔI ĐI HỌC (1941) - THANH TỊNH
(La rentrée des classes)
THANH TỊNH
|
ANATOLE FRANCE
|
1/ Hằng năm cứ vào 2/cuối thu, 3/ lá
ngoài đường rụng nhiều và 4/ trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức 5/ những
kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường. /
1. Hằng năm 2. vào cuối thu 3.lá ngoài đường rụng nhiều 4. trên không có những đám mây…
5. những kỷ niệm (hoang mang..) (...)
|
Je vais vous dire 5/ ce que me rappellent 1/ tous les ans, 4/le ciel agité de 2/ l’automne et
3/ les feuilles qui
jaunissent dans les arbres qui frissonnent.
(….)
←1. tous les ans (hàng
năm…)
←2. (le ciel agité)
de l’automne (…mùa thu…)
←3. les feuilles qui jaunissent (..lá vàng…)
←4.le ciel agité (trời vẩn đục…)
←5.ce que me rapellent…(gợi những
hoài niệm…)
|
Quả thật, xem ra chẳng có chút gì “vay mượn”: cậu bé của Anatole France khi băng qua vườn Luxembourg
để đi đến trường “xắc mang trên lưng, tay
thọc túi quần, vừa đi vừa nhảy như con chim sẻ” 13.. Còn tác giả “tôi đi học” thì “không lội qua sông thả diều như thằng Quý và không ra đồng nô hò như
thằng Sơn nữa. Trong chiếc áo vải dù đen dài tôi cảm thấy mình trang trọng và đứng
đắn”! Thân thương làm sao, thật là thuần Việt, khó lòng mà tìm ra dấu vết ảnh
hưởng hay vay mượn!
.....
13.
Ce que je vois alors dans ce jardin, c’est un petit bonhomme qui, les mains
dans les poches et son sac sur le dos, s’en va à l'école en sautillant comme un
moineau.
Về phần thi ca, thì quá rộng lớn. Chúng tôi chỉ xin
trích hai tác giả: cả hai đã từng công khai xác nhận ảnh hưởng thi ca Pháp
trong sáng tác của mình.
5.
YÊU CỦA XUÂN DIỆU.
XUÂN DIỆU
|
EDMOND HARAUCOURT/ FELIX ARVERS
|
Yêu, là chết ở trong lòng một ít,
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu?
Cho
rất nhiều, song nhận chẳng bao nhiêu:
Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết.
|
← Partir, c’est mourir un peu
(Rondel de l’adieu .Ed. Haraucourt)
←Offrir beaucoup et recevoir bien peu de choses (Felix Arvers)
|
Lần đầu tiên, chúng tôi thấy câu ngạn ngữ Ý “traduttore, traditore” - dịch là phản -
không phải khi nào cũng đúng. Đứng trên góc độ dịch thuật, đây là một lối dịch
từng từ, mot à mot, hoặc trung thành tới từng chữ theo nguyên tác, traduction
littérale; Xuân Diệu chuyển cảm rất trung thực mà không phá vỡ tính chất thi vị
của thi ca và ngôn ngữ: rất Việt!
Partir,
c’est mourir un peu (Haraucourt) 14.
↓ ↓ ↓ ↓
(Đi/Yêu)
là chết trong lòng một ít (Xuân Diệu)
Offrir beaucoup
et recevoir bien peu de chose (Felix Arvers)
↓ ↓ ↓ ↓ ↓
Cho rất nhiều song
nhận chẳng bao nhiêu
…….
13.
Ce que je vois alors dans ce jardin, c’est un petit bonhomme qui, les mains
dans les poches et son sac sur le dos, s’en va à l'école en sautillant comme un
moineau.
Anatole
France "Le livre de mon ami"
14.
Rondel de l'adieu, Haraucourt.
1/ Hai câu thơ của hai tác giả Pháp lại đi vào trong
cùng một bài thơ.
2/ Điệp
khúc “yêu là chết….” trong Rondel de l’adieu xuất hiện hai lần;
Trong bài
“Yêu” của Xuân Diệu xuất hiện ba lần
3/ Câu
thơ của Haraucourt 7 âm tiết (syllabes); câu thơ của Xuân Diệu cũng 7 âm tiết (thất ngôn) và vì tiếng
Việt là một ngôn ngữ có “thanh” (langue
à tons) nên tác giả đã phải thêm 2 từ “trong lòng” để được cân đối
và tuân thủ yếu tố nhạc điệu.
6.
ÔNG ĐỒ (1936) - VŨ ĐÌNH LIÊN
(Le vieux lettré)
Hầu hết người Việt đều rất quen thuộc bài thơ bắt đầu
bằng mấy câu thơ “Mỗi năm hoa đào nở/ Lại
thấy ông đồ già…” mà không cần nhớ tiêu đề cũng như tác giả. Cũng chẳng ai
nghĩ đó có những âm hưởng ngoại lai, vì bài thơ rất dung dị, từ ngữ thuần Việt,
vẽ lên một bức tranh quen thuộc vào dịp trọng đại nhất trong năm: Tết.
Chúng tôi được gặp Vũ Đình Liên (sau 1975) tại Trung
Tâm Pháp ngữ Huế - Centre de Franҫais -, hồi ấy cụ là chủ nhiệm Khoa Pháp ở Hà
Nội và chính cụ đã bộc bạch cho biết viết bài thơ cảm hứng từ câu thơ “đâu màu tuyết cũ” của F. Villon.
VŨ ĐÌNH LIÊN
|
FRANҪOIS VILLON
|
………………
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
(Où sont ces gens d’antan…
Leurs âmes, où sont-elles maintenant?)
1936
|
Ballade des Dames du temps jadis
François
Villon
……………………
←Mais où
sont les neiges d’antan !
(Đâu rồi
những màn tuyết cũ)
|
Partir,
c'est mourir un peu,/C'est mourir à ce qu'on aime :/On laisse un peu de
soi-même/En toute heure et dans tout lieu./ C'est toujours le deuil d'un
voeu,/Le dernier vers d'un poème:/
Partir
c'est mourir un peu./Et l'on part, et c'est un jeu
Et
jusqu'à l'adieu suprême/C'est son âme que l'on sème,/Que l'on sème à chaque
adieu:/Partir, c'est mourir un peu.
II.
TƯƠNG TÁC TIẾP CẬN.
(Annamophilie: thân Việt & Namstalgie: hoài Việt)
Người Việt, khi tiếp cận với văn hóa Pháp, mặc dù có
những vướng mắc thông thường giữa người bị trị và người thống trị, vẫn tìm được
những yếu tố tích cực nhân văn để tiếp thu và lãnh hội, làm giàu có thêm cho
kho tàng văn học và giáo dục của mình.
Thế thì tâm tư tình cảm của những người Pháp đến đất
nước xa lạ này thì sao?
Vào những năm 1990, xuất hiện trên tạp chí GEO tại
Pháp - một tạp chí chuyên về Văn hóa và Du lịch - một từ rất mới lạ: “Namstalgie” (hoài Việt).
Thực ra từ mới này đã được cấu tạo theo từ Nostalgie
(hoài hương) đã xuất hiện từ thế kỷ 17 để chỉ một trạng thái “tâm bệnh” vào năm 1688 do Johannes
Hofer, còn gọi là “mal du pays” để chỉ
hiện tượng hoài hương, nhớ quê cũ. Từ Nostalgie gồm hai yếu tố Hy lạp “nostos” (trở về) và “algos” (nỗi đau) và từ “Namstalgie” cũng được cấu tạo theo kiểu
ấy (mặc dù phải thêm vào hai chữ /st/ sau từ Nam, có thể cho dễ đọc, mà cũng có
thế muốn lưu lại một phần thành tố “nostos” để diễn tả ý niệm “hoài nhớ”).
Namstagie, hoài Việt, là một loại hình du lịch đáp ứng
nhu cầu những con cháu, hoặc chính bản thân những người đã có năm tháng dài sống
và làm việc tại “An Nam xưa” muốn trở
về “quê cũ” thăm lại nơi họ đã từng sống,
làm việc và gởi gắm tâm tư, thậm chí tình cảm.
Yersin đã xin được chôn ở xứ sở này sau khi chết. Và
ông đã toại nguyện. Mộ ông ngày nay vẫn còn khói hương nghi ngút tưởng nhớ của
người Việt.
Marguerite Duras, chỉ với tác phẩm L'Amant (Người
tình) cả thế giới biết đến bà khi tuổi đã xế chiều và trước đó chưa từng được nổi
tiếng. Tác phẩm đã dựng thành phim, thu hút một lượng độc giả đáng kinh ngạc, bối
cảnh và tình tiết câu chuyện là một quãng đời ở Nam Bộ nước Việt. Phải chăng đó
là một “hội chứng An Nam” như về sau
có người dám quả quyết?
Gần đây thôi, bà Catherine Guy, phụ trách bảo tàng
Pháp cho biết trong “Kho lưu trữ Toàn cầu”
ở Paris người ta trân trọng lưu giữ đến 840 bức ảnh về Việt Nam của Léon Busy,
đặc biệt khá nhiều bức về Hà Nội 36 phố phường, số lượng chỉ xấp xỉ thua kém
900 bức về Paris, vượt xa số lượng ảnh lưu giữ về Trung Quốc (hơn 400 bức) và
Nhật Bản (500 bức). Những con số trên cũng nói lên nhiều điều, nhất là những “vấn vương” của một thời xưa cũ.
Phần Leopold Cadière, chủ bút của “Đô thành Hiếu cổ”, Bulletin des Amis du Vieux Hue (BAVH) 15. thì còn đặc biệt hơn.
Vào tuổi 84, khi được đề nghị trở về Pháp, Cadiere đã
nài nỉ: “Tôi chẳng biết là ở Pháp có tốt
hơn cho tôi không. Cả đời tôi, tôi đã dâng cho xứ sở này rồi. Xin hãy cho tôi ở
lại và được chết ở nơi đây”. 16.
Lời thống thiết của cụ già 84 tuổi, xem Việt Nam là
quê hương mình, minh chứng một cách trung thực mãnh lực cảm hóa của xứ sở này đối
với cụ như thế nào! Đến Việt Nam lúc 23 tuổi và chết ở Việt Nam ở tuổi 86: 63
năm ở Việt Nam, chỉ một đôi lần về Pháp để tìm tài liệu nghiên cứu.
…….
15.
B.A.V.H 1913-1945; đã được dịch toàn bộ, trên 15.000 trang. Nhà XB Thuận Hóa.
16.
“ Je ne sais pas si je serais mieux en
France. Toute ma vie, je l’ai donnée à ce pays. Laissez-moi y rester pour y
mourir”. NGUYEN TIEN LANG. Hommage vietnamien au R.P. Leopold Cadière; Bulletin
des Missions Etrangères de Paris tr.29.
Vào năm 1942, vào lúc 73 tuổi, đánh dấu 50 năm sống ở
Việt Nam (1892-1942), Cadière đã đúc kết bằng bài phát biểu ngắn gọn chỉ trên
dưới 250 từ và không quá 45 dòng, 17. nhưng bao quát toàn bộ những dấu ấn tình cảm
của ông đối với người Việt. Có 6 lý do để Ông mến thương xứ sở này:
1. Thật ngạc nhiên khi đề cập đến ngôn ngữ như là mối
dây ràng buộc đầu tiên:
“Tôi
học tiếng họ từ ngày tôi mới đến, tôi vẫn còn tiếp tục học 18. và nhận thấy rằng tiếng Việt rất tinh tế về mặt
cấu trúc, và cũng không nên xem nhẹ về sự phong phú về từ ngữ như có người suy
nghĩ” (Cadière, sách đã dẫn).
Hoặc “học tiếng
Việt không phải chỉ để nói giỏi như họ mà còn phải tâm tư nghĩ suy như họ”. 19.
Rõ ràng là một lối biện luận ít nhiều mang tính bênh vực
và phát xuất từ thiện cảm sẵn có. Người Pháp vẫn tự hào về ngôn ngữ của họ, lấy
những nguyên tắc của Boileau 20. như là chỉ đạo trong cách xếp đặt tư duy để biểu cảm.
Thầy giáo dạy tiếng Pháp thường nhắc nhở học sinh của mình: Không rõ ràng,
không phải là tiếng Pháp (Ce qui n'est pas clair, c'est pas franҫais). Cấu trúc
chặt chẽ của tiếng la-tinh còn hiển thị qua nhiều qui luật ngữ pháp phải tuân
theo trong tiếng Pháp, đến nổi nhiều người cho rằng tiếng Pháp là một “ngôn ngữ đào tạo”, langue de formation.
2. Lý do thứ hai liên quan đến tôn giáo tín ngưỡng.
Cũng thật là lùng khi một “nhà truyền đạo”
lại đi ca ngợi hết mình một tôn giáo khác:
“Tôi
đã nghiên cứu tín ngưỡng, các thực hành lễ nghi tôn giáo, phong tục tập quán của
họ và phải thừa nhận rằng người Việt rất sâu sắc về tôn giáo, tín ngưỡng của họ
trong sáng và khi họ cầu cứu đến Trời, tế tự Trời thì cũng có thể họ cùng đến với
một đấng toàn năng mà tôi gọi bằng Chúa, và tự đáy lòng họ đang lưu giữ một tia
sáng tôn giáo tự nhiên mà Tạo hóa vốn ấn dấu vào tâm khảm của nhân sinh”
(Cadière, sđd).
Chúng ta biết rằng, cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20,
nước Pháp thường được gọi là “trưởng nữ”
của Giáo Hội La Mã và đã rất sùng đạo khi gởi rất nhiều “thừa sai” (missionnaires) khắp trên thế giới để “loan truyền Tin Mừng”, thì trong Hội thảo
về “Dân tộc học và Tôn giáo” Cadière
vẫn khẳng định: “Người Âu châu dẫu sùng đạo,
thường vẫn không sống hết toàn bộ thời gian với Thượng đế của mình; người Việt
ngược lại, dù ở giai cấp nào, đều cảm thấy mình trực tiếp thường xuyên với các
thần thánh trong thiên nhiên”.
……….
17.
Croyances et Pratiques Religieuses des Vietnamiens (CPRV), q.1 trang VII.
18. Lúc ấy Cadière đã 73 tuổi.
19.
Souvenirs d'un vieil annamitisant, Indochine, 1942
20. Ce que l'on conçoit bien s'énonce
clairement / Et les mots pour le dire arrivent aisément
Khi nghiên cứu về tôn giáo, ông đã ví von tôn giáo người
Việt như dãy núi Trường Sơn cỏ cây chen chúc không biết đường ra lối vào, gốc
lai từ đâu đến, hòa trộn chen lẫn để rồi nở rộ những hoa đại đóa rực lửa cả một
khung trời.
3. Lý do thứ ba của tình cảm mến thương là lịch sử hào
hùng của cả một dân tộc.
“Tôi
đã nghiên cứu lịch sử của họ, xuyên qua các thế kỷ, đặc biệt là từ triều Nguyễn,
và nhận thấy rằng đất nước Việt Nam, từ nguyên thủy, đã không ngừng nung nấu một
ý hướng cao về phát triển và tiến bộ, đã miệt mài theo đuổi thực hiện ý hướng ấy
với hào hùng can đảm và linh hoạt thích ứng vào từng hoàn cảnh trên con đường
tiến bước của mình” (Cadière, sđd).
4. Lý do thứ tư là mối tương đồng giữa hai dân tộc;
không hề mang tâm thức có người bị trị và kẻ thống trị.
“Tôi
yêu mến họ vì những đức hạnh tinh thần. Thuộc tầng lớp nông dân, rồi sống ở Việt
Nam giữa nông dân, tôi đã có thể thấy rằng nông dân Pháp và nông dân Việt giống
nhau lạ lùng: Bên này cũng như bên kia, từng ý tưởng vụn vặt của cuộc sống hằng
ngày, của đồng áng, chợ đò, của những bữa cơm thường nhật, của làng mạc... Mặt
nữa, bên này cũng như bên kia, những tình cảm cao cả, tình yêu thương sâu đậm của
gia đình, giúp đỡ và tương trợ lẫn nhau, chuyên cần trong công việc, nhẫn nhục
trong cuộc sống nghèo hèn và khổ cực mỗi ngày”(Cadière,
sđd).
5. Lý do thứ 5 là yếu tố con người.
“Tôi
yêu mến họ vì tính tình của họ. Trước đây, khi tôi có dịp đi lại bằng võng hay
bằng thuyền, tôi đã thấy được và cảm phục niềm vui sống, sự vui vẻ, tâm trí hồn
nhiên của bác gánh võng hay người chèo thuyền, mặc dầu họ thật vất vả, nhọc nhằn
suốt hàng giờ và hàng ngày tròn” (Cadière, sđd).
Ông đã từng lên tiếng bênh vực trước những phàn nàn của
các ông chủ người Âu sử dụng lao động Việt: “Những
ai cho là người Việt biếng nhác, họ chỉ xét đoán trên một phần sự kiện ngoại lệ.
Trên thực tế thì người Việt cần mẫn, chăm chỉ, năng động, chịu thương chịu khó,
quả cảm, xoay xở giỏi khi họ làm việc một cách bình thường (...). Phải sống với
họ, giữa họ để thấy phần đông người Việt lao nhọc như thế nào mới thấy được điều
tôi kết luận trên là đúng. Rất nhiều tục ngữ ca dao nói lên điều ấy”. 21.
6. Nhưng lý do cuối cùng của ông đã ấn dấu mãnh liệt
vào tâm khảm đến nỗi chúng tôi nhớ trọn vẹn cả nguyên văn:
“Cuối cùng thì tôi thương mến họ vì họ khổ. (....) Những khốn cùng đôi
khi phải cam chịu đã đành, nhưng thường là do định mệnh khắt khe vô tình”. “Cái định mệnh khắt khe vô tình” ấy nó
nhân bản làm sao nhất là được thốt ra từ miệng một linh mục người nước ngoài, vốn
được đào tạo rất kinh điển theo thần học Thiên Chúa Giáo, tin tưởng tuyệt đối
vào sự An Bài (Providence) và ở một môi trường Đông Tây nhiều điểm dị biệt.
……..
21.
Croyances et Pratiques Religieuses des Vietnamiens.(CPRV) Q. III tr 116
Nay đọc lại những đoạn mô tả về các cách thờ bái ma
thuật, hoặc những cách chữa trị kỳ bí, một số tập tục dã man, mà giới trẻ Việt
Nam ngày nay không thể tin rằng đã có một thời ông cha ta đã hành xử như thế.
Nhưng trước con mắt của Cadière, ngay vào thời buổi ấy, ông đã nhìn với một
nhãn quan từ tâm: cũng bởi vì “họ khổ”.
Xin được phép trích một dẫn luận ngắn ngủi giải thích vì sao đâu đâu cũng có miếu
thờ “Bà Hoả”:
“Phải
có lần bị đánh thức giữa đêm đen do tiếng báo động quát thé, phải có lần được
nghe tiếng kêu la hãi hùng của dân làng vội vã tán loạn, tìm con, tìm người già
lão, phải có lần thấy ánh lửa đỏ ngầu vút lên trong đám khói đen cuồng nộ cùng
tiếng mắt tre kèo, cột, mái nhà nổ vang như tiếng đại bác để rồi hôm sau thấy tận
mắt cảnh tang thương của những vết tích còn lại, nhất là phải tự thân gánh chịu
cái tai ương khủng khiếp ấy thì mới hiểu được người Việt sợ hoả hoạn là như thế
nào, thì mới biết tại sao họ đã nghĩ những tai ương kia là do thần thánh, thì mới
hiểu được cách họ xử thế đối với mọi tai ương xảy đến, kể cả những trường hợp
nhỏ nhặt nhất”. 22.
Về cách đối xử “tàn
nhẫn” với những thi thể chết non, chết yểu, chết trùng, theo Cadière, chung
qui cũng do “từ tâm” mà ra cả: muốn bảo
vệ những trẻ được sinh ra sau này, và phải làm hết mọi cách. Bao dung theo kiểu
Chu Mạnh Trinh khi luận về Kiều “chiếc lá
rụng chọn gì đất sạch” mới thấu hiểu được hết các cách hành xử “cùng đường” mà ngày nay chúng ta khó
lòng chấp nhận, để làm sao thoát ra được những khổ ải liên miên mà họ phải gánh
chịu.
“Thôi
thì bỏ đi những cảnh man rợ và để phần nào xin lỗi các bé, xin ghi nhận rằng chẳng
qua cũng do thương mến mà ra cả. Tình cảm tự nó là cao quí và đáng trân trọng,
dẫu rằng cách thể hiện thì nhiều khi thật đáng lên án”. 23.
Một người Pháp, không tự mãn với hào quang văn hóa của
mình, của Phương Tây, lại ca ngợi văn hóa của xứ thuộc địa:
“Ngày
nay văn minh Tây Phương chen vào làm đảo lộn phân tán các gia đình (...). Chớ
nên gia tăng khuynh hướng này: gia đình vốn đã bị đe doạ quá sức rồi, chắc chắn
sẽ bị phương hại...”. 24
Hoặc:
“…người
Việt không phải - chưa phải là một kẻ mất gốc lang thang phiêu bạt, một cá nhân
ngập chìm trong đám đông không định hình của xã hội, như nền xã hội công nghiệp
đã sản sinh ra không biết bao nhiêu tại châu Âu. Người Việt, cho dù bất cứ hoàn
cảnh nào cũng thuộc về một họ, tức gia đình theo nghĩa rộng, tổ chức vững chắc,
liên kết chặt chẽ bằng huyết thống, bằng những quyền lợi vật chất, bằng những
niềm tin tôn giáo, bằng các mối dây luân lý của cộng đồng”. 25
…….
22.
CPRV Tome II tr. 53
23. CPRV. Tome II. tr 209
24. Cadière, Gia đình và đạo giáo ở Việt Nam.
Croyances et Pratiques Religieuses des Vietnamiens, 1958, Q. I, tr.59
THAY
LỜI KẾT:
Để thay lời kết, chúng tôi xin mạn phép lấy nguồn cảm
hứng từ tác phẩm “Le Silence de la mer”
của Vercors, tức Jean Bruller. Một cuộc tình câm lặng của hai phía thù địch, giữa
cô gái Pháp và người sĩ quan Đức đang chiếm đóng quê hương mình. Một sự im lặng
như biển cả bao trùm cả câu chuyện. Chỉ có một số động tác rất khẽ di chuyển
như hai cái bóng trong cùng một ngôi nhà. Nhưng tiếng dương cầm của người lính
Đức như thi thoảng thỏ thẻ âm vang, tỏ tình. Âm nhạc là tiếng nói của im lặng.
Và cái im lặng lại nói lên được rất nhiều nhiều điều. Vì “ngôn ngữ là nguồn cội của những ngộ nhận” - le langage est source
de malentendus. 26. Chỉ một tiếng nói duy nhất
và cuối cùng trước khi người sĩ quan Đức ra đi: Vĩnh biệt! Nhưng tình yêu đã
nhen nhóm từ lâu. Vĩnh biệt mà lại kết nối! Có nước mắt ứ đọng, trong lòng và
trong khóe mắt: thế giới nước mắt quả là kỳ diệu! “C’est tellement mystérieux, le pays des larmes”. 27.
Văn học Pháp, văn hóa Pháp, nền giáo dục Pháp… cũng im
lặng đi vào trong tâm hồn người Việt, nhẹ nhàng và êm dịu… như những nốt nhạc
trữ tình, có sức xóa đi những ngăn cách, thuần nhuyễn và cảm hóa tương tác -
réciproquement apprivoisé - để rồi dệt ra những tác phẩm tuyệt tác, mà độc giả
Việt Nam bình thường sẽ cảm thấy như đang bơi lội trong chính nguồn cội của
riêng mình.
……..
25.
Cadière, sđd, tr.80.
26. St. Exupéry
27. St. Exupéry
Đỗ
Trinh Huệ
4 nhận xét:
Cảm ơn sự sưu tầm nghiên cứu của thầy đồ La Thuy
Bài viết của người thầy chúng tôi, từng giảng dạy tại trường trung học Nguyễn Hoàng Quảng Trị trước 1975.
Một bài viết rất dày công với các tư liệu
VN ta cũng là thân phận một nhược Quốc chậm tiến . Nên cần phải nương nhờ vào "đàn anh" đi trước mà phát triển văn hóa , tìm ra con CHỮ !
Mặc dù phải nhờ vả người nước ngoài , mang ơn họ mà nền văn hóa nước Việt theo mẫu tự Latin ,không "loằng ngoằng" như Chữ Thailand , như Campuchia .... Nên ta dễ dàng hội nhập vào nền văn hóa thế giới ...
CHÚC QUÍ VỊ NĂM MỚI 2021 AN KHANG THỊNH ĐẠT
https://1.bp.blogspot.com/-Gj5Vm1uNSzI/X-w7ZPM8AlI/AAAAAAAACNw/SC4PC-rpS9M3nAHoYb6o5tsyPFLDWiniQCLcBGAsYHQ/w516-h550/eH.gif
Nâng ly chúc mừng năm mới 2021, bạn Phong Suong nhé!
http://2.bp.blogspot.com/-ux5qzMo-bwc/VH1SMMfGHcI/AAAAAAAAGj4/0qdTatbofdw/s1600/2zxD0-BXFB-1.gif
Đăng nhận xét