BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Năm, 31 tháng 12, 2020

CHÙM THƠ ĐẦU NĂM 2021 CỦA CHÂU THẠCH

 
                     
                Nhà thơ Châu Thạch


KHUYA NHỚ
 
Trời đã cuối năm đêm lạnh quá
Ta nằm nhớ núi thuở đi tù
Bụng đêm khoai sắn kêu lời ếch
Đời ở rừng, sương khói mịt mù
 
Tiếng dế nghe buồn như tiếng khóc 
Bờ xa thác lệ róc quanh đêm 
Mẹ già có lẽ nằm thao thức
Vợ trẻ dòng châu đẫm gối mềm
 
Cán bộ soi đèn đi kiểm soát
Nằm im nhớ bạn đã yên mồ
Ngày mai có lẽ ngày mai nữa
Còn đó trăm năm tấm bản đồ
 
Trời đã vào khuya lạnh gió đông
Nhớ xưa như tím ngắt trong lòng
Thức đêm mới biết đêm dài quá
Đã cuối con đường cuối ước mong!
 
 
CHÚC ĐẦU NĂM
 
Đầu năm mấy lời chúc bạn
Sẽ thôi cuộc sống đang trầm
Trải qua những ngày rét đậm
Rồi thì nắng cũng hòa chan
 
Đầu năm mấy lời chúc bạn
Của tiền không đến thì thôi
Đến thì ngay đường thẳng lối
Đừng tham đừng dối đừng gian
 
Tớ đây không có bạn quan
Bạn nghèo thì nhiều lủ khủ
Bạn giàu vài anh vài cụ
Tách đời cũng mấy bạn tu 
 
Đầu năm nằm nhà buồn ngủ
Thưởng mình một tách cà phê
Nghĩ về ký ức lê thê
Ôn cố những điều đáng nhớ
 
Đầu năm vài lời ngú ngớ
Chúc mừng tất cả bạn đây
Năm mới vui phút vui ngày
Ngoài ra đếch cần chi cả.
 
                     Châu Thạch

NHỮNG LƯU Ý KHI XEM TƯỚNG BÀN TAY – Đặng Xuân Xuyến

 


(Trích trong KHÁM PHÁ BÍ ẨN CON NGƯỜI QUA BÀN TAY của Đặng Xuân Xuyến; Nhà xuất bản Thanh Hóa - 2007)
 
Sai lầm đầu tiên, dễ mắc phải ở người lần đầu làm quen với khoa xem tướng bàn tay là thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm nên không có sự cân nhắc để sàng lọc thông tin xem nội dung đó có chuẩn xác? có đáng tin cậy? có đảm bảo tính khoa học?

BUFFET COFFEE – Thơ Lê Phước Sinh

 
  


BUFFET - COFFEE
 
Sài Gòn buổi sáng, sương mờ ảo
bên cạnh tàng xanh, nụ nấm nở hương nồng
những nàng Tiên mười tám, mười sáu
giọng ngọt ngào:
 - Cà Phê, mời Anh...
 
                                            Lê Phước Sinh

XUÂN SANG – Thơ Nhật Quang

 
  


XUÂN SANG
 
Giọt sương đẫm lá long lanh
Bình minh thả vạt nắng xanh chan hòa
Gió đưa ngan ngát hương hoa
Bướm ong thơ thẩn, la đà rong chơi
 
Nàng xuân duyên dáng mỉm cười
Mây hồng lơ lửng giữa trời êm mơ
Tiếng xuân dịu ngọt cung tơ
Lâng lâng khúc hát, vần thơ rộn ràng
 
Bên hiên gió thoảng nhẹ nhàng
Rung rinh cánh mỏng mai vàng nở tươi
Xuân tô sắc thắm cho đời
Bình yên khắp chốn người người đón xuân.
 
                                                 Nhật Quang 
 

TRĂNG MÀU MẬN CHÍN - Nguyễn Đức Tùng

 

Năm ấy cô mười tám tuổi, tốt nghiệp trung học, vừa thi xong kỳ thi tuyển vào trường cao đẳng. Cô mới đến Canada năm năm, từ trại tị nạn. Cô đến trường ban ngày, ban đêm làm việc ở Mac Donald, đôi khi tiệm ăn khác. Cuối tuần cô đi lau dọn nhà cho cô giáo chủ nhiệm kiếm thêm tiền. Cô buồn ngủ suốt ngày. Những khi không đến trường, không làm việc, cô ngủ bù trong cái phòng nhỏ của mình, chật chội, ẩm, tối. Cửa sổ phòng cô nằm ngang mặt đất, nhìn ra thấy bụi cỏ xanh tốt, đôi khi một con dế dương râu nhìn cô chằm chặp. Nhưng cô nằm mơ những giấc mơ đẹp, ngoài cửa sổ hoa lê trắng, lựu đỏ, hoa anh đào hồng mọc lấm tấm. Cô thức dậy khi nghe tiếng chuột chạy. Nhà vắng, cô lục thức ăn nguội trong bếp, ngồi ăn một mình, xong thu dọn hành lý vào cái ba lô, như kiểu người ta đi hiking. Cô gặp ba cô ở cửa, ông vừa đi làm về. Đi đâu, con gái Suzanne? Con đi chơi với chúng bạn. Cô nói dối. Cô rất sợ ba cô, một người đàn ông hiền hậu nhưng nóng tính, sáu năm trong trại cải tạo biến ông thành một người khác, ít nói, rầu rĩ, cáu gắt. Ông cấm cô có bạn trai quá sớm, cấm đi chơi về khuya. Cô không bao giờ dám tâm sự với ông. Cô sẽ đi về Sakatoon bằng chuyến xe buýt đường dài, sẽ ở lại ba hay bốn đêm ở đó, trong nhà một đứa bạn gái. Để làm gì? Cô không biết rõ lắm. Cô có một giấc mộng, một kế hoạch làm giàu. Cô muốn các em cô được ở nhà sang trọng, mẹ cô không phải đi làm trong hãng may với bàn tay đau nhức, lẩy bẩy, tối nào cũng bắt cô xoa bóp. Trong khi ở đây mùa hè, chim chóc hót líu lo, thì ở phía bắc Saskatchewan, trời trở lạnh. Chuyến xe buýt chạy đơn độc trên đường, về chiều tuyết bỗng xuống mịt mù, cô nhìn thấy trên ngọn đồi, dưới thung lũng, những con chó sói đầu tiên trong đời. Những con báo hoa. Mèo rừng. Những con coyotes. Những cánh đồng lúa mì đã gặt, đồng cỏ “hay” trồng cho ngựa ăn, loại cỏ cuộn thành bó tròn lăn trên mặt đất lấm tấm hạt tuyết trắng như hoa cúc. Liệu cô có thi hỏng kỳ thi vừa qua không.

Thứ Tư, 30 tháng 12, 2020

DI SẢN VĂN HÓA VÀ GIÁO DỤC PHÁP TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM – Đỗ Trinh Huệ


Tôi xin mạn phép hầu chuyện với tư cách của người đương thời và trong cuộc, được tắm gội một thời hai nền giáo dục, vừa Việt vừa Pháp, khi thơ ấu, cũng như những năm ở Đại học, với những gì nghe thấy (de visu) hoặc cảm nghiệm (sur du vivant) 1.; vì thế không tránh khỏi những nhận định chủ quan, cần lắng nghe và được góp ý.
 

Thứ Ba, 29 tháng 12, 2020

TRUYỆN NGOÀI CHÍNH SỬ - Phùng Thành Chủng

Nguồn:
http://vanviet.info/van/truyen-ngoi-chnh-su-2/
 



Lời vào truyện:
 
Vừa qua, trong một chuyến điền dã về thôn Cổ Hiền, xã Tuyết Nghĩa, huyện Quốc Oai (Hà Tây), chúng tôi đã may mắn “được nhờ dịch” một cuốn sách do một người dân địa phương phát hiện được khi hạ móng nhà. Đó là một cuốn thư tịch cổ (có thể nói là tối cổ) được bảo quản trong một chiếc khạp gốm, viết chữ Hán, lối đá thảo, nét chữ phóng khoáng, không theo một khuôn phép nào và được viết theo thể “Chí”, trong đó nói về hành trạng của một nhân vật có tên là Đỗ Thích, con Đỗ Cảnh Thạc – một danh tướng dưới triều nhà Ngô.
 
Thấy đây là một tư liệu lý thú và có phần bổ ích với bạn đọc hôm nay, chúng tôi đã từ bản dịch thoát, mạo muội biên tập lại dưới dạng một truyện ngắn với cái tít là: “Truyện ngoài chính sử”, vì trong sách có những chi tiết không thấy chính sử ghi chép.
 
Để tiện theo dõi, trước khi làm quen với Đỗ Thích, nhân vật chính được nói tới ở đây, chúng tôi thấy cần phải nói qua về Đỗ Cảnh Thạc, một trong thập nhị sứ quân thời tàn Ngô:
 
Đỗ Cảnh Thạc (912 – 968) là người huyện Thuận Đức, tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc). Năm 936, ông khởi binh chống lại triều Nam Tấn và trong một lần giao chiến, ông bị Lương Ngột, một viên tướng của nhà Nam Tấn lấy mất một tai (vì vậy, ông còn có biệt hiệu là Độc Nhĩ Vương), phải ôm đầu máu, dẫn tàn quân chạy sang Giao Chỉ, đến đất Đường Lâm khuất thân theo phò Ngô Vương Quyền.
 
Nhờ có nhiều công lao, được nhà Ngô phong cho chức Chỉ huy sứ, cai quản cả một vùng Đỗ Động, Liệp Hạ (nay thuộc hai huyện Thanh Oai và Quốc Oai – Hà Tây). Năm 965, hậu Ngô vương là Ngô Xương Văn con Ngô Vương Quyền mất. Giao Chỉ đại loạn! Mười hai sứ quân nổi lên, mỗi người hùng cứ một phương, không ai chịu thống thuộc ai!
 
Đỗ Cảnh Thạc xưng là Đỗ Cảnh Công, lấy luôn đất Đỗ Động và vùng Trại Quèn (tên nôm của thôn Cổ Hiền) làm căn cứ, tạo thành thế ỷ dốc để khi lâm sự có thể ứng cứu lẫn nhau, chống lại với các sứ quân. Ông là người cuối cùng cầm cự được với Đinh Bộ Lĩnh. Sau đó, vì mắc phải kế nghi binh của họ Đinh, trong một trận giao tranh tại khu vực núi Tượng Linh thuộc địa phận xã Hoàng Xá, Đỗ Cảnh Thạc bị trúng một mũi tên có tẩm thuốc độc, một người một ngựa chạy được về đến chân núi Sài Sơn (núi Thầy) thì mất, thọ 57 tuổi. Đó là ngày 8 tháng Giêng năm Mậu Thìn (968).
 
Vì có nhiều ân huệ với dân từ khi còn giữ chức Chỉ huy sứ, nên sau khi mất, suốt một vùng thuộc quyền Đỗ Cảnh Thạc cai quản, không nơi nào người dân không lập đền thờ ông…
 
Đến đây, lịch sử mở ra một thời kỳ mới. Chính quyền về tay nhà Đinh. Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, tự xưng là Vạn Thắng Vương, đặt tên nước là Đại Cồ Việt (nước Việt to cồ) bao gồm những vùng đất đã thu phục được và đặt dưới sự thống thuộc của mình…
 
 

TRẬN CHIẾN CHƯA NGƯNG: ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH VÀ KIM VÂN KIỀU TRUYỆN # 4 - Nguyên Lạc

 


ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH THEO THỜI GIAN
 
Sau đây là phần tổng hợp các điều chúng tôi đã bàn trong các bài viết trước về nguồn gốc của tiểu thuyết Kim Vân Kiề̀u Truyện để chuẩn bị cho các bài sau bàn rõ về Kim Vân Kiều Lục, áng văn chương hàn lâm giải thích thơ truyện Kiều và so sánh nó với Kim Vân Kiều Truyện Thanh Tâm Tài Nhân, quyển tiểu thuyết thương mại tầm thường phá hỏng giá trị Truyện Kiều.
 

TRƯA, QUA MIỀN HƯ ẢNH, MƯA GẦN SÁNG – Thơ Tịnh Bình

 
  


TRƯA...
 
Phố phường khoác áo ban trưa
Tiếng chim dậy muộn ngỡ vừa ban mai
Gió hờ thả chiếc lá bay
Tìm cơn mưa cũ ướt vai buổi về
 
Trưa dài hun hút lê thê
Ngồi im quán vắng bộn bề nghĩ suy
Biết là vọng tưởng đôi khi
Lao xao câu chữ đuổi đi chẳng đành...
 
 
QUA MIỀN HƯ ẢNH
 
Tiếng sóng một ngàn năm trước
Vẫn là âm của ngàn sau
Ta gọi ta lời đá núi
Hư không vọng một âm cười
 
Lao xao đôi lời đá cuội
Thế nhân ấm lạnh mặc tình
Vô tâm nhạn đâu lưu bóng
Hồ trong trăng cứ long lanh
 
Thản nhiên sông hòa lòng biển
Ngậm ngùi chi nước chia phôi
Gió lùa qua miền hư ảnh
Cánh mây lưu lãng sa mù...
 
 
MƯA GẦN SÁNG
 
Trăng sao đi mất hút rồi...
Cơn mưa gần sáng
đơn côi
giữa trời
 
Phố phường im lặng chơi vơi
Đèn vàng
hứng giọt mưa rơi
ướt nhòa
 
Cụ già vé số co ro
Mái hiên nép vội
tràng ho
thay lời
 
Bao giờ ngừng giọt mưa ơi
Người trong chăn ấm
thương người
mưu sinh
 
Vội vàng mở một bình minh
Mưa gần sáng
có thình lình
ngừng rơi...?!
 
TỊNH BÌNH
(Tây Ninh)

Thứ Hai, 28 tháng 12, 2020

SỰ TRỞ LẠI CỦA SAO TRÊN RỪNG NGUYỄN ĐỨC SƠN – Thích Không Hạnh

Nguồn:
https://thuvienhuequang.vn/blogs/bai-viet/su-tro-lai-cua-sao-tren-rung-nguyen-duc-son


Tập thơ “Chút lời mênh mông”, tập thơ cuối cùng của thi sĩ Nguyễn Đức Sơn, vừa ấn hành đầu năm 2020

 
Tập thơ “Chút lời mênh mông” này là công sức góp nhặt trân quý của nhà thư pháp Hồ Công Khanh và những người con của nhà thơ Nguyễn Đức Sơn, đặc biệt là anh Nguyễn Đức Yên, tập hợp những bài thơ chưa từng được in trong các tập thơ của tác giả. Đây là lần trở lại chính thức đầu tiên của Nguyễn Đức Sơn sau gần 50 năm tuyệt tích. Lần hội ngộ này, không phải là luồng sáng nhuần nhụy mà là những ngôi sao, những mảng màu chắp vá do tính chất tập hợp dàn trải ở nhiều nơi và nhiều khung thời gian sáng tác. Nhưng ánh dư quang phát ra từ một thiên thể ánh sáng cũng đủ làm hài lòng những người tò mò và cũng thể hiện được phẩm chất của tinh thể ánh sáng, nơi mà nó phát xuất.
 

CÁCH NHẬN BIẾT BAN THỜ TỨ PHỦ CÔNG ĐỒNG – Đặng Xuân Xuyến

 


(Trích từ VÀO CHÙA LỄ PHẬT NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT,
Đặng Xuân Xuyến; Văn Hóa Thông Tin; 2006)
 
 
Trong dân gian Việt Nam thờ phổ biến nhất là "Tứ phủ công đồng" (chư linh của bốn miền trụ: Trời, Rừng, Nước, Đất), với trung tâm là "Tam Tòa Thánh Mẫu".
 
Mẫu là quyền năng sáng tạo vũ trụ duy nhất nhưng lại hoá thân thành tam vị, tứ vị Thánh Mẫu cai quản các miền khác nhau của vũ trụ: Mẫu Thiên, Mẫu Địa, Mẫu Thoải và Mẫu Thượng Ngàn. Tam tòa là bộ tượng các Thánh Mẫu trong các đền thuộc tín ngưỡng Tứ Phủ và thường được đặt ở nơi thâm nghiêm, sâu nhất (hậu cung có cửa ngăn).
Các Mẫu trở thành một hợp thể thần linh hỗ trợ cho cuộc sống đời thường.
 

Chủ Nhật, 27 tháng 12, 2020

TÌM LẠI LỐI XƯA QUẢNG TRỊ – Thơ Lê Cầm

 


TÌM LẠI LỐI XƯA QUẢNG TRỊ
 
Đưa em về lại lối xưa
Qua Trần Hưng Đạo trời mưa giọt buồn
Nhớ chiều đọc sách Tùng Sơn
Ghé nhà máy điện giận hờn vu vơ
Tìm Lương Giang đọc văn, thơ
Em bảo tôi đứng đợi chờ chợ hôm
Có lần tìm sách Hán Nôm
Vô tiệm Văn Hóa lom khom cả chiều
Qua Trưng Trắc kiếm nồi niêu
Em mua cho mạ mấy liều thuốc tây
Nhớ ngày hè nắng phượng bay
Em kẹp sách vở loay hoay Góc Bầu
Duy Tân, Cửa Tả đậm sâu
Quang Trung, Cửa Hậu một bầu trời xanh
Em qua đường ngõ thị thành
Phan Bội Châu với Chu Trinh, Đình Phùng
Xi nê Đại Chúng tương phùng
Hai ta chung mái Nguyễn Hoàng tuổi xuân
Phan Thanh Giản, Trần Cao Vân
Gia Long, Lê Huấn gót chân em về
Nhớ ngày đông lạnh lê thê
Đường Lê Văn Duyện gió về quạnh hiu
Hồ Đắc Hanh mưa tiêu điều
Em đội nón lá yêu kiều Hạnh Hoa
Tôi từ Lê Thái Tổ ra
Em đòi đưa tới Cầu Ga tự tình
Dòng Thạch Hãn nước trong xinh
Đường Nguyễn Thái Học lung linh ánh đèn
Nhớ ngày em mặc áo len
Cũng là lần cuối màu đen nhuộm hồn
 
                                               Lê Cầm
 

NGƯỜI EM XỨ QUẢNG – Thơ Vĩnh Hoàng

 
    
                     Nhà thơ Vĩnh Hoàng


NGƯỜI EM XỨ QUẢNG
 
Em tôi, em tôi người em núi Ấn, sông Trà
Em tôi hay buồn hiền dịu, nết na
Vì chiến tranh tôi còn đi, đi mãi
Đã mấy thu rồi đành phải cách xa
 
Em tôi người em nơi xứ Quảng
Má em hồng không son phấn điểm trang
Ngày tôi đi em nghẹn ngào khẽ nói
Linh hồn này xin gởi trọn theo anh
 
Mắt em còn xanh
Môi em còn thắm
Chinh chiến còn dài
Đâu dám hẹn ngày mai
 
Lỡ ước vọng không thành, tôi không trở lại
Thương cho nàng, uổng một kiếp hồng nhan
Em của tôi, một cô gái Việt Nam
Sống dạt dào tình cảm 
 
Biết thương giống da vàng
Em không đua đòi mơ ước cao sang
Nên em chọn người yêu em là lính
Gặp quê hương chinh chiến
 
Làm lính còn phải đi
Tình đành xin gác lại
Tôi còn đi, đi mãi
Nàng hứa đợi… tôi về.
 
              Vĩnh Hoàng
                   1970

Thứ Bảy, 26 tháng 12, 2020

THÁNG MƯỜI HAI – Thơ Lê Phước Sinh


  
                                 Nhà thơ Lê Phước Sinh


THÁNG MƯỜI HAI
 
Năm rót cạn, cận kề ngày cuối
Nhà Vườn chen, săn đón nụ  đầu Hoa
Lành lạnh trời, man mác Khách phương xa
Người xuôi ngược xôn xao chờ vị Tết...
 
                                     Lê Phước Sinh

THƯƠNG TIẾC LAM PHƯƠNG - Đỗ Chiêu Đức cùng quý thi hữu

 
   


THƯƠNG TIẾC LAM PHƯƠNG
 
"Thành Phố Buồn" sao cũng đổi ngôi,
"Lam Phương" nhạc sĩ đã xa xôi ...
"Chuyến Đò Vĩ Tuyến" còn vang vọng,
"Nắng Đẹp Miền Nam" mãi rạng ngời.
"Duyên Kiếp" dáng ai tìm vạn nẽo,
"Đèn Khuya" bóng mẹ nhớ không nguôi.
"Đoàn Người Lữ Thứ" đà đi khuất...
"Tình Vẫn Chưa Yên" đã mất rồi !!!...
 
                                Đỗ Chiêu Đức
                                  23-12-2020
 
 
THƯƠNG TIẾC LAM PHƯƠNG
 
Ánh Sao chợt tắt đã lìa Ngôi...
Nhạc sĩ LAM PHƯƠNG tạ thế rồi...!
"DUYÊN KIẾP" thời danh ca cảm động
"ĐÈN KHUYA" nổi tiếng hát cao ngời
"CHUYẾN ĐỎ VĨ TUYẾN" buồn chia cắt
"NẮNG ĐẸP MIỀN NAM" nhớ chẳng vơi
Thương tiếc... tâm nhang dâng khấn nguyện
Phân Ưu tang quyến tiễn đưa Người...!
 
                                           Mai Xuân Thanh
                                                24/12/2020
 
 
THƯƠNG TIẾC LAM PHƯƠNG
 
Ánh sao ca nhạc mất đi rồi !
Thương tiếc Lam Phương mãi chẳng nguôi
''Mưa  Lệ'' ''Ngày Buồn'' ''Duyên Kiếp'' tận
''Đèn Khuya'' ''Phút Cuối'' vẫn cao ngời
''Chuyến Đò Vĩ Tuyến'' sầu ly cách
''Thành Phố Buồn'' đau khóc xa xôi
''Trăm Nhớ Ngàn Thương" người đã khuất
Hào quang nhạc sĩ đã yên ngôi!
 
                                    Nhã My kính điếu 

 

Thứ Sáu, 25 tháng 12, 2020

TÔI MỘNG NGÀY XUÂN – Thơ Phan Quỳ

  

                                                                                   Nhà thơ Phan Quỳ


TÔI MỘNG NGÀY XUÂN
 
Mưa gieo ngàn hạt, mưa mưa rụng
Lá đổ muôn chiều, lá lá rơi
Mây nước trăm phương, sầu vạn nẻo,
Dặm trường thiên lý, mấy xa xôi.
 
Một nụ tầm xuân cành chưa thắm
Dăm cánh mai vàng, đông chửa tan.
Ai đem băng tuyết về hôm ấy,
Ai lấy tình tôi nhuốm bẽ bàng?
 
Tôi mộng ngày xuân, mộng ngày xuân,
Khi mai vàng ấm một góc sân
Khi trăng huyền ảo rơi trên lối
Khi bóng mây xa bỗng lại gần.
 
Tôi ước tình tôi thuở sáng trong
Đẹp như áo trắng với mây hồng
Đường về hoa cỏ cùng e ấp
Tôi bước chân vui, rộn rã lòng.
 
Tôi thấy tôi về giữa hư không
Tay buồn thôi níu một mùa xuân
Thôi, đông ở lại, đông ở lại
Tôi đã mất tôi giữa đường trần.
 
                                Phan Quỳ

MỘT THUỞ TÌNH BUỒN – Thơ Nguyên Lạc

 
   
                            Nhà thơ Nguyên Lạc


MỘT THUỞ TÌNH BUỒN

 
1. QUỲNH Y CÙNG SỰ ĐỢI CHỜ
     (Người vũ nữ tên M.)
 
Đêm buồn rót nhạc buông mi
Riêng người. một mảnh quỳnh y đợi chờ!
*
Đèn màu. khói thuốc. rượu cay
Quỳnh y trắng màu thủy chung
Riêng người đêm nay
Người đâu? Em đợi mong!
 
Nhạc bập bùng. Tiếng ca vang
Rượu ly tràn
Môi mềm. Miệng cười. Lòng xốn xang
Đâu hình bóng thân quen?
 
Đêm mắt sâu!
Quỳnh chờ nở trọn cánh đêm
chỉ người riêng
Người đâu? Sao chưa đến?
Quay quắt khúc buồn
"Lan Huệ sầu ai Lan Huệ héo
Lan Huệ sầu đời trong héo ngoài tươi" [*]
 
Đêm sắp tàn!
Nhạc trầm mi khép.
Não nùng "Lệ đá xanh" [**]
thương khúc mênh mang!
 
Thê thiết Trumpet âm khàn
"Năm năm rồi không gặp"
Tình rồi đã li tan
"Nghìn trùng xa cách
Ngày chia tay
lặng lẽ mưa rơi
Một tiếng thương ôi
gửi đến cho người" [*]
Từng khúc não nề
Nhịp bước lê thê
Vòng ôm hững hờ
Đâu ấm nồng đôi tay thân quen?
Đâu ngọt ngào tiếng thủ thỉ bên tai?
 
Mắt trông vời hướng cửa... Không ai!
Buồn thê thiết buồn!
Người ơi có hay?
 
Đêm tàn!
Sao người không đến?
Dạ vũ tan
Nhòe điểm trang
Thôi người lỗi hẹn!
Quỳnh y nát nhàu!
 
Đêm đã tàn!
Ngày sắp sang!
Đường về sao thăm thẳm ngút ngàn?
Rã rời lê nhịp chân vang
 
Sương rơi lạnh mang mang!
Về đâu?
Đưa đón còn đâu?
Thôi người đi rồi!
 
Người đã đi rồi!
Còn lại đây
Niềm cô độc
nỗi tan hoang!
 
Phương đó quan san
Người ơi có biết ngày tháng phai tàn!
Quỳnh y riêng giữ
Trắng màu thủy chung
 
.........
 
[*] Lời nhạc Phạm Duy
[**] Lệ đá xanh: Thơ Thanh Tâm Tuyền, nhạc Cung Tiến
 
 
2. THÁNG BA NĂM ĐÓ
    (Người lính tên N.)
 
Tháng ba người nhớ hay không?
“Tháng ba gãy súng” não nùng đời nhau [*]
*
Tháng ba lại tháng ba nào
Tháng ba năm đó làm sao quên người?
Tháng ba vỡ mộng tình đôi
Tháng ba buồn lắm tình tôi nghìn trùng!
 
Tháng ba say khướt bạn chung
Tràn ly tiễn biệt "anh hùng" quan san
Sớm mai vội vã lên đàng
Quên lời hẹn ước xốn xang nỗi lòng !
 
Mười năm Từ Thức về trần
Thấy đời hụt hẫng đoạn trường bể dâu
Tìm người tôi biết tìm đâu?
Tìm trong nỗi nhớ những câu nhạc tình
“Chanh đường uống ngọt môi trinh” [**]
Phố xưa góc cũ …
U minh cuộc đời!
 
Thôi tôi mất dấu em rồi!
Tháng ba năm đó tàn đời thanh xuân!
Chiều nay nâng chén Hồ Trường
Hồn người năm cũ nỗi lòng tháng ba
 
Tháng ba thời đó đã xa
Xa rồi. xa lắm… sao ta đắng lòng?
Tháng ba còn nhớ hay không?
Tháng ba. đừng nhớ!
Dặn lòng… Lại quên!
 
Tháng ba nâng chén mình ên
Hồn người lính cũ buồn tênh cuộc tình
Tháng ba nghiêng chén nhân sinh
Mời
em
chiến hữu…
Yên bình viễn phương!
 
Vô thường. đời đó vô thường
Thôi thì đây rượu... thay hương khóc người!
 
….......
 
[*] Tên sách “Tháng Ba Gãy Súng” – hồi ký Cao Xuân Huy: Ghi lại cuộc “di tản chiến thuật” của các người lính Thủy Quân Lục Chiến (VNCH) tháng 3, 1975 tại cửa biển Thuận An  – Quảng Trị. Ngoài một số bị giết, đa số các TQLC còn lại bị bắt làm tù binh, rồi đi”"cải tạo”.
 
                                                                                  Nguyên Lạc