Nguồn:
http://thuanmychanh.blogspot.com/2012/06/nguyen-uc-son-chan-dung-va-huyen-thoai.html
Nguyễn Ðức Sơn là một khuôn mặt thi sĩ lớn của văn
chương Việt Nam. Một phong cách văn chương riêng, một mình một chiếu, thơ và
văn bộc lộ một tâm thái suy tư khác thường đi ngược lại dòng sống thay vì xuôi
chảy.
Ông là người làm thơ mà cuộc sống văn chương và đời
thường đã tạo thành nhiều huyền thoại. Những chuyện kể về, những giai thoại nói
đến, một chân dung tác giả khác thường được tạo dựng và người đọc, không phải
chỉ ở những lớp sau mà ngay ở lớp cùng thời, đã có những nhận định sai lạc về
chân dung thực con người thực. Ðó là không kể, như ở trong nước, vì lý do lợi
nhuận đã có những cuốn sách khai thác quá độ đời tư để đến thành những khoảng
cách thật xa với thực tế.
Bao nhiêu quyển sách, bao nhiêu bài báo đã nói về Bùi
Giáng, về Trịnh Công Sơn, về Nguyễn Ðức Sơn…. Và đã có bao nhiêu ngộ nhận xảy
ra vì những chi tiết trái ngược nhau từ bài viết này với cuốn sách khác của một
chân dung tác giả. Ðộc giả, có lẽ phải có sự cẩn thận khi tiếp cận với những vấn
đề đó.
Thí dụ, như trường hợp nhà thơ Nguyễn Ðức Sơn. Có rất
nhiều bài viết về ông, của những người quen thân có, quen sơ có và nhiều khi
không quen cũng tự nhận là quen có. Trong đời thường, Nguyễn Ðức Sơn có nhiều
bi kịch. Và nhiều bài viết khai thác những bi kịch ấy. Thí dụ như “Người đàn bà trên đồi cỏ” của Ðào Hiếu
đăng trên báo Xuân Doanh Nhân Sài Gòn cuối năm 2008.
Ðào Hiếu viết về mối tình của Nguyễn Ðức Sơn và Phượng
đầy thiên kiến và hình như bày tỏ một nhận xét nào không thiện cảm. Và lạ lùng
cũng đều nhắc đến Trịnh Công Sơn:
“Nhưng
tôi biết nàng rất đẹp.
Trịnh Công Sơn cũng biết nàng rất đẹp.
Nguyễn Ðức Sơn thì chửi bới nguyền rủa mọi thứ. Tôi nói: ‘Tôi đến đây để tìm một Nguyễn Ðức Sơn vĩ đại nhưng tôi chỉ gặp một Phượng vĩ đại. Nếu không có người đàn bà này, ông đã chết rồi Sơn ạ!…’
…Năm
1972, Nguyễn Ðức Sơn trốn lính về tá túc ở Bình Dương dạy Anh văn tại một tư thục.
Nếu không gặp Phượng hắn sẽ chẳng có tác phẩm nào ra hồn. Phượng rọi hào quang
của nàng vào cái đầu mê gái tơi bời của hắn và hắn được cô ‘độ’ cho thành… thi
sĩ. Tác phẩm ‘Ðêm nguyệt Ðộng’ ra đời từ dòng nước cam lồ róc rách tuôn ra từ
nhục thể của ‘thánh cô Annie Phượng’
…Nhưng
những vần thơ mê gái thượng thừa ấy cũng không lay động được Annie Phượng.
Chàng khóc lóc rên xiết quỳ lạy… cũng chẳng ăn thua bèn dùng khổ nhục kế. Nếu
như ngày nay thì chàng thi sĩ sẽ quấn chất nổ quanh mình rồi lao vào ‘đánh bom
tự sát’. Nhưng Nguyễn Ðức Sơn thời đó đã
trèo lên thành giếng và kêu lên và kêu lên ‘Bớ Chúc Anh Ðài! Ta chết đây’ làm
Phượng hoảng hốt. Cuộc hôn nhân bắt đầu như vậy… Cuộc sống của gia đình Nguyễn Ðức Sơn ở Phương
Bối Am cũ là một thảm kịch. Sống như những sơn nhân, thiếu thốn tiện nghi đời sống
và luôn luôn bị cái đói đe dọa. Một bữa cả gia đình gồm hai vợ chồng và 3 đứa
con bị trúng độc vì ăn rau rừng và một đứa con bị chết. Bà mẹ phải lấy áo rách
của mình ra vá để khâm liệm cho con.
Một
lần khác khi chữa cháy rừng Phượng bị phỏng nặng. Nguyễn Ðức Sơn và người con
trai lớn Nguyễn Ðức Vân phải băng rừng cáng ra nhà thương tỉnh cứu cấp với bệnh
tình rất trầm trọng.”
Ðào Hiếu kể:
“Ba
hôm sau Trịnh Công Sơn từ Sài Gòn lên ghé bệnh viện Bảo Lộc.
‘Sơn Núi’ hỏi ‘mày lên đây làm gì?’
Sơn
Nhạc Sĩ đáp: ‘Thăm Phượng. Sao nỡ hành hạ người ta đến vậy?’.
‘Sơn Núi’ bỏ đi. Trịnh Công Sơn ở lại với các con của Phượng. Có lẽ hôm đó là một ngày của năm 1982. Tôi không biết và các con của Phượng cũng không biết chính xác là ngày nào và tháng nào. Trịnh Công Sơn đã tặng cho gia đình Nguyễn Ðức Sơn 60 triệu đồng. Thời điểm đó số tiền ấy rất lớn. Nó đã cứu Phượng và giành giật Phượng khỏi tay tử thần.”
Một nhà văn cũng quen thân với Nguyễn Ðức Sơn là Nguyễn
Ðạt nhận xét về bài viết của Ðào Hiếu:
“Và
bài báo của Hà Danh (tức Ðào Hiếu) lúc tôi đọc ở Sài Gòn thấy có nhiều sự kiện
về Sơn Núi, về Phượng quá lạ lùng quá không đúng sự thật như tôi biết. Nói
chung đọc xong cả bài ‘Người đàn bà trên đồi cỏ’ tôi muốn đề nghị tác giả nên
chuyển thể thành một vở tuồng cải lương và Hà Danh rất có khả năng trở thành một
soạn giả cải lương ăn khách nhưng khác hẳn với những sọan giả tuồng cải lương
như Viễn Châu. Tôi chưa thấy Viễn Châu dựng khống một sự kiện liên quan trực tiếp
tới nhân vật vụ việc nào có thật ở ngoài đời. Nên khi tôi vừa lấy tờ báo ra Sơn
Núi liền nói: ‘đ.m. cái lão đào hang càng đào sâu càng tối đặc!’. Tôi không hiểu
gì hết. Hóa ra, Sơn Núi gọi nhà văn Ðào Hiếu là đào hang và Sơn Núi nói Hà Danh
là bút hiệu khác của Ðào Hiếu. Tôi rất ngạc nhiên khi biết vậy và khá buồn bởi
tôi quen biết nhà văn Ðào Hiếu và mến ông. Tôi thấy Ðào Hiếu là một người rất
văn nhã lần gặp gần nhất tại một quán cà phê trên đường Trần Quốc Thảo tôi nhận
lời viết về Nguyễn Ðức Sơn cho trang web của ông, hình như tên là ‘Lề bên trái’.
Sau đó tôi được nhiều người bạn cho biết những gì Ðào Hiếu viết không bảo đảm
trung thực nên tôi không thể viết bài về Nguyễn Ðức Sơn cho báo mạng của nhà
văn Ðào Hiếu được dù đã nhận lời.
Sơn
Núi nói: ‘không thể hiểu lão đào hang ở chỗ nào ra cái vụ việc ‘nhạc sĩ hàng đầu
về đầu hàng’ họ Trịnh cho tôi sáu chục triệu đồng nhờ đó Phượng thoát chết.’
Phượng, Nguyễn Ðức Lão con trai út anh của hai cô em sinh ra sau chót năm nay
27 tuổi, và Tiểu Khê con gái út của Sơn núi cũng không hiểu người viết bài về họ
lấy ở đâu ra vụ việc Trịnh Công Sơn tặng Nguyễn Ðức Sơn sáu chục triệu đồng vào
cái năm một chín tám mấy đó số tiền ấy rất lớn. Phượng nói: ‘Trịnh Công Sơn ghé
lên đây hai lần trong một chuyến đi chơi ở Ðà Lạt. Lúc lên tặng một thùng mì
chay ăn liền lúc về tặng một thùng ‘légume’Ðà Lạt, vậy thôi, chớ làm gì co vụ
việc sáu chục triệu đồng.’ Sơn Núi xác định thêm: ‘Ông không tin cứ hỏi Bửu Ý,
người rất sùng mộ Trịnh Công Sơn và rất không ưa tôi, coi Bửu Ý nói sao về vụ
việc Trịnh Công Sơn cứu tử hoàn sanh bà xã tôi với số tiền sáu chục triệu đồng’.
Ngay sau khi đọc bài báo tôi hỏi họa sĩ Trịnh Cung bạn thân của Trịnh Công Sơn
có biết vụ việc nhạc sĩ họ Trịnh tặng Sơn Núi 60 triệu? Trịnh Cung bảo không biết
vụ đó. Thế thì tôi cực kỳ ngạc nhiên không thể hiểu nhà văn Ðào Hiếu lấy ở đâu
ra cái tin động trời đất đó. Trong bài ký tên Hà Danh ông viết đại ý rằng ông
không nhớ rõ, những người con của Phượng cũng không nhớ rõ ngày tháng nào nhưng
là những năm của thập niên 1980 và 60 triệu đồng cũa Trịnh Công Sơn tặng thời
gian đó là lớn lắm. Tôi hỏi Sơn Núi – Ðào Hiếu ‘phịa” chuyện ấy thì quá sức bậy,
người trong vụ việc có thể thưa kiện ở tòa án không hiểu sao Ðào Hiếu lại phịa
như vậy nhỉ? Sơn Núi nói ngay ‘Thì lão muốn gia nhập ‘fan club’ của Trịnh Công
Sơn mà ông không thấy một loạt bài đánh bóng Trịnh Công Sơn trong tờ báo này hả?
Này lão đào hang viết ‘Tôi thấy Phượng đẹp / Trịnh Công Sơn cũng thấy Phượng đẹp.
Phải lôi lão ‘nhạc sĩ hàng đầu về đầu hàng’ cùng khen Phượng đẹp thì Phượng mới
đúng là đẹp’.
Tôi
không biết nhà văn Ðào Hiếu gặp Phượng từ năm nào, chứ từ vài chục năm nay, Phượng
quá hom hem gầy guộc. Tôi xót xa khi thấy Phượng ‘lai’, là lai người dân tộc
Tây nguyên ở vùng sâu vùng xa chứ không được như người dân tộc ở thị xã B’lao
này. Bài báo ‘Người đàn bà trên cỏ’, câu chuyện tào lao trá ngụy, Sơn Núi và
tôi thà nói chuyện bậy bạ thô tục còn hay hơn sáu chục triệu lần...”
Một thực tế văn học là nhiều khi những huyền thoại văn
chương lại phát nguồn từ những bài viết khơi khơi như thế. Ở trong nước với người
đọc của dân số hơn 80 triệu một thị trường béo bở thì việc để câu khách lôi kéo
độc giả cho mục đích bán sách bán báo, đã có bao nhiêu bài viết về Trịnh Công
Sơn, về Bùi Giáng, về Phạm Công Thiện, về Nguyễn Ðức Sơn… tràn lan như một mốt
thời thượng. Thành ra, con người nghệ sĩ của văn chương nhiều khi bị nhòa nhạt
đi vì những bài viết kiểu của ông “lạc đường”
Ðào Hiếu này.
Nguyễn Ðức Sơn, một nghệ sĩ quái dị. Một trong những
nhà thơ tiêu biểu của hai mươi năm văn học miền nam. Một trong những nhà văn
luôn đi tìm trong cuộc sống những câu trả lời không thể trả lời. Một trong những
người không thể thỏa hiệp với cuộc đời và đi ngược dòng sống với thái độ hung
hăng gây gổ. Một trong những người sống trong những bi kịch của loài người. Một
trong những người sống phân hai giữa đời thơ và đời thường, giữa tu tập và
buông thả, giữa dục tính và lãng mạn. Thế giới của Nguyễn Ðức Sơn là một thế giới
kỳ quặc mà con người phân chia thành nửa này nửa kia luôn luôn chống đối nhau
và không bao giờ thỏa hiệp với nhau.
Nguyễn Miên Thảo đã viết về mẫu người thi sĩ đặc biệt
này:
“Nguyễn Ðức Sơn là một người đầy cá tính mà nếu không hiểu thì tưởng là khó tính. Tính cách của ông khác người luôn luôn mâu thuẫn với chính mình. Tôi nghĩ sự “va chạm” nội tại đã đưa ông tới đỉnh điểm của sáng tạo trong tác phẩm của ông. Tâm địa của ông thì rộng bao la nhưng hay… thù vặt, rất mê chủ nghĩa Cộng sản nhưng không ưa “cách mạng” sẵn sàng chửi cả những người khen ngợi ông dù người khen rất thật tình và có nhân cách nhưng trong bụng nguyễn Ðức Sơn thì sướng rơn. Tôi ví dụ một câu chuyện nhỏ. Sau khi tập thơ Những Bài Tình Ðầu ra đời, nhà văn Tam Ích, một nhà văn đứng đắn và nổi tiếng thời đó viết một bài phê bình khen thơ Nguyễn Ðức Sơn hết lời. Nguyễn Ðức Sơn viết một bức thư ngắn nhờ tôi đem về Sài Gòn trao tận tay nhà văn Tam Ích. Nội dung lá thư không phải là lời cám ơn mà vỏn vẹn một dòng chữ như sau: “Bởi vì ông là nhà văn đứng đắn nên tôi không biết chửi ông như thế nào.” Nhà văn Tam Ích nhận thư không giận lại viết thêm một bài ca ngợi Nguyễn Ðức Sơn là thiên tài mặc dầu không nói ra nhưng tôi biết Nguyễn Ðức Sơn sướng trong bụng lắm. Sướng không phải được khen mà vì có cơ hội để chửi người khác…”
Và chuyện kể về mối tình của chàng thi sĩ dị thường kỳ
quặc:
“Cuộc tình của Nguyễn Ðức Sơn và cô học trò Nguyễn Thị Phượng chín mùi khi nào thì quả tình tôi không hay biết. Một hôm vào khoảng giữa năm 1967-1968 gì đó tôi không nhớ đích xác Nguyễn Ðức Sơn nhờ tôi lên báo với thầy Thanh Tuệ in gấp tập thơ Ðêm Nguyệt Ðộng để kịp ngày đám cưới. Và khoảng mười ngày sau đám cưới Nguyễn Ðức Sơn- Nguyễn Thị Phượng dược tổ chức tại chùa Tây Tạng Thủ Dầu Một Bình Dương.
Từ
sáng sớm một chiếc xe con 4 chỗ ngồi đỗ trước nhà Nguyễn Ðức Sơn, Sơn trong bộ
com-lê màu sẫm sang trọng đầu húi cua đã chờ sẵn đón những người trên xe bước
xuống đó là Ðại Ðức Thích Thanh Tuệ, chủ nhà xuất bản An Tiêm, giáo sư nhà văn
Bửu Ý và Ðại Ðức Thích Nguyên Tánh tức nhà thơ Phạm Công Thiện, Khoa trưởng Văn
Khoa Ðại Học Vạn Hạnh. Khi biết tập thơ Ðêm Nguyệt Ðộng không in kịp Nguyễn Ðức
Sơn chào đón đoàn nhà trai một câu chửi “Ð.m. thầy thầy có biết ngày hôm nay là
ngày trọng đại của tôi không?” Thầy Thanh Tuệ cười trừ còn mọi người thì đã biết
Nguyễn Ðức Sơn là ai rồi.
Ðám
cưới cử hành tại đại điện chùa Tây Tạng. Thượng tọa Thích Trí Bổn trụ trì chùa,
cậu ruột của cô dâu Nguyễn Thị Phượng đại diện nhà gái vừa là chủ hôn (Phượng mồ
côi cha mẹ về ở với cậu từ nhỏ). Ðại Ðức Thích Thanh Tuệ đại diện nhà trai, Ðại
Ðức Thích Nguyên Tánh (tức nhà thơ Phạm Công Thiện) và nhà văn Bửu Ý phụ rể.
Trong khi niệm hương lễ Phật, Thượng tọa Thích Trí Bổn và Ðại đức Thích Thanh
Tuệ quì phía trước, Sơn và Phượng quì phía sau. Sơn dùng miệng mum hết chân
nhang khi cắm nhang vào lư ba cây nhang của Sơn lùn tịt không giống ai. Khi qua
làm lễ cáo tổ tiên Sơn láy mắt với tôi, tôi nghĩ Sơn bày trò gì đây nhưng không
nghĩ ra. Bàn dọn cỗ là loại bàn tròn bằng gỗ mạt bàn rời đặt trên cái giá bốn
chân hình chữ X, Sơn và Phượng quì trước bàn cáo tổ tiên lậy bốn lạy Sơn lạy
thêm một lạy trồi người tới trước khi đứng dậy đầu dội vào cạnh bàn cỗ bàn bị lật
đổ không còn một món. Những người dự lễ cưới không ai không cười trừ Bửu Ý.
Một
tuần lễ sau đám cưới tôi từ Sài Gòn về Bình Dương thăm vợ chồng Nguyễn Ðức Sơn
vừa bước vào nhà tôi thấy Sơn cầm một con dao dí Phượng vào sát vách. Tôi kêu
lên. Sơn làm gì vậy? Sơn vứt dao choàng vai tôi bước ra ngoài ‘Moa muốn đo sự sợ
hãi của Phượng như thế nào!’…”
Trong bài viết của Thái Ngọc San, một nhà văn nằm vùng
trước năm 1975 khi viết về đời sống gia đình của Nguyễn Ðức Sơn trong truyện ngắn
“Bầy Thú Hoang Dã” đã phác họa những
người trong gia đình không khác lắm so với những thú rừng hoang dã. Gia đình
đông con, vợ thì yếu dại làm sao mà không nghèo khổ cơ cực. Thái Ngọc San nhìn
vào bề mặt đời sống ấy mô tả và có chút phê phán rằng nguyễn Ðức sơn có dã tâm
của loài thú và tự mình tạo ra những bi kịch đời sống cho gia đình mình. Nhận
xét ấy là của người không đi sâu được vào phần trong của cuộc sống ấy.
Nhưng có người viết nhìn bằng con mắt quan sát khác.
Chân dung thi sĩ Nguyễn Ðức Sơn là một chân dung đặc dị, mà những chi tiết thường
khi trái ngược nhau từ những quan sát nhận xét khác nhau. Nhà văn Nguyễn Ðạt một
người có rất nhiều gần gũi với đời thường Nguyễn Ðức Sơn viết:
“Hiển
nhiên qua cách nhìn nhận như Thái Ngọc San ở truyện ngắn này thì chỉ ghi lại
cái bề mặt của cuộc sống Nguyễn Ðức Sơn và mặc nhiên với những trách cứ phê
phán của người quan sát thiếu tâm tình.
Trong
gần gũi Nguyễn Ðức Sơn nhiều ngày tháng chúng tôi hiểu rõ nhà thơ Nguyễn Ðức
Sơn không hề có dã tâm của loài thú để tạo nên đời sống như Thái Ngọc San đã
ghi nhận Ðó là cuộc sống cực chẳng đã phải như vậy mà thôi muốn khác đi cũng
không được. Nguyễn Ðức Sơn không biết làm gì khác để thay đổi cuộc sống như bầy
thú hoang dã, ông lại càng không thể tính toán bon chen giành giựt với nhân thế.
Trên trái đồi rộng bốn năm héc-ta ông không biết và cũng không ưa trồng loại
cây nào cho có lợi nhuận ngoài cây thông mà ông yêu thích. Cũng vì Nguyễn Ðức
Sơn chăm chút nuôi trồng thông từ mấy chục năm nay trái đồi mang tên Phương Bối
ở thôn Ðại Lão xã Lộc Châu bây giờ gần như là nơi duy nhất để ngàn thông còn tồn
tại trên cao nguyên hoang sơ Bảo Lộc…
Sự
thật mà chúng tôi biết Nguyễn Ðức Sơn đầy tình cảm yêu thương con người như mọi
người thiện tâm khác. Lần Phượng bị bệnh thập tử nhất sinh phaỉ giải phẫu tại bệnh
viện Chợ Rẫy, chúng tôi ngồi bên ông ngoài hành lang trước phòng giải phẫu. Ông
rất căng thảng chờ đợi kết quả phẫu thuật. Chợt có tiếng cô y tá kêu lớn tên
ông nước mắt ông tuột ra chảy dài trên khuôn mặt. Ông ngỡ cuộc phẫu thuật thất
bại. Phượng đã chết! Hóa ra không phải cô y tá gọi ông để báo tin lành. Và Nguyễn
Ðức Sơn cẳng nhảy lên như đứa trẻ vui mừng tột độ.
Lần
một đứa con của Nguyễn Ðức Sơn bị bệnh nằm liệt giường chúng tôi cũng có mặt
trên đồi Phương Bối. Ông cuống cuồng chạy xuống đồi hỏi người này người kia để
chữa chạy kịp thời cho con. Có người bày cách cho người bệnh ăn thịt cóc sống.
Ông hét vang như hóa điên vì gặp ngay người bán thịt cóc đi ngang qua. Mang thịt
cóc về cho đứa con ăn ngay chợt ông nhớ cả gia đình vốn ăn chay trường ông vội
thắp nén hương niệm Phật xin xá tội. Ðứa con vừa nuốt miếng thịt cóc lập tức
nôn mửa thốc tháo. Ông lại cuống cuồng lại chạy xuống đồi kêu xe ôm, ôm con ngồi
lên xe đưa vào bệnh viện. Ở bệnh viện lúc đứa con đã an toàn đã đi đứng trở lại
bấy giờ mới để ý ông chỉ mặc quần cụt mà lại thủng rách cả đũng. Nhưng Nguyễn Ðức
Sơn lúc đó vui rộ lên nói lắp bắp những câu hí lộng về cái quần thủng rách…”
Ðời sống của một thi sĩ như Nguyễn Ðức Sơn đầy những
biến cố của bi kịch. Là người ngông cuồng kiêu ngạo không coi ai ra gì và ăn
nói lỗ mãng dung tục hay chửi thề? Là một người nổi loạn vô chính phủ dùng văn
chương để quăng quật vào đời sống những hằn học chất chứa? Là một người không
thừa nhận bất cứ một trật tự nào trên thế giới nhưng lại coi thi ca như một tôn
giáo linh thiêng?
Tuệ Sĩ đã hỏi về khuôn dáng Nguyễn Ðức Sơn:
“Anh
là ai? Là một nhà thơ hiện sinh, nổi loạn, quậy phá? Dưới ngòi bút phê bình anh
không thể khác đi được: hiện sinh, nổi loạn, quậy phá, du côn. Tôi cũng không
nghĩ khác hơn những ảnh tượng và những ấn tượng mà ngòi bút có thể vẽ, có thể
miêu tả. Một gã du côn, một tên phạm thánh. Và còn nhiều từ khác nữa. Nhưng làm
sao có thể biết được, một người không đến với ta từ con đường trước mặt, hay bằng
tiếng gọi từ sau lưng, mà là một cái gì đó, ở đâu đó.. ”
Với tôi, trong cảm quan của riêng mình, tôi thấy khi đọc
thơ hoặc truyện ngắn của Nguyễn Ðức Sơn, tôi mường tượng thấy hình như thế giới
của ông không phải là của mặt đất hiện hữu này. Ông sống như để muốn biểu lộ những
suy nghĩ bị khép kín bị đóng băng. Thành ra ông như một con tê giác (tượng hình
mà nhà văn Bửu Ý gán cho ông) cứ húc vào hư vô như một phản ứng tự nhiên của một
người hình như không còn lý đến căn cước của mình mà vẫn phải sống, vẫn phải
trôi theo dòng đời trong khi muốn ngược lại để bơi vào cái khu vực thâm u của
chính mình nhưng cũng chưa hề hiểu rõ điều gì là huyễn ảo và điều gì là thực tế.
Nguyễn Mạnh Trinh
http://thuanmychanh.blogspot.com/2012/06/nguyen-uc-son-chan-dung-va-huyen-thoai.html
Nguyễn
Đức Sơn - Tranh Đinh Cường
Trịnh Công Sơn cũng biết nàng rất đẹp.
Nguyễn Ðức Sơn thì chửi bới nguyền rủa mọi thứ. Tôi nói: ‘Tôi đến đây để tìm một Nguyễn Ðức Sơn vĩ đại nhưng tôi chỉ gặp một Phượng vĩ đại. Nếu không có người đàn bà này, ông đã chết rồi Sơn ạ!…’
‘Sơn Núi’ hỏi ‘mày lên đây làm gì?’
‘Sơn Núi’ bỏ đi. Trịnh Công Sơn ở lại với các con của Phượng. Có lẽ hôm đó là một ngày của năm 1982. Tôi không biết và các con của Phượng cũng không biết chính xác là ngày nào và tháng nào. Trịnh Công Sơn đã tặng cho gia đình Nguyễn Ðức Sơn 60 triệu đồng. Thời điểm đó số tiền ấy rất lớn. Nó đã cứu Phượng và giành giật Phượng khỏi tay tử thần.”
“Nguyễn Ðức Sơn là một người đầy cá tính mà nếu không hiểu thì tưởng là khó tính. Tính cách của ông khác người luôn luôn mâu thuẫn với chính mình. Tôi nghĩ sự “va chạm” nội tại đã đưa ông tới đỉnh điểm của sáng tạo trong tác phẩm của ông. Tâm địa của ông thì rộng bao la nhưng hay… thù vặt, rất mê chủ nghĩa Cộng sản nhưng không ưa “cách mạng” sẵn sàng chửi cả những người khen ngợi ông dù người khen rất thật tình và có nhân cách nhưng trong bụng nguyễn Ðức Sơn thì sướng rơn. Tôi ví dụ một câu chuyện nhỏ. Sau khi tập thơ Những Bài Tình Ðầu ra đời, nhà văn Tam Ích, một nhà văn đứng đắn và nổi tiếng thời đó viết một bài phê bình khen thơ Nguyễn Ðức Sơn hết lời. Nguyễn Ðức Sơn viết một bức thư ngắn nhờ tôi đem về Sài Gòn trao tận tay nhà văn Tam Ích. Nội dung lá thư không phải là lời cám ơn mà vỏn vẹn một dòng chữ như sau: “Bởi vì ông là nhà văn đứng đắn nên tôi không biết chửi ông như thế nào.” Nhà văn Tam Ích nhận thư không giận lại viết thêm một bài ca ngợi Nguyễn Ðức Sơn là thiên tài mặc dầu không nói ra nhưng tôi biết Nguyễn Ðức Sơn sướng trong bụng lắm. Sướng không phải được khen mà vì có cơ hội để chửi người khác…”
“Cuộc tình của Nguyễn Ðức Sơn và cô học trò Nguyễn Thị Phượng chín mùi khi nào thì quả tình tôi không hay biết. Một hôm vào khoảng giữa năm 1967-1968 gì đó tôi không nhớ đích xác Nguyễn Ðức Sơn nhờ tôi lên báo với thầy Thanh Tuệ in gấp tập thơ Ðêm Nguyệt Ðộng để kịp ngày đám cưới. Và khoảng mười ngày sau đám cưới Nguyễn Ðức Sơn- Nguyễn Thị Phượng dược tổ chức tại chùa Tây Tạng Thủ Dầu Một Bình Dương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét