Tiến sĩ Trần Kiêm Đoàn
NĂM
MỚI 2019 GIỞ LẠI HỒ SƠ CŨ… ĐANG ĐE DỌA TƯƠNG LAI CỦA HÀNG TRIỆU CON EM THẾ HỆ
TRẺ VIỆT NAM
Tại
sao hai ông Nghè bị ném đá
Nước Việt Nam ta tự hào có bốn nghìn năm văn hiến, nhưng mãi
đến thế kỷ thứ 11, đời vua Lý Nhân Tông (1072-1076) mới có thi cử để chọn nhân
tài với khoa thi đầu tiên gọi là Bác Học. Từ đó, khoa cử là con đường vinh hiển
nhất để tiến thân. Bậc học cao nhất là Tiến sĩ. Người thi Đình để chính thức xếp
hạng tiến sĩ được ngồi dưới mái “nghè” thường là văn phòng tứ bảo của Vua nên
được vinh dự gọi là ông Nghè. Ông Nghè được vinh quy bái tổ có quyền chọn năm mẫu
đất bất cứ nơi nào mình thích trong Tổng để làm nhà nên dân gian có câu: “Chưa đỗ ông Nghè đã đe hàng Tổng”!
Việt Nam ta ngày nay có khoảng 120.000 ông bà Nghè (trung
bình 800 người dân mới có một người có học vị tiến sĩ; so với Mỹ trung bình 130
người dân có một tiến sĩ). Nhưng chưa nghe ai sợ bị “đe hàng tổng” mà chỉ nghe tin các ông Nghè bị “ném đá”. Hai ông Nghè bị ném đá gần đây nhất là hai nhà giáo đã
đưa sáng kiến “cải cách tiếng Việt”
đang diễn ra trong nước.
Hai ông Nghè bị ném đá đó là hai vị Giáo sư Tiến sĩ Hồ Ngọc
Đại và Phó giáo sư Phó tiến sĩ Bùi Hiền. Nhị vị nầy có chung niềm… thú vị là
cùng tuổi đời 83, cùng tốt nghiệp đại học Liên Xô trong những năm đầu 1970 và
cùng bỏ ra hơn 40 năm để nghiên cứu và trình làng công trình cải cách tiếng Việt
mà theo sự thâm tín của hai ông là tối tân, khoa học, hợp lý cho sự “chuẩn hóa” tiếng Việt.
Xin lần lượt “vấn an”
hai vị:
Giới thiệu về PGS. Bùi Hiền qua mục bình luận trên Online, một
tác giả khuyết danh đã nhận định:
“PGS
Bùi Hiền tự nhiên nổi tiếng không nhờ ekip nào cả mà chỉ bằng sức mạnh của một
bảng chữ cái tân thời. Mình nói trắng luôn, cái vụ bảng chữ cái là từ xưa đã có
vấn đề. Ngay cả bản thân người Việt chuẩn, ngay cả mình đây này, cũng viết sai
tiếng Việt. Nhưng mình cũng nói thẳng, để sửa được thì căng lắm.
Thứ
nhất, một ngôn ngữ phải thể hiện được: Âm sắc, Ngữ nghĩa, đẹp về mặt hình ảnh.
Nếu làm theo ý kiến của ông Bùi Hiền, thì coi như hủy mất “độ đẹp” và “âm sắc”
của chữ. Mặc dù nó tối ưu hơn hẳn. Tuy nhiên, mình phải nói là việc bạn gọi một
người bằng tuổi ông bạn, với học hàm của một giáo sư bằng ‘thằng’… Muốn nói gì
thì nói, để bỏ công nghiên cứu một công trình ‘Điên’ đi chăng nữa, người ta
cũng vẫn phải làm với cái tâm hết lòng vì khoa học. Nên góp ý, đừng nên miệt thị.”
Riêng về thân thế, công trình, cảm xúc và phản ứng cá nhân,
PGS. Bùi Hiền đã trả lời trong nhiều cuộc phỏng vấn, xin ghi chép tóm lược như
sau:
Chi tiết cuộc phỏng vấn mới nhất, xin mời đọc:
https://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/pgsts-bui-hien-nguoi-than-lo-toi-dot-quy-nhung-toi-co-ao-giap-chong-gach-da-20171228072131505.htm
Sau đây xin lược trích nguyên văn lời phát biểu của chính
PGS. Bùi Hiền:
“Tôi
cũng xin nhấn mạnh, tôi nhắm vào cải tiến chữ viết chứ không phải cách phát âm
của tiếng Việt. Nghĩa là phát âm vẫn giữ nguyên, chỉ là cải tiến cách viết.
Xuất
phát từ chính kinh nghiệm bản thân khi sử dụng tiếng Việt, tôi ngoài viết sách
cũng thường xuyên viết báo gửi đăng. Và không ít lần khổ sở vì lỗi chính tả tiếng
Việt, phân biệt s - x, tr - ch, không tra là mắc lỗi.
Động
lực nghiên cứu của tôi là làm nhẹ công sức người học, người dùng - từ chỗ đó tiết
kiệm và thuận lợi. Tự bản thân tôi thấy công việc có ích, có lợi cho mọi người
thì làm, chứ không ai thuê, ai bắt tôi làm. Tôi càng không được bất kì ai trả một
đồng xu/xin ai một đồng xu nào để làm nghiên cứu. Ai đồng ý thì ủng hộ, ai
không đồng ý thì thôi.
Đúng
là tôi bị “ném đá” không tiếc tay. Tôi có đọc được bình luận của một người bạn
trong giới nghiên cứu là nhà văn Chu Lai. Ông nói rằng không ủng hộ cách cải tiến
ngôn ngữ của tôi nhưng trân trọng tinh thần nghiên cứu và lo rằng, tôi sẽ không
trụ nổi trước những làn sóng dư luận sục sôi. Nhưng tôi không sao hết.
Thậm
chí có kẻ còn nguyền rủa ‘lão già nên chết đi’, tôi đọc chỉ thấy buồn cười.
Người
nhà, bạn bè lo tôi sẽ bị đột quỵ nhưng tôi đã có ‘áo giáp chân lý’. Tôi tin vào
sự đúng đắn, bây giờ người ta chưa hiểu thì có một ngày nào đó sau này họ sẽ hiểu,
mà không hiểu thì cũng thôi.”
Công trình ngữ học 40 năm của PGS. Bùi Hiền xuất hiện có vẻ
mới lạ hay thậm chí là “kỳ quái” hay “điên khùng” đối với nhiều người chưa
quen với lãnh vực ngữ học nói chung và Ngữ học Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên,
nhìn quanh thế giới và nhìn lại trong vùng thì ngôn ngữ và chữ viết cũng là một
sự vay mượn lẫn nhau. Thế giới hiện nay có 197 quốc gia nhưng có tới 7.000 ngôn
ngữ. Nhưng chỉ có khoảng một nửa (3.500) loại ngôn ngữ là có được chữ viết. Tổng
số các quốc gia dùng mẫu tự La-tinh abc để chế tác chữ viết cho ngôn ngữ của
mình giống như Việt Nam chỉ có khoảng 100. Con số 100/3500 quá khiêm tốn nầy đã
nói lên rằng, tuồng chữ dùng theo mẫu tự Latin chẳng phải là tối ưu bởi còn rất
nhiều lỗ hổng cũng như sự khiếm khuyết để phiên âm và chế tác cho một hình thức
văn tự mới trong các quốc gia có cấu trúc ngôn ngữ đơn âm như Việt Nam. Một nước
mà có nhiều vùng ngôn ngữ khác nhau là chuyện thông thường. Nước Việt Nam may mắn
là với dân số đông hàng 15 trong bảng xếp hạng toàn cầu (96.500.000 năm 2018)
nhưng toàn quốc chỉ có một ngôn ngữ và một hệ thống chữ viết thống nhất từ Nam
chí Bắc.
Chữ Quốc Ngữ được phiên âm theo mẫu tự tiếng La tinh được
các nhà truyền giáo Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha chế tác từ thế kỷ 17 vốn
không mang cấu trúc đa âm và có âm ngữ khác thế giới phương Tây. Bởi vậy, hệ lụy
ngôn từ mang tính chất thiếu sót, so le, bất lực, khập khiễng của mẫu tự Latin
được dùng trong vòng 500 năm qua cho một hệ thống ngôn ngữ đã có mấy nghìn năm
của nòi giống Việt là sự dĩ nhiên và điều dễ hiểu.
Tất cả mọi cố gắng cá nhân hay học phái, phong trào muốn cải
đổi tiếng Việt theo quan điểm và phương pháp này kia đều đáng được bình tâm xem
xét vì đây là một khuynh hướng năng động và tự nhiên của tất cả mọi hệ thống
“sinh ngữ” (khác với “tử ngữ” là ngôn ngữ
đã chết, một thời có mặt nhưng hiện tại không còn ai dùng để nói như La tinh, cổ
Hy Lạp, Ai Cập, Sanskrit…). Trong vòng 100 năm qua đã có quá nhiều nhà ngữ
học và học phái tại Việt Nam đã đề ra những nguyên tắc và hình thức chấn chỉnh
ký âm tiếng Việt tương tự như kiểu nhà giáo Bùi Hiền. Nhưng hầu như hết thảy đều
rơi vào im lặng bởi vì chưa hợp lý và không đáp ứng được nhu cầu ngôn ngữ và học
thuật. Tiếc thay, nhân tài ngữ học vắng bóng và viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt
Nam chưa hề có một động thái nào đáng tin cậy trong lãnh vực chuyên môn về học
thuật ngôn ngữ nầy cả. Vì vậy, nếu có chăng những hiện tượng cá nhân múa gậy vườn
hoang là hệ quả tất nhiên của cơ chế quốc gia hữu danh vô thực như cơ quan Hàn
Lâm Ngôn Ngữ Việt Nam thời hiện đại. Việt Nam đang có hơn 120.000 tiến sĩ và mấy
triệu thạc sĩ, cử nhân… tại sao lại để hiện tượng quần chúng “ném đá” vào lãnh vực ngôn ngữ học thuật
mãi kéo dài đến nay còn diễn tiến như thế?!
Công trình tập đại thành hơn 40 năm của PGS. Bùi Hiền về cải cách hệ thống chữ Quốc Ngữ có thể tóm lược như sau:
Công trình tập đại thành hơn 40 năm của PGS. Bùi Hiền về cải cách hệ thống chữ Quốc Ngữ có thể tóm lược như sau:
Nguyên tắc chung của phương pháp Bùi Hiền là mỗi chữ biểu đạt
một âm vị. Mỗi âm vị có một chữ cái tương ứng biểu đạt. Chữ Đ sẽ tạm bị đưa ra
khỏi bảng chữ cái tiếng Việt đang dùng. Một số chữ cái tiếng “Tây” La tinh như F, J, W, Z. sẽ được
đưa vào bảng chữ cái đang có. Đồng thời, 11 chữ cái hiện dùng sẽ thay đổi giá
trị phát âm.
Cụ thể là: Ch, tr = c /chờ/; đ = d /đờ/; ph = f /phờ/; c,k,q
= k /cờ/; nh = nh /nhờ/ (tạm thời); th = q /thờ/; s, x = s /sờ/; ng, ngh = w
/ngờ/; kh = x /khờ/; d, gi, r = z /dờ.
Với âm "nhờ"
/nh/ chưa có kí tự mới thay thế, nên trong văn bản trên tạm thời dùng kí tự
ghép /n'/ để biểu đạt. Hệ thống chữ “Quốc
ngữ Cải tiến” của PGS. Bùi Hiền căn bản dựa trên tiêu chuẩn phát âm của giọng
Bắc Hà Nội, gồm 6 thanh: Không dấu, sắc, huyền, hỏi ngã, nặng. và phụ âm cuối
phân biệt /t/ - /c/; /n/ - /ng/.
Nếu dùng lối chữ mới nầy thì truyện Kiều sẽ bị viết lại như
sau:
"Căm năm cow kõi wười ta,
Cữ tài cữ mệnh xéo là gét nhau.
Cải kua một kuộk bể zâu,
Nhữw diều côw qấy mà dau dớn lòw".
Thay cho:
“Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu.
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.
Cách “chế tác” những phụ âm đầu và phụ âm cuối của tác giả
Bùi Hiền không dựa trên một căn bản âm vị, biến âm nào của phương pháp ngữ học
tổng quát cả. Vì vậy, một sự cải cách theo “ngữ
học kiểu Bùi Hiền” thì vần Quốc Ngữ của tiếng Việt sẽ bị mắc cạn giữa một đống
bùi nhùi không có chỗ thoát.
Thầy giáo Hiền bị ném đá vì đem trấu đổi gạo cho tiếng nói
Việt Nam quả nhiên là không thể phàn nàn oan ức chút nào!
Thật ra, trước ông Bùi Hiền, đã có nhiều sáng kiến và đề án
tương tự.
"Quốc
ngữ mới" của nguyễn Văn Vĩnh năm 1928
Năm 1928 nhà văn, học giả Nguyễn Văn Vĩnh đề xướng kiểu chữ
Quốc Ngữ dùng toàn mẫu tự La Tinh thay cho dấu và ký âm Việt. Ví dụ: Quốc Ngữ Mới
sẽ được viết thành: “Quôcj Ngưw Moeij”.
Nhưng sáng kiến cải cách này không được công luận đương thời ủng hộ. Cũng trong
năm này, Vũ Ngọc Phan và những nhà văn lớp trước muốn cải cách tiếng Việt được
nhiều người biết đến như Nguyễn Trọng Thuật và Trần Trọng Kim. Với cuốn Việt
Văn Tinh Nghĩa xuất bản năm 1928 , Nguyễn Trọng Thuật có nhiều nhận xét về tiếng
Việt thời đó và đồng thời đề nghị một số cải cách nhưng những cải cách của ông
không căn cứ trên những nguyên tác ngữ học khách quan và khoa học mà lại dựa
vào văn phạm Pháp quá nặng nề nên không được ủng hộ và bị lãng quên.
Chữ
và Vần Việt Khoa Học của Nguyễn Bạt Tuỵ năm 1949
Có thể nói Nguyễn Bạt Tuy là một nhà nghiên cứu Ngữ học Việt
Nam sáng giá và có thẩm quyền trong lãnh vực nầy.Năm 1949, ông viết sách Chữ và
Vần Việt Khoa Học. Nội dung cuốn sách nầy là quan điểm ngữ âm học tiếng Việt của
ông. Từ đó ông đề nghị sửa đổi cách viết chữ Việt theo mẫu tự La Tinh mà ông
cho là khoa học và hợp lý nhất. Cách viết của ông nặng về mặt ngữ âm nên bảng
ký hiệu tiếng Việt ông đưa ra rất gần với những ký hiệu phiên âm quốc tế.
Nội dung là trình bày những gì ông tìm tòi được về mặt âm vị
học tiếng Việt, rồi qua đó đưa ra một bản đề nghị sửa đổi cách viết chữ quốc ngữ
mà ông cho rằng hợp lí và khoa học.
Nguyên tắc chung của quan điểm Nguyễn Bạt Tuỵ là dựa trên
nguyên tắc âm vị học để ghi âm tiếng Việt. Ông phân tích hệ thống đơn vị âm
thanh tiếng Việt và các lối tổ hợp âm thanh của nó. Kết quả là tác giả phát hiện
hệ thống các âm vị có nhiều nét khác với những gì xưa nay cứ yên trí là đúng đắn,
nay cần phải sửa lại. Từ đó sẽ phải dẫn đến một một việc chính yếu của sách là
đưa ra một bản đề nghị thay đổi cách viết chữ quốc ngữ theo ông là chính xác
theo nguyên tắc ngữ âm học .
Ví dụ: Bốn câu thơ trong Chinh Phụ Ngâm:
"Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,
Gieo Thái sơn nhẹ tựa hồng mao.
Giã nhà đeo bức chiến bào,
Thét roi cầu Vị ào ào gió thu."
Thì ông Nguyễn Bạt Tụy đề nghị viết thành:
Hình thức chữ Việt nầy không được giới ngữ học và quần chúng
ủng hộ nên chìm vào im lặng.
Và tại hải ngoại, một tác giả nghiên cứu Ngữ học là ông
Dương Đức Nhự cũng đã đưa ra một đề án cải cách tiếng Việt tương đối nhẹ nhàng
hơn ông Bùi Hiền nhưng không nhận được sự ủng hộ của giới văn bút và học thuật
nên cũng sớm rơi vào quên lãng.
Ví dụ: Như tác giả Dương Đức Nhự viết lại truyện Kiều theo
cách của ông như sau:
Trăm năm trong kõj người ta
Cữ tài,cữ mệnh qéw là gét nhaw.
Trải kwa một kuộk bể zâu
Những diềw trông thấj mà daudớn lòng
Lạ jì bỉsắc tưfong ,
Trời xanh kwen thój má hồng dánh gen.
Kảw thơm lần jở trướk dèn
Fongtình kổlụk kòn trwiền sử xanh…
(Tiếng Việt cải cách của Thạc sĩ Dương Đức Nhự)
Vấn đề cải cách tiếng Việt tại miền Nam trước năm 1975 cũng
liên tục được đề ra. Những khuôn mặt chuyên gia ngữ học có thẩm quyền từ trong
nước ra hải ngoại như: Nguyễn Đình Hòa, Lê Văn Lý, Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến
Lê, Nguyễn Hữu Văn, Huỳnh Đình Tế, Gaston Nhan, Nguyễn Ngu Í… đã đề ra những
sáng kiến cải cách tiếng Việt về các mặt ngữ âm, ngữ vị, ngữ pháp v.v… đã gây
ra nhiều thảo luận. Nhưng trong lãnh vực cải cách chữ Quốc Ngữ Việt Nam đã nở rất
nhiều hoa đầy khởi sắc mà chưa thấy kết trái.
Có lẽ gặp điều kiện thiên thời chưa chín tới, PTS. Bùi Hiền
đã “thượng đài” trong thời kỳ biển
sóng của cuộc cách mạng truyền thông đại chúng đang năng nỗ tột độ nên đã có
quá nhiều người “chiếu cố” so với các
tác giả cùng đề tài trước ông. Mong cây “bonsai”
tiếng Việt Bùi Hiền vẫn là cây kiểng bát tuần, tuy có hình thức kỳ dị khó ưa
nhưng vẫn là nguồn tâm huyết chăm chút của người ươm trồng ra nó.
Cánh cổng Bùi Hiền được xem như đã khép lại trong khu vười kỳ
hoa dị thảo Ngôn Ngữ đã hết thời của những trí tuệ phiêu lưu trên những con đường
hiện thực của văn minh, văn hóa Việt Nam.
Xin tiếp tục nói về một hiện tượng nghiêm trọng hơn.
Về
trường hợp Giáo sư Tiến sĩ Hồ Ngọc Đại (viết tắt: TS.HNĐ)
Năm 1977, khi còn dạy ở trường Đồng Khánh Huế, tôi đã có dịp
cùng với anh chị em giáo chức Thừa Thiên Huế dự cuộc thuyết trình của Tiến sĩ Hồ
Ngọc Đại tại giảng đường C. Ngày đó, ông vừa tốt nghiệp “ông Nghè” ở Liên Xô mới về mới toanh ở lứa tuổi trung niên bốn chục,
nhiệt tình còn nóng hổi. Nghe ông đăng đàn đả kích nguyên lý giáo dục của nền
giáo dục Việt Nam đương thời và đề nghị một mô thức dạy học rất cấp tiến và mới
mẻ, “áp dụng những thành tựu khoa học mới
nhất của giáo dục thế giới” khiến tôi quá phục tài ba và nhất là sự can đảm
của ông. Vào một thời điểm mà dân nhà giáo như chúng tôi mở miệng ra là sợ “mắc quai”. Thế mà TS. Đại đã đăng đàn
đòi “xét lại” những nguyên lý giáo dục
thời cách mạng đang tràn ngập tiếng tung hô thì quả là một hiện tượng gan lỳ, bất
chấp, có một không hai. Thế nhưng khi tiếng xì xào rỉ tai nhau: “Con rể của ông Lê Duẩn đó” thì đã có lời
vọng lại: “Cam chi hèn!” (Huế); “Thảo nào!” (Bắc).
Nhưng trên bình diện học thuật, dẫu ông ấy có là phò mã của
TBT Lê Duẩn hay là ai thì tôi – bấy giờ đang ở lứa tuổi 30 – cũng nghiêng mình
khâm phục cái khẩu khí… dàng trời của ông. Giữa buổi giao thời tai vách mạch rừng
hung hiểm, tâm thức phản kháng thì ai cũng có; nhưng chúng tôi còn phải biết sợ,
thương vợ thương con, nên phải chừa cái đầu để đội nón mà sống còn để nuôi vợ đỡ
con nữa chứ!
Sau đó một năm, năm 1978, nghe tin chương trình Giáo Dục
Công Nghệ (GDCN) của TS. Hồ Ngọc Đại đã được “triển khai”! Năm 2000 thì dừng lại và năm 2014 lại… tái xuất giang
hồ. Từ năm 1978 cho đến bây giờ là 40 năm. Tôi đã được đi một vòng khá dài qua
những nẻo đường học thuật để được tiếp cận với thế giới muôn màu các hệ thống
ngữ học của nhiều quốc gia. Từ đó, tôi được thấy rõ hơn những sở trường và sở
đoản của CNGD và tác dụng trực tiếp hay gián tiếp của nó trên khả năng phát triển
tâm lý và trí óc trong một tương lai không xa của gần một triệu trẻ em tiểu học
Việt Nam đang đưa ra làm đối tượng giáo dục thí nghiệm cho một công trình “cách mạng giáo dục” đã có tuổi thọ hơn
40 năm.
GS. Hồ Ngọc Đại chưa phân định rõ ràng giữa hai phương pháp
giáo dục: Đấy là giáo dục bình thường và giáo dục đặc biệt (special education)
dành cho trẻ em khuyết tật (ngọng, lãng tai, câm điếc). Trong giáo dục đặc biệt,
phương pháp tận dụng Trực quan Sinh động lấy môi trường sinh hoạt để khởi động
sự quan tâm chú ý của học trò một cách tự nhiên và thích thú như trò chơi game
đang thịnh hành trong lớp trẻ hiện nay được xem là chủ đạo. Vai trò lên lớp của
thầy giáo theo mô thức nầy phải trực tiếp và năng động như vai trò của người vú
em hay hướng dẫn viên trong các học viện giáo dục nhi đồng khuyết tật. Bởi vậy,
trong tác phẩm Công Nghệ Giáo Dục của TS.HNĐ, trang 152 có ghi: “Trẻ em hiện đại là những đứa trẻ… ăn cùng
mâm, xem chung một ti-vi với người lớn hiện đại.” Và ông hiểu cũng như đánh
giá thiếu chính xác về cách dạy chữ theo các tiêu chuẩn của nhà trường hiện đại.
Bởi vậy, ông đã viết lời phê phán trong CNGD là: “Sự nhầm lẫn rất tai hại của nhà trường là đánh tráo vật thật và vật
thay thế. Lẽ ra học tiếng nói (âm thanh) thì lại học chữ.” Theo ông thì “Vật thật” là tiếng nói và “Vật thay” là chữ viết. Từ đó, ông hình
dung và phân định vai trò của người thầy giáo theo tính “khoa học” gồm có hai bộ phận: Thiết kế và thi công. Người thiết kế
tìm ra giải pháp tối ưu cho mỗi việc làm nhằm tạo ra sản phẩm giáo dục. Còn người
thi công là thầy giáo đứng lớp làm nhiệm vụ thi công lên lớp giống như người
lái xe.
Kết quả của CNGD Hồ Ngọc Đại như thế nào vẫn còn là một khả
năng giả định và mọi sự giả định đều chưa có một căn bản nào để đánh giá nên đứng
về mặt khoa học nhân văn nó vẫn còn là một ảo tưởng.
Sẽ không có ai tranh luận được với ảo tưởng vì thiếu dữ kiện
để chứng minh, diễn giải và suy luận trên một một căn bản tri thức và hiệu năng
cụ thể. Cái “kết quả thành công rực rỡ
sau cùng” của một công trình đang thí nghiệm có thể là có mà cũng thể là
không vì khi chưa kết thúc thì tất cả chỉ là một chuỗi lý luận bề mặt hay phiến
diện hơn là một loại hội chứng mặc cảm tâm lý sai lạc của “Chiếc Áo Choàng Anderson”!
Quá trình thí nghiệm của Công Nghệ Giáo Dục/ Hồ Ngọc Đại
trong 49 tỉnh thành và 800.000 học sinh Việt Nam hiện nay chỉ tạm được báo cáo
là “có kết quả tốt” ở các vùng sâu,
vùng xa và các miền dân tộc không nói hay nói ngọng nghịu tiếng Việt. Chẳng lẽ
cả quần chúng Việt Nam, Nhà Nước Việt Nam và Bộ Giáo Dục Việt Nam… lại nhắm mắt
làm ngơ phó mặc cho gần một triệu con em mình bị đem ra làm thí nghiệm về một
kiểu học ngôn ngữ CNGD mà chưa có một nuớc tiên tiến nào trên thế giới hiện nay
áp dụng hay sao?
Để có một cái nhìn cụ thể và khách quan hơn, xin mời bạn đọc
xem kỹ một đoạn video đã phát tán rộng rãi trên Youtube diễn tả cụ thể một cháu
bé đang học “vần tiếng Việt” theo phương thức dạy chữ CNGD của TS.HNĐ:
https://www.youtube.com/watch?v=Z7wtcp2WxvI
https://www.youtube.com/watch?v=MzKDqxqWZkQ
Nhiều người “tá hỏa” khi xem thực tế cách học vần quái dị nầy.
Nguồn
gốc sâu xa của “Công Nghệ Giáo Dục” đến từ đâu?
Ông Hồ Ngọc Đại tốt nghiệp Tiến sĩ Tâm Lý Học (Doctor of
Psychology) từ đại học quốc gia Lomonosov Mạc Tư Khoa (Московский
государственный университет им. М.В.Ломоносова - Lomonosov Moscow State
University). Năm 2017, đại học Lomonosov được xếp hạng 199 trong bảng xếp hạng
hệ thống đại học toàn thế giới. Nếu muốn biết rõ hơn về đại học nầy và khoa Tâm
Lý nơi TS.HNĐ đã học, xin mời vào tham khảo thêm:
https://www.timeshighereducation.com/student/what-to-study/psychology
Ngành tâm lý giáo dục và triết lý giáo dục không phải là một
cơ sở lý thuyết khoa học thực nghiệm. Đây là khởi nguồn của những lý thuyết về
sự cấu tạo và phát triển khả năng nhận thức của con người. Từ đầu thế kỷ 19, đã
có rất nhiều lý thuyết gia đưa ra những hệ thống lý thuyết về nguốn gốc, khả
năng và tiến trình phát triển của con người từ sơ sinh cho đến khi trưởng
thành. Trường phái có ảnh hưởng lớn nhất tạm gọi là Cấu Trúc Luận
(Constructivism hay Constructivist Theory) do một triết gia Tâm Lý Thụy Sĩ là
ông Jean Piaget (1896-1934) dẫn đầu. Nhà lý thuyết Cấu Trúc Luận của khối Đông
Âu và Liên Xô là ông Lev Semyonovich Vygotsky (1896-1934) hưởng ứng. Vygotsky
là vị tổ sư có ảnh hưởng lớn nhất trong ngành Tâm Lý (Nhận Thức và Phát Triển
Ngôn Ngữ) của đại học Lomonosov mà ông Hồ Ngọc Đại đã là một nghiên cứu sinh và
tốt nghiệp Tiến sĩ ở trường này. Tuy nhiên, căn bản nhận thức và phương pháp ứng
dụng trong lý thuyết Tâm Lý Giáo Dục giữa khối Liên Xô – Đông Âu (theo
Vygotsky) và Phương Tây (theo Piaget) hoàn toàn khác biệt. Trong thế hệ 1920 và
1930, nhiều cuộc tranh luận về Phương pháp Ngữ học đã diễn ra giữa hai khuynh
hướng:
Khuynh hướng Vygotsky đặt nặng trên căn bản hoàn cảnh và
phương tiện tập thể.
Khuynh hướng Piaget đặt nặng trên căn bản phát triển tâm
sinh lý cá nhân của từng đứa trẻ khác nhau.
Những “hậu luận”
có ảnh hưởng trực tiếp đến lý thuyết CNGD của ông TS.HNĐ như sau:
- Lý thuyết “Công Nghệ
Giáo Dục” viết ra trong sách Tiếng Việt Lớp 1 của ông TS.HNĐ không phải là
sách giáo khoa theo nghĩa thông thường mà chỉ là những sáng kiến cá nhân về việc
học và dạy tiếng Việt đang còn trong vòng thí nghiệm. Sự thử nghiệm là một công
trình đang diễn tiến, chưa có kết luận là sẽ thành công hay thất bại như thế
nào. Vậy thì vì cớ gì lại đem gần cả triệu con em mầm non ngây thơ vô tội của
49 tỉnh thành trong cả nước ra làm vật thí nghiệm?
- Phương Pháp học tiếng Việt theo mô thức Hồ Ngọc Đại là là
sản phẩm Tâm lý và Triết lý giáo dục của Piaget, Vygotsky thời thập niên 1930
đã bị các nhà Tâm lý giáo dục đương thời và hiện đại phản bác. Họ đã đặt lại vấn
đề rằng, quá trình giáo dục một ngôn ngữ không phải thực tại đến trước, phương
tiện đến sau như “Từ bản chất của thực tại,
tung tăng bước vào ngữ âm trước như một trò chơi, tìm hiểu ngữ nghĩa, tìm đồ
hình hay dụng cụ để ghép vần và tự nhiên đi vào ngữ pháp…” Các bước đi vào
ngôn ngữ của một đứa trẻ lành mạnh, không khuyết tật sẽ không diễn ra một cách
máy móc như lý thuyết của Vygotsky hay ngược lại của Piaget mà thực tại và
phương tiện xuất hiện đồng thời trong tâm trí của trẻ thơ. Và bằng chứng hùng hồn
nhất là suốt 88 năm qua – kể từ khi lý thuyết Constructivism xuất hiện – chưa
có một quốc gia hay nhóm phái nào dám đưa vào chương trình giáo dục quy ước chính
thức cả. Bởi đây chỉ là một mảng lý thuyết đơn thuần, chưa có thực thế chứng
minh hay kiểm chứng. Nay Việt Nam là nước độc nhất, đang theo một sáng kiến cá
nhân của ông Hồ Ngọc Đại, đơn phương mang 800.000 đứa trẻ ra thử nghiệm trong
49 tỉnh thành trong toàn bộ 63 tỉnh thành của đất nước bé nhỏ này là tại sao?
- Tâm lý Giáo dục Thời 1930 chưa có mạng lưới truyền thông
vi tính và đặc biệt nhất là trò chơi điện tử (game) như thời nay. Tuổi thơ sống
trong những trò chơi truyền thống cổ xưa như đánh đáo, đánh bi, nhảy dây, trốn
tìm… nên hình thức đồ hình, lập phương, tam giác (mà TS.HNĐ đã tận dụng trong
CNGD) là những gợi mở trí tuệ cho trẻ thơ trong học tập. Ngày nay, với những
trò chơi điện tử và phương tiện truyền thông đại chúng mà Việt Nam đứng vào hàng
thứ 7 của thế giới về tỷ số dân dùng Wi-Fi và Internet (68/93 triệu người sử dụng)
thì rõ ràng phương pháp đồ hình vuông, tròn, tam giác của Hồ Ngọc Đại tự động
trở thành những trò chơi lỗi thời và lạc hậu; nếu không muốn nói là phản tiến
hoá và đi ngược với chiều hướng nhân văn.
- Mô thức CNGD lay đổ tận gốc rễ những mối quan hệ cốt tủy
hai chiều của Giáo Dục. Đó là mối quan hệ giữa thầy giáo và học trò, gia đình
và học đường, phụ huynh và con em, bạn bè và chia sẻ. Đây là mối quan hệ truyền
thống quan trọng nhất mà ngay tại các nước tiên tiến hàng đầu cũng chưa hề chuyển
đối. Thế nhưng CNGD đạt định vai trò thầy giáo như người lái xe, gia đình không
thể chia sẻ “cách học” của con em và
bạn bè theo kiểu học nào thì biết kiểu học ấy.
Những vấn đề và vấn nạn cứ thế nẩy sinh và kéo dài không dứt…
Biến tướng và hệ lụy phát sinh do cách áp dụng mô thức CNGD
của TS.HNĐ không lường trước được.
Nếu bạn đọc muốn đi xa hơn để tìm tiểu về lý thuyết Cấu Trúc
Luận (Constructivist Theory) mà người viết đã đề cập ở trên, xin mời ghé tạm
qua một (trong vô số bài viết) về vấn đề này trên các trang mạng.
https://www.brighthubeducation.com/teaching-methods-tips/76645-pros-and-cons-of-constructivist-learning-theory/
Mô thức giáo dục Hồ Ngọc Đại xuất phát từ cảm quan tâm lý
triết học và tiến dần đến “khoa học lãng mạn” – vốn không phải là tiêu chuẩn sư
phạm của giáo dục – nhất là trong lãnh vực ngôn ngữ. Nó được phát biểu rất
“siêu sao” và cường điệu qua nguồn thông tin thuyết trình và phỏng vấn nhưng thực
tế là xa lạ và tách rời hệ thống giáo dục truyền thống lành mạnh và quy ước.
Nơi đó, mỗi Thầy, Cô giáo là cả một tấm lòng chức nghiệp dạy học trò bằng cả khối
óc, tình thương và tâm hồn. Gia đình và phụ huynh là suối nguồn nuôi dưỡng con
em.
Vì cuộc thử nghiệm kéo dài hơn 40 năm chưa có kết quả cụ thể
chính thức của công trình, TS.HNĐ mang mớ lý thuyết giáo dục của mình ra làm chất
liệu “tư tưởng và khoa học” để xây dựng
một thế giới ước mơ cho cả một thế hệ sau chiến tranh. Trong khi đó, cha mẹ
đang sẵn sàng hy sinh cho con cái mình được học cái hay, cái đẹp của một một thế
giới khoa học kỹ thuật đầy hấp dẫn của thế giới bên ngoài. Và cái tiêu đề “Công Nghệ Giáo Dục” của TS.HNĐ đã đánh
trúng vào khát vọng đang cháy bỏng đó. Ngày nay, hành tinh nầy là một “làng địa
cầu” nên sẽ rất dễ dàng để kiểm chứng cái phương pháp luận CNGD của TS.HNĐ là một
tài liệu khoa học giáo dục hay chỉ là một sáng kiến cá nhân thuộc về tâm lý triết
học giáo dục của trường phái Vygotsky và Piaget thời 1930 mà cả thế giới không
có một trường học hay quốc gia nào áp dụng từ khởi thủy cho đến thời hiện đại.
Tại sao Việt Nam lại đem cả triệu đứa trẻ ra làm vật thí
nghiệm cho những ý nghĩ lập dị của một vị giáo sư đã 82 tuổi, với hơn 40 năm đầy
năng động nhưng chưa tự chứng minh được điều gì cụ thể với mấy tập sách thuần
lý thuyết của mình.
Ông TS.HNĐ tuyên bố: “Thế
kỷ XXI, một thế hệ chưa từng có trong lịch sử phải có một hệ thống giáo dục
chưa từng có trong lịch sử! Phải đổi mới giáo dục! Bỏ chấm điểm để các cháu
phát huy thế mạnh, năng khiếu… nó yếu cái nọ nhưng nó mạnh cái kia.”
Có chăng đây là “khẩu
khí” của một vị tối thần linh trên Trời vừa rơi xuống muốn ban phép lạ cho
trần gian? Cái “hệ thống giáo dục chưa từng
có” của TS.HNĐ từ đâu đến? Trong lúc lịch sử nhân văn của con người là phải
có gốc mới có ngọn; có điểm xuất phát mới có điểm đến sau cùng. “Bỏ chấm điểm để các cháu phát huy thế mạnh,
năng khiếu…” là loại “thế mạnh” và “năng khiếu” nào mà tự tôn, tự đại không cần thẩm định. Mỗi em bé
là một thiên thần tự phát chăng?
Đây là một phát biểu mang tính “liều mạng” chứ hoàn toàn không có tính chất khai phóng của “cách mạng” chút nào cả. Văn hoá, giáo dục,
xã hội tự bản chất là một dòng sinh tồn và sinh mệnh mang tính kế thừa để phát
huy văn hóa và hiệu chỉnh để thích nghi với nhu cầu thời đại. Từ thời vô thủy đến
thế kỷ XXI hôm nay là một quá trình diễn tiến qua từng chớp mắt của thời gian.
Ngay cả giả thuyết “Big Bang”, nguyên
động lực sinh ra thiên hà, vũ trụ cũng là sự bùng vỡ của một tiến trình của vô
lượng động thái. Nay bỗng dưng, ông TS. Đại hô hào ném “một hệ thống giáo dục chưa từng có trong lịch sử” cho Việt Nam
trên đường sang thế kỷ.
Cái gọi là “hệ thống
giáo dục…” đầy cường điệu giả định đó là gì? Từ đâu đến? Giáo dục như thế
nào? Ai là người giáo dục và ai được giáo dục…?!
Chỉ tiếc một điều là chúng ta chưa đủ dữ kiện để phản bác điều
đó vì Công Nghệ Giáo Dục của TS.HNĐ đã khởi đầu với các phương tiện ở tầm mức
quốc gia (Việt Nam) với một chặng đường hơn nửa đời người và cho đến hôm nay đã
40 năm qua mà vẫn còn lê gót trong vòng “thí
nghiệm” (!) Điều tôi quá đỗi kinh ngạc là sự kiên nhẫn đến độ bất bình thường
của quý vị lãnh đạo Việt Nam có trách nhiệm lại hành xử như vô trách nhiệm trước
một cuộc thí nghiệm đã mày mò hơn 40 năm vẫn còn tiếp diễn thiếu định hướng
giáo dục đến như thế. Đồng thời, tôi cũng chia sẻ với sự nơm nớp trông chờ “phép lạ CNGD” của quý vị phụ huynh và đội
ngũ Thầy Cô giáo.
Một
kết luận bất ngờ
GS. Hồ Ngọc Đại tuyên bố: “Việc tôi mở trường Thực nghiệm, hành vi đó là có trách nhiệm nhất với
đất nước. Tôi lấy cá nhân làm cơ bản, mà những tư tưởng như thế dễ bị phản ứng
lắm”.
Nói về “tình”, tôi
tin là GS. Đại nói thật với tất cả niềm thâm tín của mình. Nhưng nếu nói về “lý” và “sự” thì tôi cho rằng: Đây là một sự khẳng định mang tính chất hý
luận hơn là lý luận. Nói là “thực nghiệm”
là con đường đạt tới kết quả hiển nhiên của thí nghiệm. Nhưng nếu đem gần một
triệu con em ra làm thí nghiệm cho một giấc mơ quyết đoán cá nhân, loay hoay suốt
40 năm chưa có lối thoát, có một không hai trên thế giới, rồi tự phong là “có trách nhiệm với đất nước” như ông Hồ
Ngọc Đại và dựa trên một chiếc bè ngã mạn như “tôi lấy cá nhân làm cơ bản” là một cách nói cuồng ngã
(Egocentrism/Narcissim) mà trong giáo trình Tâm Lý Học đại học Lomonosov có
ghi.
Ngày 8-9-2018 vừa qua GS. Đại lại đăng đàn giải luận:
“Như
lúc anh ngồi trên ô tô để di chuyển chẳng hạn, anh có cần cố gắng hơn? Trẻ con
làm sao mà học không có cảm giác là học, nhưng thực ra là học, thì mới gọi là học.
Tức là những việc đó phải tự nhiên, như hít thở không khí. Và muốn tự nhiên nhất
thì phải hợp lý nhất, phải đúng nhất”.
Từ 2500 năm trước, chỉ có Phật mới nhìn thấy cái chân đế,
cái thực tánh của thế gian để “Nhìn cái
nhà, thấy không phải là cái nhà, đó mới thật là cái nhà.”
Học là một quá trình vận dụng thể lý, cảm quan và tri thức.
Nay ông Đại muốn con em thành “bậc giác
ngộ” khi đến trường để học là một hý luận viễn vông. Tất cả đều đòi hỏi sự
tập trung vắng lặng của tri thức, ý thức và tâm thức mà chữ nhà Phật gọi là “chánh niệm”. Đi ô tô không để ý thì chẳng
biết ga nào mà xuống. Lái ô tô không để ý thì vong mạng. Học mà không có cảm
giác học là mộng du. Thở mà không phân biệt không khí trọc, thanh là nhiễm độc
buồng phổi…
Và ông Đại kết luận… vô tư (!) như xem chuyện cả triệu con
em đang học Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục của ông là một đàn muỗi vo ve bay
quanh tới đâu thì tới; miễn sao cái gọi là “tư
tưởng về lý thuyết khoa học, tâm lý học, triết học và cuộc sống” gắn liền với
tên tuổi của Hồ Ngọc Đại được đem ra nhắc nhở là mãn nguyện cho ông thôi!
Không một nhân vật có sở học nào dám tuyên bố một cách ích kỷ,
vô trách nhiệm và thiếu lương tri kẻ sĩ của người trí thức khi đem cái “cuồng ngã” vô xiển dụng của mình mà bất
chấp quyền sống của thế hệ đàn em và đại chúng Việt Nam trong nước như GS. Đại
khi ông dám công khai khẳng định rằng:
“Công
trình của tôi có vô nghĩa đi nữa thì quyển Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục cũng
an ủi tôi bởi vì ở trong đó thể hiện được những tư tưởng về lý thuyết khoa học,
tâm lý học, triết học và cuộc sống”.
Nhưng điều tôi từ tò mò, đến hoài nghi, thành thất vọng và
thật sự trở thành phẫn nộ lên án khi nghĩ đến 49 tỉnh thành với 800.000 con em
thế hệ trẻ tương lai Việt Nam đang bị đưa ra làm thí nghiệm cho một sự lạm dụng
chất xám và tinh thần của con trẻ ngây thơ, vô tội của đất nước mình. Tôi tự hỏi
tại sao người dân trong nước không khởi tố kiện nghi can Hồ Ngọc Đại về tội Ngược
Đãi Trẻ Em (Child Abuse) về mặt Xâm Phạm Tâm Lý (Psychological Abuse), Bóc Lột
chất xám (Mental Exploitation) và Bỏ Phế Tinh Thần (Depressed/Passive Neglect).
Đưa tập thể trẻ con vào một cuộc thí nghiệm, bất chấp nó có thích thú và thích
hợp hay không: là một hình thức ngược đãi tâm lý. Sử dụng đầu óc trẻ con vào một
cuộc thí nghiệm hay thử nghiệm: là bóc lột chất xám. Đưa trẻ em vào một chương
trình giáo dục mà không quan tâm đến thầy giáo, gia đình và truyền thống học tập
xung quanh: là bỏ phế tinh thần.
Theo luật pháp quốc tế thông qua Liên Hiệp Quốc và UNICEF
thì vấn đề Ngược Đãi Trẻ Em (Child Abuse) là một trách nhiệm riêng của từng quốc
gia; nhưng đồng thời cũng là mối quan tâm chung cộng đồng quốc tế: Mọi hình thức
đưa trẻ em vào một công trình thí nghiệm thuộc phàm trù thể chất hay tinh thần
đều phải được nghiêm cấm. Đặc biệt là sự tác hại về thể chất tức thời có thể
quan sát và kịp thời ngăn chận; nhưng sự tác hại lâu dài vào tinh thần và não
trạng của trẻ thơ có thể là một tác hại tiệm tiến, lâu dài và thường đã quá muộn
màng và vô phương cứu chữa khi sự phát tác hiện rõ.
Một chương trình huấn luyện hay giáo dục mang tính cách áp đặt
lên thân thể và trí tuệ của tuổi trẻ từ sơ sinh đến 18 tuổi thường có khả năng
gây dấu ấn, tác dụng, ảnh hưởng, hệ lụy… biến đổi tâm hồn, trí tuệ và cách ứng
xử của đứa trẻ trong độ tuổi vào đời và có khi suốt cả cuộc đời về sau nầy.
Ngay cả những chương trình “thượng lưu”
như chơi các dụng cụ âm nhạc, nghệ thuật, thể thao, võ thuật. sinh hoạt đoàn thể…
đều có khả năng hợp với đối tượng nầy mà không hợp với đối tượng khác. Một
chương trình giáo dục đang trong vòng thí nghiệm thì tuyệt nhiên bị nghiêm cấm
áp dụng cho tập thể trẻ con. Việc đem CNGD của ông Hồ Ngọc Đại ra áp dụng thí
nghiệm trên tập thể trẻ con vở lòng là một trường hợp vi phạm chức năng giáo dục
mà cha mẹ, phụ huynh các con em bị áp đặt có quyền kiện ông Hồ Ngọc Đại và những
thành viên có trách nhiệm trước tòa án Việt Nam và quốc tế.
Sacramento,
mồng 6 Tết Kỷ Hợi 2019
Trần
Kiêm Đoàn, MSW., Ph.D
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét