BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Sáu, 1 tháng 2, 2019

NHÀ THƠ TƯỜNG LINH - Võ Phiến

Thi sĩ Tường Linh tên thật là Nguyễn Linh, sinh ngày 12.12.1931 tại làng Trung Phước, huyện Quế Sơn (nay là Quế Trung, Nông Sơn). Ông xa quê từ năm 1954, ra sống ở Huế, Quảng Trị. Đến năm 1956 thì ông vào ở hẳn tại 
Sài Gòn cho đến nay. Tường Linh thuộc lớp các thi sĩ Quảng Nam xuất hiện vào những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp. Bài thơ “Chị Điện Hòa” (1950) và “Năm Cụm Núi Quê Hương” (1954) của ông được nhiều người thuộc lòng, mãi cho đến nay.

Thơ Tường Linh đã xuất bản:

“Thơ Tập Làm Thuở Nhỏ” (in thạch bản, Tam Kỳ-1950)
“Mùa Di” (in thạch bản, Bồng Sơn – 1953)
“Mùa Hoa Cải” (Huế – 1955)
“Mây Cố Quận” (Tao Đàn, Sài Gòn -1962)
“Nghìn Khuya” (Tao Đàn, Sài Gòn – 1965)
“Thu Ơi Từ Đó” (Tao Đàn, Sài Gòn – 1972)
“Giọt Cổ Cầm” (Đà Nẵng-1998)
“Về Hỏi Lại” (Đà Nẵng – 2001)
“Thơ Tường Linh Tuyển Tập” (Văn học – 2011).


NHÀ THƠ TƯỜNG LINH

Tường Linh là một quân nhân. Tôi có gặp ông đôi lần, và nghĩ bâng quơ: Lính đâu có lính trông hiền lành đến thế!
Ngay đến cảnh đói khổ của mình, Tường Linh nói đến cũng không hề cay đắng, hằn học:

“Đất Quảng thân yêu, một thời tuổi nhỏ
Mẹ thèm cơm, còn thiếu áo long đong
Nhà bên sông năm tháng nước xuôi dòng
Vách nứa lung lay trưa nồm thổi mạnh.”
                             ("Vọng tình chim”)

Tường Linh nói thế nào mà cảnh nghèo gần thành một cảnh thi vị, đáng yêu, một cảnh... dễ chịu quá.
Người như thế rất hiếm hoi giữa cái thời buổi dữ dằn vừa qua, thời buổi của những cảm xúc mạnh, tình cảm mạnh. Cho nên trong hai mươi năm Tường Linh ít được chú ý. Giọng nói nhỏ nhẹ của ông bị át hẳn đi. Ngày nay kiểm điểm lại hàng ngũ anh em buổi ấy, lại quên ông nữa thì sao nỡ.
Thời cuộc bắt người thanh niên hiền lành nọ phải làm lính. Thì làm lính. Nhưng Tường Linh là thứ lính miễn cưỡng, yếu xìu. Nghe ông nói chuyện đánh nhau mà ngán ngẩm. Không phải ông ngờ vực chính nghĩa, hay ông non gan run sợ, hay ông thấm đạo vô vị. Không phải thế.
Trong thời kỳ khói lửa trước tháng 5-1975, ở Miền Bắc có thể có một người bộ đội khuôn mẫu, điển hình. Bên phía Miền Nam không hề có những người lính đồng dạng. Bên này lính không giống lính. Bên này là vô số người lính muôn mặt. Có lính hiên ngang hăng say trong thơ Đỗ Tấn, có lính máu nóng rần rật trong văn Phan Nhật Nam, lại có lính hư tâm hào sảng như Nguyễn Bắc Sơn, có lính mênh mông trời bể như Tô Thùy Yên, hay lính tài hoa bay bướm như các chàng phi công giữa hai trận chiến trên trời xanh là những cuộc rước đèn đều đều với các em gái thơm như múi mít trên đường phố Sài Gòn v.v...
Tường Linh thì ông là người lính thích quanh quẩn bên... mẹ già, thích nhấm nháp lai rai, tụ tập bạn bè, thích loanh quanh chỗ xóm làng, sống cảnh yên lành, thỉnh thoảng làm dăm ba câu thơ. Giữa thời bom nguyên tử, khi bất đắc dĩ phải nói tới chiến tranh thì ông thích chuyện... mài kiếm dưới trăng (Trời xưa áo lục”.
Như thế không những ông lành quá mà ông còn xưa quá, lỗi thời quá chăng? Ông không thuộc thời đại chúng ta, nên gạt ông qua một bên chăng? Ấy! ông đồ ngồi viết thuê đã lỗi thời ngay trong câu thơ Vũ Đình Liên, vậy mà đến mãi bây giờ ông vẫn còn đeo đuổi ám ảnh chúng ta: thì năm nào tết đến mà không thấy có báo nhắc nhở đến ông?

“Những người muốn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”

Hồn người muôn năm cũ vẫn lẩn quất nơi một góc khuất lấp trong tâm hồn chúng ta chứ còn ở đâu nữa. Cũng như trong thời buổi này trong tâm hồn những người đô thị đang chen lấn nhau giữa xe cộ rộn ràng thỉnh thoảng vẫn thấp thoáng bóng dáng người nhà quê. Chúng ta vẫn nghe dân ca, mến thơ Nguyễn Bính. Không sao?
Nói đến quê lại là nói đến một phương diện nữa của thơ Tường Linh.
Nhớ làng mạc, gốc gác thì chắc ai cũng có nhớ. Nhưng hiếm người nhớ quê nhà Tường Linh nhớ làng Trung Phước (hoạ chăng có thêm Tạ Ký, bạn ông).
Có lần (hồi năm 1965) Tường Linh đoạt giải thưởng Bút Việt nhờ một thiên truyện ngắn nhan đề là “Làng”. Đó là truyện một người, một ông lão mê làng, tha thiết say sưa với làng mình, dù chiến tranh khiến phải xiêu bạt về đầu ông lão cũng hướng tất cả tâm hồn về làng xưa. Sức thu hút của “làng” trong trường hợp này có phảng phất chút gì thần bí.
Cái làng ấy, trong truyện, Tường Linh không gọi hẳn tên ra mà cũng không giấu hẳn tên đi, không dùng một tên bịa đặt nào để xoá lấp nó. Ông ghi tắt là làng Tr.P. Sinh quán của Tường Linh chính là làng Trung Phước, thuộc quận Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
Trong thế giới nhân vật giả tưởng, chỉ được biết có ông Tư Xích-Lô mê làng Trung Phước. Ngoài đời, trong thế giới văn nhân thi sĩ chúng ta bắt gặp ít nhất hai người: Tường Linh và Tạ Ký.

“Thấy gì đâu chỉ núi chắn mây mờ
Lòng gọi mãi tên làng xưa Trung Phước!”
           (Tường Linh - 'Vọng tình chim')

Mùa đông giữa chiến tranh, từ Sài Gòn ra, một chiều mưa đứng bên bờ sông Vĩnh Điện nhìn về phía làng quê mà không về thăm làng được, Tường Linh lòng đâu có khác gì lòng ông Tư Xích-Lô? Và cũng không khác lòng Tạ Ký:

“Trung Phước ơi, sông sâu dài uốn khúc,
Tình cheo leo cao vút một con đèo.”
                        (Trung Phước ơi)

Giữa Tạ Ký với Tường Linh có nhiều điểm giống nhau: cũng một làng Trung Phước mến yêu, cũng những năm học hành ở Huế với một vài mối tình lở dở bên bờ sông Hương, rồi sau đó cũng là những năm dài biền biệt ở Sài Gòn với những thất bại ưu phiền về sự nghiệp, về thế cuộc, cũng một bà mẹ già lủi thủi nơi quê xưa và thấp thoáng giữa các dòng thơ của đứa con xa...
Ở đây ngoài những trùng hợp giữa hai cuộc đời, chúng ta còn bắt gặp được những nét chung hao hao giữa hai tâm hồn. Cả hai người trai xứ Quảng đều rất ngoan rất lành. Không một nét táo tợn, phá phách của thời đại. Cũng không có gì bí hiểm rắc rối. Cả hai thi sĩ, họ buồn cái buồn của người Việt trung bình, đau cái đau của người Việt trung bình. Làm thơ, họ thường sử dụng những luật thơ quen thuộc, thông dụng. Thơ họ không xuất sắc, cũng không làm bừa bãi.
Làng Trung Phước, ngày còn ở trong nước tôi chưa đến bao giờ (chính dân làng còn khó về làng, huống hồ người xa kẻ lạ). Từ khi xa nước, nghe nói tới Trung phước càng thấy mơ hồ tít tắp. Nhưng mặc dù bây giờ không còn mường tượng được Trung Phước nó ở chỗ mù thẳm nào, tôi đinh ninh đó là một làng đáng tưởng nhớ đáng mê say: dễ gì một ngôi làng (nhỏ bé, hẻo lánh) mà có được hai thi sĩ dễ thương, ngoan lành như vậy? Hơn nữa, ngoài Tạ Ký và Tường Linh, làng Trung Phước còn liên hệ đến một thi sĩ thứ ba rất quen thuộc là Bùi Giáng, người đã từng sống với đàn dê tại đây một thời gian hồi kháng chiến chống Pháp.
Chọn thơ Tường Linh quả khó: chọn bài này e làm mất lòng bài kia . Đại khái suýt soát như nhau.

                                                                                        10 - 1986
                                                                                        Võ Phiến
Văn Học Miền Nam - Thơ

Không có nhận xét nào: