BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Bảy, 15 tháng 10, 2022

BÀI THƠ “PHONG” CỦA LÝ KIỆU – Đỗ Chiêu Đức


 
     
LÝ KIỆU 李嶠 (644-713) tự là Cự Sơn 巨山, Tán Hoàng 贊皇, danh sĩ đời Sơ Đường, người đất Hà Bắc, là cháu chắc của Nội Sử Thị Lang Lý Nguyên Tháo đời nhà Tùy. Tuổi trẻ tài cao, hai mươi tuổi đã đậu Tiến sĩ, làm quan đến chức Trung Thư Lệnh, tánh tình cương trực liêm chính. Vì làm nghịch ý Võ Hậu mà bị biếm làm Tư Mã Nhuận Châu, sau được triệu về làm Phụng Các Xá Nhân. Ông giỏi văn thơ, sánh ngang với Sơ Đường Tứ Kiệt Vương Bột 王勃、Dương Quýnh 楊炯、Lư Chiếu Lân 盧照鄰、Lạc Tân Vương 駱賓王 lúc bấy giờ; cùng với Tô Vị Đạo 蘇味道、Thôi Dung 崔融、Đỗ Thẩm Ngôn 杜審言 (Ông nội của Thi Thánh Đỗ Phủ) hợp xưng là “Văn Chương Tứ Hữu 文章四友. Trong một lần TỨ HỮU cùng dạo chơi trên núi Lư Phong Sơn, phong cảnh cỏ hoa trên núi rất đẹp, khi vừa lên đến đỉnh núi thì có một làn gió thổi thốc đến rất mát mẻ sảng khoái, Lý Kiệu bèn nổi hứng mà viết nên bài thơ về GIÓ như sau đây :
          
                       PHONG
     
解落三秋葉,    Giải lạc tam thu diệp,    
能開二月花。    Năng khai nhị nguyệt hoa.   
 過江千尺浪,    Quá giang thiên xích lãng,    
入竹萬竿斜。    Nhập trúc vạn can tà!
 

* Chú thích:
    - Giải Lạc 解落 : GIẢI là Cởi ra; LẠC là Rớt xuống; nên GIẢI LẠC ở đây có nghĩa là Rơi Rụng vì chỉ lá mùa thu.
    - Năng Khai 能開 : có nghĩa là Làm cho nở ra.
    - Quá Giang 過江 : là Qua Sông, ở đây có nghĩa là KINH QUÁ GIANG HÀ 經過江河 chỉ Gió thổi "Ngang qua sông ngòi".
    - Nhập Trúc 入竹 : ở đây có nghĩa là NHẬP TRÚC LÂM 入竹林 chỉ Gió thổi "Vào rừng tre".
    - Can 竿 : là Lượng từ của tre : Nhất Can Trúc 一竿竹 là Một CÂY tre.
 
* Nghĩa bài thơ:
                            
GIÓ
      
Gió có thể thổi cho rơi rụng hết lá ba tháng của mùa thu; và Gió cũng có thể thổi làm cho nở hết hoa của buổi đầu xuân (tháng hai). Khi Gió thổi qua giang hà thì có thể làm cho sóng dậy cả ngàn thước cao; và khi thổi vào rừng trúc thì lại có thể làm cho muôn vạn cây trúc phải nghiêng ngã cúi đầu!
            
Thông qua hình tượng của Lá, Hoa, Sóng, Trúc, và các chữ số Tam, Nhị, Thiên, Vạn, để diễn tả phô trương khả năng đa dạng và sức mạnh cùng uy lực của gió đối với cảnh vật thiên nhiên: Gió thu hiu hắt thổi rụng lá vàng tan tác, gió xuân ấm áp mơn trớn làm nở rộ muôn hoa; Gió thổi cuồng nộ làm cho giang hà dậy sóng ba đào và khi thổi thốc vào rừng tre thì làm cho muôn vạn cây trúc đều phải nghiêng ngã cúi đầu! Chỉ vỏn vẹn có bốn câu thơ ngũ ngôn Lý Kiệu đã lột tả được hết cái tính cách đa dạng và uy lực vô biên của GIÓ mà ta thường tiếp xúc và cảm nhận hằng ngày.
                

* Diễn Nôm:
                      
PHONG
                                 
Thổi rụng ba thu lá,               
Nở bung hoa tháng hai.                
Sóng sông ngàn thước dậy,               
Rừng trúc ngã nghiêng ngay!
    
Lục bát:
                
Hắt hiu rụng hết lá vàng,                
Mơn man nở rộ muôn ngàn hoa xuân.                
Giang hồ sóng dậy nghìn trùng,               
Thổi vào rừng trúc đều cùng ngã nghiêng!
                                                        
                        Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
 

Hẹn bài viết tới!
                                                                                     杜紹德
                                                                                Đỗ Chiêu Đức

Không có nhận xét nào: