BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Năm, 6 tháng 10, 2022

CHÙM THƠ “TRƯỜNG TƯƠNG TƯ” CỦA LÝ BẠCH – Đỗ Chiêu Đức



                                            
THI TIÊN LÝ BẠCH
     
Năm Thiên Bảo thứ ba đời Đường Huyền Tông (744), Lý Bạch vì hạ câu "Khả lân Phi Yến ỷ tân trang 可憐飛燕倚新妝" trong bài thứ 2 của 3 bài Thanh Bình Điệu, nên bị Thái Úy Cao Lực Sĩ dèm pha là Lý đã miệt thị Dương Quý Phi. Cuối cùng Lý đành phải từ quan đi ngao du tứ hải. Trên bước đường phiêu du khắp các vùng giang nam giang bắc để uống hết rượu ngon trong thiên hạ, đôi lúc Lý cũng chạnh lòng nhớ lại thuở vàng son và cuộc sống xa hoa lãng mạn một thời ở đất Trường an mà viết nên những dòng thơ đượm tình ướt át sau đây; Chúng ta cùng đọc lại 3 bài thơ cổ phong "Trường Tương Tư" của Thi Tiên sáng tác trong khoảng thời gian nầy nhé!
 

 長相思 (其一)          TRƯỜNG TƯƠNG TƯ (Kỳ I)
 
長相思,在長安。    Trường tương tư, tại Trường an.
絡緯秋啼金井闌,    Lạc vĩ thu đề kim tỉnh lan.  
微霜悽悽簟色寒。    Vi sương thê thê điệm sắc hàn.
孤燈不明思欲絕,    Cô đăng bất minh tư dục tuyệt,
卷帷望月空長嘆。    Quyển vi vọng nguyệt không trường thán.
美人如花隔雲端。    Mỹ nhân như hoa cách vân đoan.
上有青冥之高天,    Thượng hữu thanh minh chi cao thiên,
下有淥水之波瀾。    Hạ hữu lục thủy chi ba lan.
天長路遠魂飛苦,    Thiên trường địa viễn hồn phi khổ,
夢魂不到關山難。    Mộng hồn bất đáo quan san nan.
長相思,摧心肝。    Trường tương tư, thôi tâm can!
          李白                                                         Lý Bạch
 

* Chú thích:
 
    - Trường Tương Tư 長相思 : có nghĩa là "Nhớ thương nhau dai dẳng", nhớ cả ngày lẫn đêm không lúc nào nguôi.
    - Lạc Vĩ 絡緯 : Con Bù cào, châu chấu. Chỉ Côn trùng kêu trong đêm thu.
    - Đề : là Khóc, là Gáy, là Kêu.
    - Kim Tỉnh Lan 金井闌 : là Cái khung miệng giếng nước đẹp đẽ.
    - Thê Thê 悽悽 : là Thê lương lạnh lẽo; là lạnh lùng hiu hắt.
    - Điệm : là chiếc chiếu được đan bằng tre cói.
    - Bất Minh 不明 là Không sáng; có dị bản là "Bất Miên 不眠" là Không ngủ.
    - Thanh Minh 青冥 : Chỉ Bầu trời xanh thẳm.
    - Cao Thiên 高天 : là Trời cao, dị bản là "Trường Thiên 長天"là Trời dài rộng.
    - Lục : Nước trong vắt.
    - Quan San Nan 關山難 : Quan ải và núi non cách trở khó vượt qua.
    - Thôi : có bộ Thủ bên trái nên có nghĩa là xô, là Đẩy. THÔI TÂM CAN 摧心肝 là Gan tim bị xô đẩy; ý nói Trong lòng như bị dày xéo nát tan; Lòng đau như bị ai xéo ai dần.
 
* Nghĩa bài thơ:
                            
Nhớ Thương Nhau Dai Dẳng (Bài I)
      
Ngày đêm nhớ thương nhau dai dẳng, nhớ thương người ở tại đất Trường An, côn trùng kêu thu ra rả bên bờ giếng đẹp. Sương thu lành lạnh nhe rơi làm cho đệm chiếu cũng tỏa hơi lạnh lẽo. Dưới ngọn đèn cô lẻ chập chờn càng làm tăng thêm nỗi niềm thương nhớ, cuốn rèm lên để nhìn thấy ánh trăng sáng bên song cửa mà buông tiếng thở dài. Người đẹp như hoa đang cách trở bởi những tầng mây bạc, trên thì trời cao lồng lộng mênh mông, dưới thì có làn nước trong đang chập chờn gợn sóng. Trời cao đất rộng nỗi lòng khó thể bay xa; Mộng hồn cũng khó bề vượt qua muôn ngàn quan san cách trở. Trường tương tư, thương nhớ ngày đêm khiến cho lòng đau như cắt.  
 
 
* Diễn Nôm:                  
 
TRƯỜNG TƯƠNG TƯ
                         
Đêm ngày tưởng nhớ đến ai,               
Nhớ người yêu dấu bên trời Trường an.                
Côn trùng ri rỉ giếng vàng,               
Hơi thu sương lạnh lạnh tràn chiếu chăn.                
Đèn côi thương nhớ khôn ngăn,                
Cuốn rèm để lọt ánh trăng thở dài.                
Như hoa người đẹp bên trời,                
Trời xanh thăm thẳm bồi hồi trên cao.                
Dưới dòng nước cuốn ba đào,                   
Trời cao đất rộng lối nào tìm nhau.                
Quan san cách trở lòng đau,                 
Nhớ thương thương nhớ dạt dào khôn nguôi.                
Ruột gan đà héo cả rồi!                                                 

                              Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

 
 長相思 (其二)          TRƯỜNG TƯƠNG TƯ (Kỳ II)
 
日色慾盡花含煙,       Nhật sắc dục tận hoa hàm yên,
月明如素愁不眠。    Nguyệt minh như tố sầu bất miên.
趙瑟初停鳳凰柱,    Triệu sắt sơ đình phụng hoàng trụ,
蜀琴欲奏鴛鴦弦。    Thục cầm dục tấu uyên ương huyền.
此曲有意無人傳,    Thử khúc hữu ý vô nhân truyền,
願隨春風寄燕然。    Nguyện tùy xuân phong ký Yên Nhiên.
憶君迢迢隔青天。    Ức quân điều điều cách thanh thiên.
昔時橫波目,            Tích thời hoành ba mục,
今作流淚泉。            Kim tác lưu lệ tuyền.
不信妾腸斷,            Bất tín thiếp trường đoạn,
歸來看取明鏡前。    Quy lai khán thủ minh kính tiền.
          李白                                              Lý Bạch 

 

* Chú thích:
 
    - Như Tố 如素 : TỐ là màu trắng tinh khiết của lụa; Dị bản là Dục Tố 欲素 đều cùng có nghĩa là: Trắng tinh như lụa bạch.
    - Triệu Sắt 趙瑟 : Một loại đàn xưa mà người nước Triệu thường đàn.
    - Thục Cầm 蜀琴 : Một loại đàn cầm tôn qúy của nước Thục ngày xưa.
    - Yên Nhiên 燕然 : Tên của ngọn núi Hàng Ái Sơn nằm trong nước Cộng Hòa Mông Cổ hiện nay; Ở đây dùng để chỉ vùng biên tái xa xôi ở phía bắc Trung Hoa.
    - Hoành Ba 橫波 : HOÀNH là ngang; BA là Sóng. HOÀNH BA đi liền nhau để chỉ "Sóng mắt liếc ngang liếc xéo". Vì lễ giáo các cô gái ngày xưa ít khi dám nhìn thẳng ai mà chỉ liếc trộm nhìn trộm mà thôi.
    - Lưu Lệ Tuyền 流淚泉 : LỆ TUYỀN là Suối lệ; LƯU LỆ TUYỀN là Suối lệ tuôn chảy, chỉ sầu thương buồn khổ đến nỗi khóc mãi không thôi.
 
* Nghĩa bài thơ:
                            
Nhớ Thương Nhau Dai Dẳng (Bài II)
      
Ánh nắng yếu ớt làm cho những cánh hoa như đang ngậm sương khói mơ màng. Ánh trăng sáng trắng tinh khiết như những giải lụa bạch, lòng sầu nên không ngủ được. Mới vừa dứt trục phụng hoàng trên cây đờn của nước Triệu, lại bấm dây uyên ương của cây đàn cầm trên đất Thục. Tiếc thay các khúc điệu tuy có ý nhưng lại không có người để truyền đạt. Những mong nó sẽ theo gió xuân mà bay đến vùng Yên Nhiên ngoài tái bắc. Nhớ thương người xa diệu vợi ở tận phía trời xanh. Đôi mắt liếc long lanh của ngày xưa giờ đã trở thành nguồn suối lệ chảy mãi không thôi; Nếu như còn nghi ngờ về nỗi nhớ thương đến đoạn trường của thiếp, thì hãy về đây mà ngắm dung nhan tiều tụy võ vàng của thiếp trong đài gương kia kìa!    
           


* Diễn Nôm:
                       
TRƯỜNG TƯƠNG TƯ (Kỳ II)
                 
Nắng chiều hoa nhạt khói sương,                 
Sáng trăng khó ngủ sầu thương vô chừng.                 
Phụng hoàng Triệu sắt vừa ngưng,                 
Thục cầm đã tấu dây chùn uyên ương.               
 Khúc xa khó đến người thương,                 
Thoảng bay theo gió đến miền Yên nhiên.               
Nhớ người diệu vợi sơn xuyên,                 
Khi xưa mắt biếc đưa duyên thẹn thùa.                
Nay thành suối lệ như mưa,                  
Lòng sầu ruột thắt người xưa tỏ tường?                
Má hồng đã nhạt đài gương.                 
Chàng về sẽ thấy xót thương dáng gầy!                                         
                     Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
 

長相思 (其三)         TRƯỜNG TƯƠNG TƯ (Kỳ III)
 
美人在時花滿堂,  Mỹ nhân tại thời hoa mãn đường,
美人去後空餘牀。   Mỹ nhân khứ hậu không dư sàng.
牀中繡被卷不寢,   Sàng trung tú bị quyển bất tẩm,
至今三載聞餘香。   Chí kim tam tải văn dư hương.
香亦竟不滅,           Hương diệc cánh bất diệt,
人亦竟不來。           Nhân diệc cánh bất lai.
相思黃葉落,           Tương tư hoàng diệp lạc,
白露點青苔。           Bạch lộ điểm thanh đài !
          李白                                               Lý Bạch 


* Chú thích:
 
    - Tú Bị 繡被 : Tấm chăn đắp có thêu hoa đẹp đẽ.
    - Quyển Bất Tẩm 卷不寢 : Cuốn để đó không ngủ; dị bản là CÁNH BẤT TẨM 更不卷 nhấn mạnh hơn là "Không có ai ngủ cả".
    - Văn : là chữ Hội Ý gồm có bộ MÔN là Cửa, ở giữa có bộ NHĨ là Lỗ tai, có nghĩa "Đưa lỗ tai ra cửa" để NGHE ngóng; nên VĂN nghĩa gốc là NGHE; nghĩa phát sinh là NGỬI. Vì thế VĂN DƯ HƯƠNG 聞餘香"Ngửi được mùi thơm còn rơi rớt lại". Dị bản là DO VĂN HƯƠNG 猶聞香 là Còn ngửi thấy mùi thơm.
    - Lạc : là Rớt, Rơi, Rụng; HOÀNG DIỆP LẠC 黃葉落 là Lá vàng rơi; dị bản là HOÀNG DIỆP TẬN 黃葉盡"Lá vàng rơi đến hết, đến tận cùng".
    - Điểm : là Chấm, là Chấm phá, dị bản là THẤP là Ướt, làm cho ướt.
 
* Nghĩa bài thơ:
                              
Nhớ Thương Nhau Dai Dẳng (Bài III)
      
Khi người đẹp còn ở nơi đây thì như có hoa tươi thơm tho đầy cả phòng; Khi người đẹp đi rồi thì chỉ còn trơ lại chiếc giường không lạnh lẽo. Trên giường chiếc chăn thêu hoa đẹp đẽ cuốn để đó không ai đắp cả, nhưng đến nay đã ba năm vẫn còn phảng phất ngửi thấy mùi thơm. Mùi thơm lâu ngày vẫn còn đó không phai; Người đi lâu ngày vẫn còn vắng bóng chưa về. Nhớ thương nhau dai dẵng như lá vàng rụng suốt mùa thu và nên thơ như những hạt sương trắng chấm phá trên thảm rêu xanh.


* Diễn Nôm:
                      
TRƯỜNG TƯƠNG TƯ (Kỳ III)
                    
Mỹ nhân còn đó ngát hoa hương,                    
Mỹ nhân đi rồi trống vắng giường.                    
Trên giường chăn bông chẳng ai đắp,                     
Chốc đã ba năm còn thoảng hương.                    
Hương mãi mai không dứt,                    
Người biền biệt chẳng về.                    
Tương tư lá vàng rụng,                  
Sương trắng rêu xanh dạ ủ ê!
        
Lục bát:
                    
Người còn phòng ngát hương hoa,                    
Người đi phòng vắng giường ngà trống không.                    
Chăn thêu cuốn chẳng ai nằm,                    
Đã ba năm lẻ vẫn còn thoảng hương.                    
Mùi hương chẳng dứt mãi còn,                    
Người đi biền biệt mõi mòn ngóng trông.                    
Tương tư lá rụng đầy sân,                    
Sương đêm nhẹ điểm trắng ngần rêu xanh!                                          
                           Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

         
Hẹn bài viết tới:
                                  
Chùm thơ TRƯỜNG TƯƠNG TƯ (3)
                              
                                                                                       杜紹德
                                                                                  Đỗ Chiêu Đức

2 nhận xét:

Bâng Khuâng nói...

Bài viết của bác Đỗ Chiêu Đức tốt lắm!
Bài thơ TRƯỜNG TƯƠNG TƯ (Kỳ III) của Lý Bạch mà bác nêu còn có tên khác là KÝ VIỄN.

Tôi thuộc lòng bài thơ KÝ VIỄN của Lý Bạch và bản dịch của Trần Trọng San, vì liên quan đến một kỷ niệm thời đi dạy của người chú ruột tôi

寄遠 KÝ VIỄN

美人在時花滿堂, Mỹ nhân tại thời hoa mãn đường,
美人去後空餘牀。 Mỹ nhân khứ hậu không dư sàng.
牀中繡被卷不寢, Sàng trung tú bị quyển bất tẩm,
至今三載聞餘香。 Chí kim tam tải văn dư hương.
香亦竟不滅, Hương diệc cánh bất diệt,
人亦竟不來。 Nhân diệc cánh bất lai.
相思黃葉落, Tương tư hoàng diệp lạc,
白露點青苔。 Bạch lộ điểm thanh đài!

李白 Lý Bạch


GỬI NGƯỜI XA

Người đẹp còn đây hoa ngập hồng
Người đẹp đi rồi giường bỏ không
Trên giường chăn gấm không nằm đến
Nay đã ba năm hương còn nồng
Hương không bay đi hết
Người xa không trở về
Nhớ nhau lá vàng rụng
Rêu xanh móc đầm đìa!

Trần Trọng San dịch

Đỗ Chiêu Đức nói...

CÁM ƠN Phu Đoan đã góp ý,
Đúng vậy ! Ngày xưa tôi cũng có đọc qua bài dịch của thầy Trần Trọng San với tựa đề "KÝ VIỄN". Nhưng sau nầy đối chiếu với các tài liệu tìm thấy trên mạng thì bài thơ nầy được xếp vào "bài thứ ba" của TRƯỜNG TƯƠNG TƯ vì NÓ diễn tả tình cảm của trai gái yêu nhau nhớ nhau; Còn "CHÙM" thơ có tên KÝ VIỄN 寄遠 (Gởi về nơi xa xăm...quê nhà) gồm 11 bài, chủ yếu là diễn tả tình cảm nhớ quê hương và thân nhân trong gia đình; bài thơ TRƯỜNG TƯƠNG TƯ (Kỳ III) được thêm vào cho đủ bộ 12 bài. Các "dị bản" thường là do người đời sau sắp xếp lại theo ý của riêng họ; tôi nghĩ thế...
Mời xem tài liệu trên mạng được gởi kèm dưới đây :

1. Ba bài Trường Tương Tư của Lý Bạch :

作品名稱長相思作品別名長相思二首
長相思三首作 者李白創作年代盛唐作品出處《全唐詩》文學體裁樂府詩
長相思⑴
其一
長相思,在長安。
絡緯秋啼金井闌⑵,
微霜悽悽簟色寒⑶。
孤燈不明思欲絕⑷,
卷帷望月空長嘆。
美人如花隔雲端。
上有青冥之高天⑸,
下有淥水之波瀾⑹。
天長路遠魂飛苦,
夢魂不到關山難⑺。
長相思,摧心肝。

其二
日色慾盡花含煙,
月明如素愁不眠⑻。
趙瑟初停鳳凰柱⑼,
蜀琴欲奏鴛鴦弦⑽。
此曲有意無人傳,
願隨春風寄燕然⑾。
憶君迢迢隔青天。
昔時橫波目⑿,
今作流淚泉。
不信妾腸斷,
歸來看取明鏡前。

其三
美人在時花滿堂,
美人去後花餘牀。
牀中繡被卷不寢⒀,
至今三載聞餘香⒁。
香亦竟不滅,
人亦竟不來。
相思黃葉落⒂,
白露濕青苔⒃。 [1]

2. Mười hai bài KÝ VIỄN của Lý Bạch :

作品名稱寄遠作品別名寄遠十一首、寄遠十二首作 者李白創作年代盛唐作品出處《全唐詩》文學體裁詩歌
寄遠
其一
三鳥別王母1,銜書來見過2。
腸斷若剪弦,其如愁思何。
遙知玉窗裏,纖手弄雲和3。
奏曲有深意,青松交女蘿。
寫水山井中4,同泉豈殊波。
秦心與楚恨5,皎皎為誰多。

其二
青樓何所在6,乃在碧雲中。
寶鏡掛秋水7,羅衣輕春風。
新妝坐落日,悵望金屏空8。
念此送短書9,願同雙飛鴻10。

其三
本作一行書,殷勤道相憶。
一行復一行,滿紙情何極。
瑤台有黃鶴11,為報青樓人12。
朱顏凋落盡,白髮一何新。
自知未應還,離居經三春13。
桃李今若為14,當窗發光彩。
莫使香風飄,留與紅芳待。

其四
玉箸落春鏡15,坐愁湖陽水16。
聞與陰麗華17,風煙接鄰里。
青春已復過,白日忽相催。
但恐荷花晚18,令人意已摧。
相思不惜夢,日夜向陽台19。

其五
遠憶巫山陽,花明淥江暖。
躊躇未得往,淚向南雲滿20。
春風復無情,吹我夢魂斷。
不見眼中人,天長音信短21。

其六
陽台隔楚水,春草生黃河22。
相思無日夜,浩蕩若流波。
流波向海去,欲見終無因23。
遙將一點淚,遠寄如花人。

其七
妾在舂陵東24,君居漢江島。
一日望花光,往來成白道25。
一為雲雨別,此地生秋草。
秋草秋蛾飛,相思愁落暉。
何由一相見,滅燭解羅衣26。

其八
憶昨東園桃李紅碧枝,與君此時初別離。
金瓶落井無消息27,令人行嘆復坐思。
坐思行嘆成楚越28,春風玉顏畏銷歇。
碧窗紛紛下落花,青樓寂寂空明月。
兩不見,但相思。
空留錦字表心素29,至今緘愁不忍窺。

其九
長短春草綠,緣階如有情。
卷葹心獨苦30,抽卻死還生。
睹物知妾意,希君種後庭。
閒時當採掇31,念此莫相輕。

其十
魯縞如玉霜32,筆題月氏書33。
寄書白鸚鵡,西海慰離居。
行數雖不多,字字有委曲。
天末如見之,開緘淚相續。
淚盡恨轉深,千里同此心34。
相思千萬裏,一書值千金。

其十一(一本無此首)Bài 11 (Một bản không có bài nầy)

美人在時花滿堂,美人去時餘空牀。
牀中鏽被卷不寢35,至今三載聞餘香36。
香亦竟不滅,人亦竟不來。
相思黃葉落37,白露濕青苔38。

其十二(一本作十一)Bài 12 (Một bản là bài thứ 11)

愛君芙蓉嬋娟之豔色39,色可餐兮難再得40。
憐君冰玉清迥之明心,情不極兮意已深。
朝共琅玕之綺食41,夜同鴛鴦之錦衾。
恩情婉孌忽為別42,使人莫錯亂愁心43。
亂愁心,涕如雪。
寒燈厭夢魂欲絕,覺來相思生白髮。
盈盈漢水若可越,可惜凌波步羅襪44。
美人美人兮歸去來,莫作朝雲暮雨兮飛陽台。 [1]

Gởi bạn đọc chơi để THAM KHẢO chớ không có ý gì hết!
Đỗ Chiêu Đức phúc đáp