1.- Sai vì không hiểu nghĩa gốc Hán Việt
*CHUNG CƯ. Từ kép nầy được thành lập theo văn phạm Hán
Việt vì tính từ đứng trước danh từ cho nên cả 2 từ phải đều là Hán Việt. Thế mà
từ chung Hán việt không có nghĩa là chung chạ mà có nghĩa là cuối cùng. Vậy
chung cư 終居 không phải là nơi
nhiều người ở chung mà là nơi ở cuối cùng, tức là mồ chôn hay nghĩa địa. Vậy phải
đổi từ chung cư thành chúng cư 衆居
thì mới ổn.
*KHẢ NĂNG. “Khả năng” 可 能 là năng lực của con người, có thể làm được việc gì
đó. Thế mà người ta đã viết và nói những câu đại loại thế nầy: Hôm nay, khả
năng trời không mưa. Khả năng con bò nầy sẽ chết vì bị bệnh… Nghe thực là kỳ cục
và đáng xấu hổ. Tôi cho rằng, người ta đã nhầm lẫn giữa hai từ khả năng 可 能
(capacité, capable) với khả dĩ 可 以 (possibilité, possible). Nhưng thôi, chúng ta nên dùng
từ thuần Việt là có thể, đúng và dễ hiểu, còn từ khả năng chỉ nên dùng để nói về
năng lực mà con người mà thôi.
*QUÁ TRÌNH. Quá 過
là đã qua, trình 程
là đoạn đường. Quá trình là đọan đường đã đi qua. Nói thế nầy là đúng: “Quá
trình thực hiện công việc đã gặp nhiều trở ngại. Nhưng tôi lại thấy trong sách
báo câu đại loại thế nầy: “Quá trình thực
hiện công tác sắp tới của tôi là sẽ rất thuận lợi.” Thực là sai lắm rồi.
Trong trường hợp nầy, phải dùng chữ tiến trình, đúng cho cả 3 thì quá khứ, hiện
tại và tương lai.
*HUYỀN THOẠI. Người viết, kể cả những người có bằng cấp
cao, không chịu học tiếng Hán, mà lại thích dùng tiếng Hán để tỏ ra “ta đây”
nên nhiều tiếng được dùng sai nghĩa một cách thực buồn cười. Thí dụ, tôi rất
thường nghe đài truyền hình, truyền thanh và báo chí nói “huyền thoại Pélé”
“huyền thoại Maradona.”. Người có học nghe thực chướng tai, nhưng người nói chẳng
ngượng miệng chút nào. Tại sao nghe chướng tai? Huyền 玄 là màu đen, nghĩa bóng là sâu xa, mờ ảo, không có thực.
Thoại 話 là câu chuyện. Vậy huyền
thoại là câu chuyện mờ mờ ảo ảo, không có thực, do truyền miệng mà ra. Thí dụ
chuyện bà Âu Cơ đẻ ra trăm trứng, chuyện ông Thánh Gióng cỡi ngựa sắt đi đánh
giặc Ân là những huyền thoại. Đằng nầy, ông Maradona, ông Pélé có thiệt 100%
sao gọi là huyền. Và 2 càu thủ đó là con người sao gọi là thoại được. Nếu muốn
dùng chũ huyền thoại để đề cao 2 cầu thủ đó thì phải nói thế nầy: “Cái tài của
2 ông nầy tưởng như chỉ có trong huyền thoại.” Ông bà mình thường nói: “Dốt thì
hay nói chữ, có đúng trong trường hợp nầy hay không?”
*HÔN PHU, HÔN THÊ. Hôn là cưới, phu là chồng, thê là vợ.
Trong chữ phu và chữ thê đã có nghĩa của chữ hôn rồi cho nên gọi hôn phu và hôn
thê là để chỉ người chồng người vợ là phi lý. Gọi hôn lễ (lễ cưới) hôn phối (lấy
nhau) thì được. Còn nói hôn phu, hôn thê thì có thể hiểu 昬夫,昬妻
là nguời chồng u mê, người vợ u mê cũng như nói hôn quân 昬君 là nhà vua u mê vậy.
2.- Sai vì cố ý sửa nghĩa gốc Hán Việt
*ĐỘC LẬP. Độc 獨
là riêng một mình, Lập 立
là đứng. Vậy theo nghĩa gốc Hán Việt, độc lập là đứng riêng rẻ một mình, không
đứng chung với ai cả. Rõ ràng từ nầy là sai nếu dùng để diễn tả tình trạng của
một quốc gia không lệ thuộc nước khác. Ngày nay, các quốc gia như thế đâu có đứng
riêng một mình mà đều có liên hệ với nhau trong các tổ chức quốc tế. Vậy từ độc
lập là sai. Tôi thấy Cụ Trần Trọng Kim, Cụ Dương Quảng Hàm dùng từ tự chủ để
thay thế từ độc lập. Như thế là rất hay. Có người bảo với tôi rằng từ độc lập
là do ông Tôn Dật Tiên đặt ra nên không thể bỏ được. Tại sao vậy? Ông Tôn Dật Tiên
thì liên quan đến ngôn của Tàu chứ có liên quan gì đến ngôn ngữ Việt Nam. Tàu
dùng sai thì chúng ta đâu có buộc phải theo cái sai của họ.
*PHONG KIẾN.封建
Phong kiến gồm 2 chữ phong tước 封爵
(ban quan tước) và kiến địa 建地
(ban đất để dựng nước). Phong kiến chỉ chế độ hoàng đế phong tước cho người có
công và cấp cho một vùng đất rất rộng để thành lập quốc gia, với quân đội, luật
lệ và chế độ thuế má riêng biệt. Chế độ nầy hiện hữu ở đời nhà Chu bên Tàu với
nước của thiên tử và nước của các chư hầu; từ nhà Tần trở đi thì chế độ phong
kiến bị bị bãi bỏ và được thay bằng chế độ trung ương tập quyền. Chế độ phong
kiến cũng tồn tại ở vài nước Âu châu như Pháp, chỉ vào thời Trung cổ mà thôi. Ở
Việt Nam không bao giờ có chế độ phong kiến (féodalité) mà chỉ có chế độ quân
chủ chuyên chế (royalisme absolu) mà thôi. Gọi chế độ quân chủ ở Việt Nam bằng
từ phong kiến là sai. Có tài liệu còn bảo rằng sự cúng tế đình chùa là tàn tích
của phong kiến thì càng sai hơn nữa.
*TIÊU CỰC, TÍCH CỰC. 消極,
積極 Hiện nay, người ta gán vào
hai từ nầy ý nghĩa tốt xấu hết sức rõ rệt. Hành động nào tốt thì được gọi là
tích cực; trái lại, hành động xấu thì gọi là tiêu cực. Thực ra, suy từ nghĩa gốc
Hán Việt thì sự gán ép như thế là sai. Tích cực, tiêu cực tự nó không có sẵn
tính chất tốt hay xấu mà chỉ ấn định cường độ của hành động mà thôi. Thí dụ,
trong một đoàn đi làm việc phước thiện thì ai tích cực là tốt và ai tiêu cực là
không tốt. Nhưng trong một bọn côn đồ đi tổ chức ăn cướp thì đứa nào tích cực lại
là đứa xấu nhất. Trong truyện Tam quốc của Tàu, Từ Thứ, mưu sĩ của Lưu Bị bắt
buộc phải về phục vụ dưới trướng của kẻ thù là Tào Tháo. Từ Thứ đã giữ thái độ
tiêu cực nghĩa là không hiến mưu kế gì cho Tào Tháo. Thái độ tiêu cực nầy của Từ
Thứ, từ cổ chí kim luôn luôn được khen ngợi; vậy tiêu cực có xấu đâu.
3.- Sai vì không phân biệt được tiếng Hán Việt với tiếng
thuần Việt (tiếng Nôm).
*QUỐC GIỖ. Tôi có đọc được câu nầy: “Ngày giỗ tổ Hùng vương là ngày quốc giỗ.”
Nói như vậy là sai. Giỗ là tiếng Nôm chứ không phải là tiếng Hán Việt nên không
thể đặt sau tiếng quốc được. Hãy bỏ tiếng ngày quốc giố mà dùng tiếng thuần Việt
là ngày giỗ cả nước, vừa đúng, lại vừa dễ hiểu, Nơi tiếng Hán, ngày giỗ là kỵ
nhật 忌日.Ở một vài tỉnh của Trung
Việt, người ta gọi ngày giỗ là ngày kỵ. Ta nên dứt khoát chỉ dùng từ Nôm là
ngày giỗ để cho thống nhất toàn quốc.
*GÓA PHỤ. Tôi đã gặp vài lần chữ góa phụ trong sách vở
báo chí để chỉ người đàn bà có chồng đã chết. Gọi như thế là sai vì tính từ góa
là tiếng Nôm, không thể đặt trước danh từ phụ được. Phải gọi người đàn bà góa
(toàn Nôm) hay người quả phụ (toàn Hán Việt) thì mới đúng.
*ĐỆ NHẤT THÁC. Ở ngõ đi vào của một địa điểm du lịch,
có hàng chữ to tướng dùng để quảng cáo “Nơi
đây có đệ nhất thác.” Viết như thế là sai. Đặt 2 chữ đệ nhất (tiếng thêm
nghĩa) trước chữ thác (tiếng chính), là theo văn phạm Hán Việt thì cả hai chữ đều
phải là tiếng Hán Việt mới được. Ở đây, tiếng thác là thuần Nôm, thế là bậy rồi.
Không có tiếng Hán Việt nào có nghĩa thác nước. Thác theo tiếng Hán là bộc bố 瀑 布,
nhưng đó lại là tiếng Hán thuần túy nghĩa là chưa được Việt hóa thành tiếng Hán
Việt nên chưa thể dùng được. Trong trường hợp nầy, nên viết “Nơi đây có thác đẹp nhất” vừa đúng, vừa
dễ hiểu lại vừa hấp dẫn khách du lịch.
4.- Sai vì không phân biệt được văn phạm Hán Việt với
văn phạm Nôm.
*X QUANG. Mỗi lần có chuyện phải vào bệnh viện là tôi
rất khó chịu khi nhìn thấy cái bảng “Phòng
X quang” Tôi khó chịu vì cái chữ X quang nầy phạm đến 2 lỗi. Một là lỗi về
ngữ pháp và một lỗi vể kiến thức khoa học. Về ngữ pháp, quang là tiếng chính, X
là tiếng bổ nghĩa. Đặt tiếng bổ nghĩa trước tiếng chính thì đích thị sử dụng
văn phạm Hán Việt rồi. Mà muốn dùng lối văn phạm nầy thì cả 2 chữ đều phải là
tiếng Hán Việt. Ở đây X là một mẫu tự latin thì sai quá đi rồi. Về khoa học,
quang 光 có nghĩa là sáng, ở đây
chỉ tia sáng. Tia sáng là tia kích thích được tế bào thị giác để tạo ra ấn tượng
sáng. Trong chuỗi sóng điện từ, các tia nầy chỉ chiếm một khoảng rất nhỏ bé với
độ dài sóng từ 400 nano mét đến gần 800 nano mét mà thôi. Trong khi đó, tia X (với
độ dài sóng từ 0,1 đến 10 nano mét) cách tia sáng khá xa, không kích thích được
tế bào thị giác thì chắc chăn không phải là tia sáng rồi. Cho nên dùng chữ
QUANG cho tia X là sai be bét về vật lý sơ đẳng của lớp 12 trung học. Tôi chẳng
hiểu ông “đại giáo sư tiến sĩ” nào đã bày ra cái tên X
QUANG đó. Tại sao không dùng chữ “TIA X” như trước đây ở miền Nam, vừa hay, vừa
đúng, vừa đại chúng, vừa thuần túy Việt Nam. Không lẽ người ta muốn dùng chữ “X
QUANG” để chứng tỏ ta đây biết “nói chữ” hay sao?
*BÊ TÔNG HÓA con đường. Bê tông là từ phụ, hóa là từ
chính. Đây cũng là văn phạm Hán Việt. Để thành lập từ kép thì cả 2 từ đơn đều
phải tiếng Hán Việt. Ở đây bê tông lại là tiếng Pháp (béton) phiên âm ra, do đó
nói bê tông hóa là sai. Ngoài ra, nghĩa cũng sai vì từ bê tông hóa được dùng phải
được hiểu là con đường đà được biến hóa thành một khối bê tông. Vì vậy, không
nên nói bê tông hóa mà nói một cách bình thường: tráng bê tông con đường, vừa
đúng lại vừa dễ hiểu.
Còn một lô HÓA rất bậy bạ trong sách vở báo chi, trong
chương trình truyền thanh, truyền hình như: nghèo hóa, giàu hóa, no hóa, đói
hóa, khôn hóa, dại hóa, vân vân. Tội nghiệp cho ngôn ngữ Việt Nam!
*NỮ NHÀ BÁO. Tôi còn nhớ, trong chiến tranh I rắc, sau
khi lính Mỹ bắn nhầm nhân viên tình báo của Ý bảo vệ người nữ phóng viên vừa được
bọn bắt cóc trả tự do, các đài truyền hình ở Việt Nam loan tin nhiều lần và nhắc
đi nhắc lại nhóm từ nữ nhà báo. Thực là quá tệ! Nhà báo là tiếng Nôm nên phải
dùng văn phạm xuôi và phải nói “nhà báo nữ” Còn muốn dùng văn phạm ngược thì phải
dùng 3 từ Hán Việt: “nữ phóng viên” hay “nữ ký giả.” Ban biên tập các đài truyền
hình không biết điều nầy sao?
*TRIỀU CƯỜNG. Từ lâu rồi, tôi thấy xuất hiện rất thường
xuyên hai từ triều cường khi người ta nói đến thủy triều trên song. Hai chữ nầy
có thể thay đổi vị trí trước sau và có hai ý nghĩa khác nhau. Cường triều 強 潮
gồm tính từ đứng trước danh từ thì tương đương với một danh từ và có nghĩa là
con nước lớn (haute marée). Triều cường 潮 強 thì lại là một mệnh đề gồm một danh từ triều và một động
từ cương và có nghĩa là con nước đang lớn lên (la marée monte). Lúc nào cũng
dùng chữ triều cường thì có thể sai hơn phân nửa trường hợp rồi. Nhưng tại sao
không nói con nước lớn (danh từ) và con nước đang lên (mệnh đề) vừa đúng lại vừa
phù hợp với trình độ và thói quen của đại chúng.
*HẠT NHÂN. Đây là từ vật lý học chỉ các hiện tượng xảy
ra bên trong cái lõi hay cái nhân của nguyên tử. Miền Nam trước đây gọi là hạch
tâm. Hạch 核 là cái hạt, tâm 心 là cái lõi hay cái nhân bên trong. Hạch tâm là cái
nhân của hạt. Đó là từ ghép theo văn phạm Hán Việt vì cả 2 từ đều là Hán Việt.
Bây giờ người ta chuyển sang dùng 2 từ Nôm thì phải theo văn phạm nôm và phải gọi
là “nhân của hạt” hay nhân hạt, cũng như bên ngoài gọi “vỏ hạt” chứ không thể gọi
là “hạt vỏ” được. Gọi phản ứng hạt nhân, là sai với văn phạm rồi. Cần phải sửa
lại: phản ứng nhân hạt mới đúng. Tuy nhiên, theo tôi, nên giữ từ phản ứng hạch
tâm thì hay hơn nhiều. Từ nầy không phải là từ của giới bình dân nên cứ giữ tiếng
Hán Việt, không cần chuyển sang tiếng Nôm.
*TẶC. Từ Hán Việt nầy đang được dùng một cách rất bậy
bạ và rất thường xuyên như bọn tôm tặc, vàng tặc, cà phê tặc, để chỉ những tên
ăn trộm. Dùng như thế là phạm vào 2 điều sai. Thứ nhất là sai về ngữ pháp: một
từ đơn thuần Việt không thể ghép với một từ đơn Hán Việt để thành một từ kép.
Thứ hai là sai về nghĩa. Tặc 賊
có nghĩa là ăn cướp, đạo 盜
mới có nghĩa là ăn trộm, thí dụ đạo văn 盜文
là ăn trộm văn của người khác. Tại sao người ta không nói một cách giản dị và
đúng là: bọn trộm tôm, trộm vàng, trộm cà phê. . . Cũng cần nói thêm về một từ
đang được nhiều báo đem dùng. Đó là từ đinh tặc để chỉ bọn rải đinh trên đường
phố. Đinh là một từ có gốc Hán Việt 釘
nhưng đã được Việt hóa hoàn toàn rồi nên ghép với từ tặc thì không ổn. Vả lại,
nói đinh tặc là sai nghĩa vì từ đó có nghĩa là bọn ăn cướp đinh; thôi bỏ từ đó
đi và nên nói một cách giản dị là “bọn rải đinh” thì hơn.
Còn vô số những từ sai khác cùng nguyên nhân trên đây
như:
Lớp trưởng, phải sửa lại trưởng lớp,
Nhóm trưởng, phải sửa la trưởng nhóm
Siêu rẻ, phải sửa lại rất rẻ
Siêu bền, phải sửa lại rất bên
Vi sóng, phải sửa lại vi ba hay sóng ngắn...
5.- Dùng từ vô nghĩa
*Bệnh viện DA LIỄU. Lần đầu tiên, thấy bảng chữ nầy,
thú thật tôi không hiểu là cái gì. Sau hỏi người bạn bác sĩ mới biết đó là “nhà
thương chữa bịnh ngoài da và bệnh hoa liễu.” Trời đất! Da là từ thuần Việt. Hoa
liễu là từ Hán Việt, sao lại nhập chung một cách kỳ cục như thế. Xét về nguồn gốc,
chữ Hán Hoa liễu 花柳
có nghĩa là ổ điếm chứ không phải là một bịnh. Về sau, người ta dùng nhóm từ
kép “bịnh hoa liễu” để chỉ cái bịnh lây qua đường tình dục cho những người hay
lui tới các hoa liễu. Dùng riêng chữ hoa liễu cho một bịnh đã là sai rồi. Bỏ
luôn chữ hoa, chỉ còn chữ liễu thôi thì càng tệ hơn nữa. Riêng chữ liễu 柳 thì có nghĩa là cây liễu. Bệnh viện da liễu tức là bệnh
viện chuyên chữa cho bịnh ở da của cây liễu !!!
*ĐẠI TRÀ. Tôi nhớ sau năm 1975, một người bạn dạy sử địa
kể rằng, lần đầu tiên đọc sách giáo khoa từ miền Bắc đưa vào gặp câu: “Cây chè
được trồng đại trà ở vùng nầy.” Anh ta hơi hoảng vì dạy sử địa bao năm mà bây
giờ không hiểu đại trà là gì. Đại là lớn, còn trà là gì? Anh về lật nhiều tự điển
kể cả tự điển Hán Việt ra tra thì chẳng thấy chữ đại trà ở đâu cả. Hỏi thăm mãi
anh mới rõ trồng đại trà là trồng rộng rãi khắp nơi. Có lẽ ai đó nổi hứng bịa
ra từ vô nghĩa đó để thay thế từ dễ hiểu và có sẵn, rồi sau đó những người khác
bắt chước nói theo. Ngôn ngữ mà biến chuyển như thế thì cũng đáng buồn.
*SỰ CỐ. Lại một từ vô nghĩa nữa nhưng đang được dùng một
cách rộng rãi để chỉ một sự rắc rối vừa mới xảy ra. Trong tiếng tiếng Hán Việt
có từ kép cố sự 故事
có nghĩa là chuyện cũ chứ làm gì có từ sự cố. Cái nghĩa mà hiện nay người ta
gán cho từ vô nghĩa đó thực là lạ lùng, không thể chấp nhận được.
*HOÀN CẢNH. Trong một bài báo, người ta viết: “Cô ấy sống hoàn cảnh lắm.” Đố các bạn
biết người ta muốn nói gì? Xin thưa, muốn nói “Cô ấy đang sống trong hoàn cảnh
bi thảm !!!” Các bạn có chịu nổi với cách viết văn như thế đó không?
*ĐÔI CÔNG. Kể từ giải túc cầu thế giới tại Nam Phi,
đài truyền hình ở Việt Nam bịa ra một từ mới, đó là từ đôi công và rất thường
được lặp đi lặp lại. Theo dõi nhiều trận, tôi mới hiểu ý của các ông trời đó muốn
nói: 2 đội chơi đôi công nghĩa là cả 2 đội đều chơi tấn công. Đôi là một cặp
(tiếng Nôm), công là tấn công (tiếng Hán Việt). Vậy đôi công là một từ bậy bạ
do người kém hiểu biết bịa ra mà hiệu quả rõ ràng là làm xấu đi ngôn ngữ của
dân tộc mình. Có người nghĩ rằng, cứ bịa ra những từ mới là làm giàu cho ngôn
ngữ. Quan niệm như thế là sai; cũng như muốn làm giàu thì kiếm được thực sự nhiều
tiền chức không phải cứ nhét vào tủ các thứ giấy tờ bậy bạ mà gọi làm giàu được.
*XÂY DỰNG. “Anh
Hai tôi quyết định xây dựng với người yêu của mình” Các bạn đừng tưởng rằng
2 người quyết định đi xây nhà để ở nhé. Không, 2 người quyết định làm đám cưới
đó. Viết văn như thế thì hết chỗ để phê bình rồi.
6.- Dùng sai nghĩa từ thuần Việt.
*NGƯỠNG. Người ít học cũng biết ngưỡng là một giới hạn
rất xác định, một gạch ngang rõ nét, và bước qua vạch ngang đó thì mọi việc sẽ
thay đổi một cách căn bản. Thí dụ, ngưỡng cửa là một đường ngang, bên trong là
phòng, bên ngoài là sân hay mái hiên chứ không còn là phòng nữa. Một thí dụ
khác: khi lượng glucose trong máu tăng lên và vượt qua ngưỡng 1% thì đường
thoát ra ngoài theo nước tiểu, còn dưới cái ngưỡng đó thì không hề gì. Ngưỡng
có nghĩa rõ ràng như thế và học sinh nào cũng biết. Thế mà mổi đêm, trong mục dự
báo thời tiết, xướng ngôn viên cứ lải nhải; nhiệt độ đạt ngưỡng từ 32 đô đến 35
độ. Nghe chịu hết nổi. Tôi không trách người xướng ngôn vì bản tin không phải
do người xướng ngôn viết mà do các đấng đại trí thức trong ban biên tập viết
nên.
*KIÊU NGẠO. Có người nhờ tôi giải thích một câu nói
trong sách báo nào đó: “Thằng A hay kiêu
ngạo người khác.” Tôi không giải thích được vì không rõ câu nầy có nghĩa: “thằng A thường tỏ ra kiêu căng với người
khác,” hay là “thằng A thường chế nhạo
người khác.” Chắc chắn cả 2 cách giải thích đều không ổn vì dùng từ kiêu ngạo
như thế là sai rồi thì không thể có cách nào giải thích câu nói cho đúng được.
*TRAO ĐỔI. Từ nầy có nghĩa là đưa qua đưa lại các vật
với nhau. Ngày nay người ta lại dùng từ nầy một cách sai lầm để thay thế cho từ
bàn bạc hay thảo luận. Thí dụ: “Để thực hiện chỉ thị, tôi đã trao đổi với đồng
chí chủ tịch”
7.- Dùng từ thiếu chính xác
*CHẤT LƯỢNG. Chất 質là
cái khối chứa bên trong một vật (matière,) lượng 量là
tính chất của cái gì có thể cân đo đếm được (quantité). Vậy chất lượng hay khối
lượng là cái chất bên trong của một vật có thể đo lường được ( masse). Thí dụ: “khối lượng hay chất lượng của một vất là 1
kilo gramme.” Thế mà ngày nay người ta dung từ chất lượng để chỉ cái tính tốt
xấu của một vật, không thể đo đếm được (qualité). Thí dụ: “Chất lượng của nước giải khát nầy kém lắm, uống không ngon má cò có hại
cho sức khỏe nữa.”
*CẢM GIÁC. 感覺
Đó là sự nhận biết của cơ thẻ do ngoại giới tác động vào các giác quan của cơ
thể. Thí dụ: “Gió về khuya gây cảm giác lạnh.
Tiếng đàn gây cảm giác êm đềm.” Ngày nay, người ta thường dùng từ cảm giác
thay cho từ cảm nghĩ. Thí dụ: “Với tình
hình nầy, anh có cảm giác thế nào?” Thực là sai một cách trầm trọng.
*THỐNG NHẤT. Thống nhất 統一
là làm biến mất tình trạng chia rẻ bắng cách gom các thứ về một mối. Ngày nay
người ta lại thường dùng từ thống nhất để diễn tả sự đồng ý, cùng chung quan điểm.
Thí dụ, người ta đã nói: “Để thực hiện tốt
chỉ thị, tôi cần thống nhất đồng chí chủ tịch.” Nói như vậy là sai.
*GIẢI PHÓNG. Giải phóng 解放
là một từ thường dùng trong lĩnh vực chính trị để chi công cuộc cởi bỏ áp bức,
trói buộc cho con người. Ngày nay, người ta lại dùng một cách sai lầm từ nầy
cho vật chất. Thí dụ: người ta nói giải phóng mặt bằng thay cho từ đúng là giải
tỏa mặt bằng.
*ĐĂNG KÝ. Đăng ký 登記
là chép vào sổ một vật được đưa đến. Thế mà ngày, người ta nói: “Tôi đã đăng ký
đi nước ngoài” Nghe như người ta sẽ gói tôi lại rồi đem gởi ra nước ngoài. Với
con người, không thể nói đăng ký mà phải nói: ghi danh hay ghi tên mới đúng.
8.- Từ vựng lộn xộn.
*LÁI XE. Đó rõ ràng là một động từ, hay đúng hơn là một
từ kép gồm một động từ và một túc từ. Tuy nhiên, ngày nay người ta cũng dùng từ
nầy để chỉ người lái xe, tức là danh từ. Vì vậy, người ta có thể nói: “Sáng
nay, lái xe đang lái xe gặp một lái xe khác cũng lái xe, cả hai lái xe cùng lái
xe về nhà.” Thực là buồn cười. Trước đây ở miền Nam, lái xe dứt khoát chỉ là động
từ, còn danh từ phải là người lái xe hay muốn nói gọn hơn thì dùng từ phiên âm
Quảng Đông (?), tài xế cũng được rõ ràng minh bạch.
*YÊU CẦU. Đây là một động từ. Thí dụ: “Tôi yêu câu anh
đi ngay.” Sau 75, tôi gặp ngay trong giáo án (tài liệu chính thức để dạy học) 2
chữ: mục đích và yêu cầu. Động từ yêu cầu đã biến hẳn thành danh từ.
*NGHIÊN CỨU SINH. Sinh 生
là tiếng Hán Việt. Dùng làm động từ thì sinh có nghĩa là sống, còn dùng làm
danh từ thì sinh có nghĩa là con người đang sống. Thí dụ học sinh là người đi học,
giáo sinh là người đi dạy. Nguyên cứu sinh là người đi nghiên cứu. Rõ ràng như
vậy, thế mà tôi đã nghe người ta nói và đã thấy người ta viết những câu như “Con tôi được đi nghiên cứu sinh tại Trung
quốc” Như thế là nói bậy vì lấy một danh từ làm động từ!
*ẤN TƯỢNG. Theo cụ Đào Duy Anh, ấn tượng 印象(impression) là cái hình tượng do ngũ quan
cảm xúc mà còn in sâu vào óc. Vậy ấn thượng là một danh từ của tâm lý học. Thế
mà ngày nay người ta đem dùng làm tính từ như “cảnh đó rất ấn tượng,” và cả động
từ nữa, như “tôi rất ấn tượng cảnh đó.” Hết sức bậy bạ
*THẦN TƯỢNG. 神像
Từ nầy có nghĩa là hình tượng cao quý như thần. Vậy đây là danh từ nhưng, cũng
như chữ trên đây, thần tượng được dùng như tính từ như “người đó rất thần tượng,” rồi cả động từ nữa “anh có thần tượng đồng chí đó không?”
*TRÊN. Rõ ràng đây là một giới từ, bây giờ lại trở
thành danh từ. Thí dự: “Cần phải báo cáo
cho trên rõ” hay “trên bảo, dưới không nghe.”
*LÀM TỐT. Tốt là một tính từ bổ túc nghĩa cho danh từ,
như hạnh kiểm tốt, sức khỏe tốt. Ngày nay tốt được dùng làm trạng từ bổ túc nghĩa
cho động từ, như làm tốt, học tốt, thay vi nói làm giỏi, học giỏi.
*LÃNH ĐẠO. Tôi không tìm thấy chữ nầy trong các tự điển
Hán Việt nhưng lại có trong tự điển của Tàu hiện nay 领导 và có nghĩa là điều
khiển, hướng dẫn con đường đi. Vậy rõ ràng đây là một động từ. Tuy nhiên ngày
nay người ta lại dùng làm danh từ. Thí dụ: “Lãnh
đạo đã chỉ thị như thế”
Sự rối loạn về từ vựng trong ngôn ngữ thực là điều rất
đáng tiếc. Từ đầu thế kỷ 20, do ảnh hưởng của tiếng Pháp, ngôn ngữ Việt Nam dần
dần được minh bạch về từ vựng nên trở nên sáng sủa và rõ nghĩa, nay có biểu hiện
rối rắm về từ vựng và trở nên tối tăm, có lẽ do mấy ông đi học bên Tàu về. Tiếng
Tàu thì rất lôi thôi về từ vựng, ai cũng rõ điều đó.
9.- Cóp tiếng Tàu đang dùng.
*LƯU BAN. Học sinh kém quá không được lên lớp thì gọi
là lưu ban. Trong tiếng Tàu hiện nay, ban 班
là lớp học nhưng với tiếng Hán Việt (gốc từ tiếng Tàu đời Đường) thì ban không
phải là lớp học mà có nghĩa rất xa lạ (ban phát, hạng thứ, đem quân trở về). Do
đó, dùng tiếng lưu ban để nói học sinh không được lên lớp thì không ổn chút
nào. Dùng chữ lưu cấp 留級
thì gần đúng nghĩa hơn. Nhưng thôi, lưu ban, lưu cấp làm chi. Mình đã có chữ
thuần Việt đã dùng từ lâu là ở lại lớp, rất hay vì phụ huynh học sinh nào cũng
hiểu được.
*TRANH THỦ. Đây là từ mới được đưa vào Nam sau 1975,
và có nghĩa là lợi dụng tình hình để làm được việc gì đó. Thí dụ: “trong chuyến
đi tham vừa qua, anh ấy đã tranh thủ kiếm chác được chút ít” Tôi đã cố tìm hiểu
xuất xứ của từ nầy và nhận ra rằng từ tranh thủ không có trong tiếng Hán Việt
nhưng hiện nay đang được dùng bên Tàu.
Việc đem tiếng Tàu hiện nay, phiên âm Hán Việt rồi nhập
vào ngôn ngữ Việt Nam là đều điều không hợp lý vì nó sẽ làm rối rắm ngôn ngữ của
mình. Nên nhớ tiếng Hán Việt có nguồn gốc tiếng Hán ở đời Đường chứ không phải
là tiếng Tàu ngày nay, đã khác khá nhiều với tiếng Tàu đời Đường, về phát âm
cũng như về ý nghĩa. Thí dụ,大家
, tiếng Hán Việt đọc đại gia và có
nghĩa là người hay gia đình có vai vế trong xã hội, trong khi đó tiếng Tàu hiện
đại đọc là dà jià và có nghĩa là tất
cả mọi người. Một thí dụ khác: 東西
tiếng Hán Việt đọc là đông tây và có
nghĩa là 2 phương hướng, trong khi tiếng Tàu hiện đại đọc là dòng xì và có nghĩa là hàng hóa. Cho nên tiếng Tàu ngày nay phải
được xem là ngoại ngữ đối với ngôn ngữ Việt Nam và không nên nhập một cách bừa
bãi vào tiếng Việt.
10.- Đảo ngược từ kép làm sai nghĩa.
*ĐIỂM YẾU. Từ kép nầy gồm 2 tiếng đơn ghép theo văn phạm
Nôm có nghĩa là cái điểm không mạnh. Có người đem đảo ngược lại thành yếu điểm
theo văn phạm Hán Việt thì lại có nghĩa hoàn toàn khác hẳn: điểm rất quan trọng.
*THẤP ĐIỂM. Từ nầy thường được dùng sai một cách thực
buồn cười. Cao là tiếng Hán đã được Việt hóa, nên có thể dùng theo văn phạm Hán
hay Nôm cũng đều có một nghĩa duy nhất là “ở
phía bên trên.” Thí dụ: điểm cao và cao điểm cùng một nghĩa. Trong khi đó
thấp lại có hai nghĩa khác nhau tùy theo tiếng Hán hay Nôm. Theo tiếng Nôm thì
thấp có nghĩa là ở bên dưới, nhưng với tiếng Hán thì thấp có nghĩa là ẩm ướt..
Vì vậy, khi nói điểm thấp thì đó là chỗ ở dưới thấp, nhưng khi đảo lại thành thấp điểm thì có nghĩa là nơi ẩm ướt. Thực là buồn cười khi đọc
báo thấy: “giao thông giờ cao điểm, giao
thông giờ thấp điểm” hay “dùng điện
lúc cao điểm và dùng điện lúc thấp điểm”
11.- Đảo tư kép bừa bãi và không cần thiết.
*XA XÓT. Tôi đọc được cách đảo kỳ cục trong một tác phẩm
bán rất chạy trong thời gian gần đây. Nguyên câu đã viết là: “…ông Năm xa xót nhìn hai đứa trẻ…..” Đảo
từ như thế là bừa bãi, chẳng nhằm lợi ích gì. Với văn vần thì có thể tạm chấp
nhận sự đảo từ cho hợp thi luật; nhưng với văn xuôi thì không thể đảo từ một
cách bừa bãi được.
Còn rất nhiều từ kép bị đảo xuôi đảo ngược vô tội vạ nữa:
Nguy hiểm / hiểm nguy; đơn giản / giản
đơn; khai triển / triển khai; từ chối / chối từ; bảo đảm / đảm bảo; bền vững /
vững bền; minh chứng / chứng minh; phục hồi / hồi phục; biệt ly / ly biệt; tha
thướt / thướt tha; thẩn thờ / thờ thẩn; tranh đấu / đấu tranh; thơ ngây / ngây
thơ; xúc cảm / cảm xúc; quang vinh / vinh quang; kinh hoảng / hoảng kinh; ái ân
/ ân ái…
Ôi thôi, nhiều quá, quá nhiều, không sao kể hết ngay tức
thì được.
Có lẽ trên thế giới, không ngôn ngữ nào có các từ bị đảo
ngược lung tung như ngôn ngữ Việt Nam hiện nay.
Cứ cái đà nầy, tôi e có ngày mình sẽ đọc được một câu
thế nầy: “Người sĩ-chiến sinh-hi ngoài trận-mặt
để vệ-bảo quốc-tổ, dân-nhân ở phương-hậu phải tỏ lòng ân-tri với các hùng-anh
sĩ-liệt”!!!
12.- Ghép từ bừa bãi.
*KÍCH CẦU. Đó là nhóm từ “kich thích nhu cầu tiêu thụ”
được ghép cho ngắn lại làm cho nghĩa trở thành hết sức tối tăm. Nghe từ ghép
“kích cầu,” tôi cứ tưởng công việc của mấy ông công chánh đang thực hiên ở dưới
sông. Cách ghép nấy nghe rất chướng tai nhưng lại rất phổ biến hiện nay.
*GIAO HỢP. Có một chuyện ghép từ rất khôi hài mà người
ta thường hay kể lại. Chuyện thế nầy: Đồng chí giám đốc phái một nữ nhân viên
qua một xí nghiệp bạn với lời dặn đò cẩn thận: “Cô hãy sang đó và cố gắng thuyết phục cho họ chịu giao hợp nhé.” Ý
đồng chí giám đốc muốn nói giao hợp có nghĩa là giao thiệp và hợp tác; không biết
cô nữ nhân viên có hiểu đúng ý đồng chí giám đốc hay không
13.- Dùng từ dao to búa lớn
*CHIẾN. Đá bóng chỉ là một trò chơi thể thao thuần túy
thế mà các xướng ngôn viên và bình luận viên của chúng ta luôn luôn gọi đó là
cuộc chiến. Cuộc chiến thì phải có đổ máu, phải có quyết tâm tiêu diệt kẻ thù
hay ít ra làm cho kẻ thù phải khốn đốn. Một hôm đi ngang qua sạp báo tôi thấy một
tờ báo chạy một cái tựa rất lớn ở trang nhất: “nội chiến ở bán đảo Ibérique.” Tôi giật mình không hiểu tại sao giữa
hai nước anh em Tây ban nha và Bồ đào nha lại nổ ra chiến tranh. Tôi vội vã móc
tiền ra mua ngay tờ báo đó rồi chạy nhanh về nhà để đọc. Đọc xong, tôi ngã ngửa,
Thì ra, trong một cuộc bốc thăm do FIFA tổ chức, hai đội tuyển bóng tròn của
Tân ban nha và Bồ đào nha gặp nhau trong cuộc chơi play-off. Thế mà người ta
dám gọi là nội chiến. Xin chào thua cách dùng ngôn từ Việt Nam ngày nay.
*CHIẾN ĐẤU. Tôi đã từng nghe nói: “Chúng ta phải cương quyết chiến đấu với tư tưởng sai trái.” Nghe
thực đáng sợ.
*NGÀI. Đã có lúc, nhân danh lập trường giai cấp, lập
trường ta bạn thù, người ta gọi các lãnh tụ của nước tư bản bằng thằng nọ thằng
kia. Bây giờ, chúng ta chơi với tư bản thì ai người ta cũng gọi bằng “ngài.”
Ngài thủ tướng, ngài đại sứ, ngài nghị sĩ, vân vân. Nghe có vẻ nịnh bợ quá đi
thôi.
*THAM QUAN. 參觀
Đi chơi để ngắm cảnh thì gọi là tham quan, có nghĩa là tham dự vào một công cuộc
xem xét, nghiên cứu. Gọi thế mới hách chứ.
*NGHIÊN CỨU SINH. Đi học thêm ở ngoại quốc, chuyện quá
tầm thường, nhiều khi lợi dụng làm chuyện bậy bạ, lại tự tâng bốc mình là đi
nghiên cứu.
14.- Dùng từ Hán Việt thay từ Nôm một cách kỳ cục.
*KHẨN TRƯƠNG. Một đồng nghiệp của tôi định cư tại Uc từ
năm 1975. Cách đây vài năm, thầy về Việt Nam lần đầu tiên và dùng tàu hỏa ra Hà
nội thăm quê. Giữa khuya, tàu đến ga Đồng hới thuộc tỉnh Quảng bình. Đang ngủ
say, bỗng thầy giật mình tỉnh dậy vì tiếng loa “… hành khách khẩn trương lên.”
Thầy hoảng hồn phóng xuống giường, chạy ra khỏi buồng của toa xe vì tưởng xe trật
đường rầy hay có hỏa hoạn xảy ra. Nhưng không, nhân viên trên toa tàu chỉ nhắc
nhở hành khách nào xuống tàu ở ga nầy thì nhanh lên, thế thôi! Tội nghiệp, thầy
Phụng hoảng hồn cũng phải vì ở miền Nam trước đây, ngươi ta ăn nói một cách giản
dị và chỉ hay dùng tiếng Hán Việt trong văn chương và khi có việc nghiêm trọng
mà thôi.
*BÁO CÁO. Một người bạn đã nói với tôi: “Báo cáo anh,
chiều nay tôi phải lên xe về Hà nội.” Tôi nghe chữ báo cáo thì cứ tưởng anh ta
đang nói với một vị tư lệnh trên chiến trường.
15.- Thay từ Hán Việt thông dụng bằng từ Nôm bất hợp
lý.
*MÁY BAY LÊN THẲNG. Cái loại máy bay có thể bay lên mà
không cần phi đạo, ngày trước người miền Nam, từ thành thị đến thôn quê, từ người
có học đến người thất học, đều gọi bằng một cái tên rất gọn là trực thăng. Sau
1975, người ta sửa lại là máy bay lên thẳng, không hiểu lý do tại sao.
*LÍNH THỦY ĐÁNH BỘ. Ngày trước miền Nam có một binh chủng
đặt tên là Thủy quân lục chiến. Đó gần như là một danh từ riêng. Sau 75 thì sửa
lại là lính thủy đánh bộ cho có vẻ nôm na, dù thủy và bộ vẫn là tiếng Hán Việt.
Có người bảo rằng cái gì của ta thì dùng tiếng Hán Việt mới bảnh, còn cái gì của
kẻ thù thì dùng tiếng Nôm để làm giảm giá trị. Nếu quả đúng như thế thì đó thực
là một quan niệm hết sức sai lầm và xúc phạm một cách trầm trọng đến giá trị tiếng
thuần Việt của dân tộc mình.
16.- Chưa có được những từ thỏa đáng cho khoa học hiện
đại.
*COMPUTER,dịch là máy vi tính là không thỏa đáng. Máy
vi tính có nghĩa là máy dùng làm những phép tính rất nhỏ. Chức năng của
computer không phải chỉ như thế. Xin để dành cho các nhà chuyên môn về kyx thuật
và các nhà ngôn ngữ nói chuyện với nhau để chọn từ cho chính xác.
*INFORMATION TECHNOLOGIE, dịch là tin học, cần xét lại
2 điểm. Thứ nhất, tecgnologie là một kỷ thuật, dịch bằng một chữ học trơ trọi
thì không ổn. Thứ hai, muốn dùng từ kép “tin học” thì 2 từ đơn phải đều là tiếng
Hán Việt. Nhưng tin là tiếng Nôm còn tín mới là tiếng Hán Việt.
*ON LINE, OFF LINE, dịch là trực tuyến và ngoại tuyến
thì e không ổn. Ở tiếng Mỹ, on và off là 2 từ đối nghịch nhau thì dịch sang tiếng
Việt cũng cần 2 từ đối nghịch nhau mới được. Cho nên dùng 2 từ trực và ngoại
thì chẳng ổn chút nào. Một lần nữa, chúng ta chờ đợi sự bàn bạc giữa các chuyên
viên kỹ thuất và ngôn ngữ.
Sưu tầm
(Trích TrieuThanh Magazine)
Nguồn:
https://dactrung.com/blog/bien-khao/nhung-tu-dung-sai-trong-ngon-ngu-viet-nam/ryson/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét