BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Tư, 7 tháng 3, 2018

ĐỘNG ĐÌNH HỒ, CỘI NGUỒN CỦA TỘC VIỆT - Trần Thị Vĩnh Tường

Nguồn: 
http://caobaquat.com.vn/?cao-ba-quat=ban-can-biet&id=769&dong-dinh-ho-coi-nguon-cua-toc-viet.html

     Bản đồ Lĩnh Nam thời Trưng Vương (Bản đồ Bai Yueh (Bách Việt)

ĐỘNG ĐÌNH HỒ - CỘI NGUỒN CỦA TỘC VIỆT

Hồ Động Đình ở đâu?

Ở miền Nam sông Dương Tử, hồ Động Đình họp thành bởi nhiều hồ lớn. Mỗi năm vào mùa lũ nước sông Dương Tử chảy vào hồ, làm tăng diện tích hồ từ 2.800 km² đến 20.000 km². Quân Sơn, một đảo nằm giữa hồ có 72 đỉnh núi, rộng 1 km nổi tiếng với các loại trà thơm, hoa lá quý hiếm tươi tốt quanh năm. Cảnh đẹp thần tiên, nhiều truyện tích rất u linh chích quái, liêu trai chí dị. Từ hàng ngàn năm, nhắc đến Tiêu Tương Hồ Nam, là nhắc đến tiên cảnh Động Đình Hồ, đến “Bát cảnh Tiêu Tương” của vùng Giang Nam [Việt].

Động Đình Hồ Ngoại Sử

Từ miền Hoa Bắc [Hán] sa mạc, người thuộc chủng Hoa Hạ [Hán tộc] ào ào lưng ngựa triền miên chinh phục hết miền đất này đến miền đất khác. Người Hoa Bắc [Hán] nổi tiếng với nhiều lý thuyết gia, nhưng văn chương rất khô khan. Trái lại, miền Nam sông Dương Tử [Việt], nhất là miệt Động Đình sông nước mây khói mơ màng, nổi tiếng nhất với hai con sông Tiêu và Tương chảy vào lòng hồ, đã là nguồn cảm hứng bất tận cho thơ văn, hội hoạ, âm nhạc…

Thứ Hai, 5 tháng 3, 2018

TRƯƠNG CHI - Nguyễn Khôi


         
             Nhà thơ Nguyễn Khôi

                              TRƯƠNG CHI 
                           (Tặng BNN & LXQ)
         
Lời dẫn :
Hồi còn nhỏ (trước 1945)  Nguyễn Khôi tôi theo mẹ đi chợ Dầu (Phù Lưu, Từ Sơn , Bắc Ninh) đã mê mẩn chen vào xem nghe "Hát Xẩm" của một bà lão cùng với ông chồng mù lòa kéo "hồ" (nhị) đệm theo rất  chi là mùi mẫn, rơi lệ... đó là lối hát "Xẩm chợ" kể chuyện sự tích Trương Chi ...Ông ngoại tôi bảo : Trương Chi- Mỵ Nương là chuyện cổ tích có thật gắn với sông Tiêu Tương ở quê mình (miền quê Quan Họ- Kinh Bắc xưa), xưa là vì tên cô gái là Mỵ Nương- cái tên con gái có từ thời Vua Hùng dựng nước Văn Lang ta , Lầu Tây chính là đồi Hồng Vân (đồi Lim) nơi trai gái các Làng ra giêng thường đến hẹn lại lên về đây thi hát Quan Họ (hội Lim) để tưởng nhớ mối tình Trương Chi- Mỵ Nương và để "kết bạn tình" (trai gái Quan Họ chỉ được yêu nhau chứ (kiêng) không được lấy nhau (có lẽ là vì : kết hôn là mồ chôn luyến ái, tình chỉ đẹp khi còn dang dở ?)...
  Vừa qua bạn La Thụy (La Gi- Bình Thuận) có gửi cho Nguyễn Khôi nguyên tác lời hát xẩm Trương Chi, so với lời hát của NSND Hà Thị Cầu thì còn thấy khá nguyên vẹn, có khác chăng là mấy chữ luyến láy (đệm thêm đưa lời) mà thôi, NK xin chép lại để mọi người cùng thưởng thức áng thơ cổ quý giá này :
    "Nghĩ xa xôi lại nghĩ gần
Làm thân con Nhện mấy lần vương tơ."...
                  *

Thứ Bảy, 3 tháng 3, 2018

THƠ GỞI ANH, NỖI NHỚ... - Thơ Tịnh Đàm


    
    Nhà thơ Tịnh Đàm

 
   THƠ GỞI ANH
   (Thân tặng bác G.T.Điệp)

   Từ khi,
   Cái ngã đau đời
   Thấy anh dần vắng
   Nụ cười trên môi !
   Mắt nhìn,
   Thoáng những xa xôi
   Phải chăng,
   Đã "Ngộ" ra rồi nạn căn !?!

   Bước chân,
   Cùng nỗi nhọc nhằn.
   Sẽ quên đi hết...
   Băn khoăn của lòng.
   Lại về
   Vui
   Với người mong
   Nhắp thêm chút rượu,
   Say...
   Trong nghĩa tình.


   NỖI NHỚ...
   (Cho người xưa Kim Chi Gò Công)

   Vẫn biết lên đồi
   Chạm tay, mây trắng
   Anh còn đứng lặng
   Ngước mặt... trông vời .
   Người từ xa xôi
   Tìm về chốn cũ
   Dáng xưa đâu rồi ?
   Tiếc đời lữ thứ !
   Cuộc tình đã lỡ
   Một mình qua đêm !
   Sương ướt bên thềm
   Dài thêm nỗi nhớ !

          TỊNH ĐÀM
   (Hóc Môn, TP. HCM)

Thứ Sáu, 2 tháng 3, 2018

RỪNG DẦU TÂN LÝ, CÂY ME TÂY TUỔI ĐẦU BÌNH TUY - Phan Chính


        

                         RỪNG DẦU TÂN LÝ

        Nay còn sót lại một cụm rừng nguyên sinh khoảng trên ba hecta loại cây dầu lông ở gần khu Mã Thánh, thuộc làng Tân Lý (Tân Bình- La Gi). Những cây cổ thụ loại dầu lông có đến tuổi trên trăm năm, chứng nhân sự biến thiên của một vùng đất đang chuyển dần đến ngưỡng cửa đô thị hóa. Dầu lông còn gọi là dầu rái, dầu bao, chò lông…có cây cao đến 40 mét, tán rộng và đường kính khoảng 80cm. Còn có loại cây dầu cát, lá nhỏ hơn dầu lông, mặt lá mịn trơn, thích hợp trên vùng đất cát. Người dân địa phương Tân Hải, Tân Thiện trước đây sống nghề khai thác dầu bằng cách khoét ở phần gốc của thân cây làm miệng lấy nhựa dầu để bán cho ngư dân đóng thuyền, phủ lên vật dụng tre mây. Cách quản lý ngày xưa bằng sự tự giác của người dân trong vùng, miệng dầu của ai nấy lấy, dù trong rừng vắng mà không trộm cắp của nhau. Có khi phải dùng vỏ cây tràm đốt lên để kích thích nhựa chảy ra nhiều hơn. Dầu lông là nguồn nguyên liệu đặc biệt và không thể thiếu của một thời chưa tiếp xúc với những điều kiện khoa học hiện đại.

THẦY LÊ MẬU TÂM, GIÁO SƯ DẠY MÔN TRIẾT TRƯỜNG TRUNG HỌC NGUYỄN HOÀNG - Đoàn Đức


        

Thầy Lê Mậu Tâm
Dạy Triết lớp Đệ Nhất C (Lớp 12) Trung Học Nguyễn Hoàng Quảng Trị niên khóa 1966-1967

Trường trung học Đệ Nhị Cấp Nguyễn Hoàng cho đến hè năm 1966 chỉ có lớp Đệ Nhất ban A và ban B. Học sinh ban C sau khi đậu Tú Tài bán phần (Tú Tài I) nếu không chuyển qua ban khác, muốn tiếp tục học ban C thì phải vào Huế học ở trường Quốc Học (nam) hay trường Đồng Khánh (nữ).
Sau khi thi đậu, tôi và Nguyễn Văn Quang đem toàn bộ hồ sơ học sinh cùng với giấy giới thiệu chuyển trường của thầy Hiệu trưởng Thái Mộng Hùng đem nạp vào trường Quốc Học. Trường Quốc Học không mặn mà với học sinh Quảng Trị và chúng tôi cũng không có duyên với trường Quốc Học nên Quang và tôi (là hai người không muốn vào Huế học vì điều kiện kinh tế) ôm hồ sơ về lại trường Nguyễn Hoàng, thuật chuyện với thầy Hùng. Sau khi lắng nghe nỗi lòng ấm ức của chúng tôi, thầy gật đầu quyết định mở lớp Đệ Nhất C. Tôi và Quang mừng như hồi còn nhỏ mừng mẹ đi chợ về. Vấn đề không phải là trước đây không mở được lớp Đệ Nhất ban C mà vì không đủ sĩ số và thiếu một giáo sư ban Triết tốt nghiệp Đại học Sư phạm. May thay, năm này có thầy Tâm là giáo sư môn Triết, tốt nghiệp Đại học Sư phạm về dạy, và sĩ số chúng tôi là 28 người gồm hai ban Anh văn và Pháp văn. Vậy lớp Đệ Nhất C chúng tôi là lớp đầu tiên, và trường Nguyễn Hoàng trở thành trường Đệ Nhị Cấp có đầy đủ các ban. Xin cám ơn thầy Ký hiệu trưởng trường Quốc Học lúc bấy giờ, là người tạo nên sự về lại trường Nguyễn Hoàng của chúng tôi.

Thứ Năm, 1 tháng 3, 2018

LỤY TÌNH - Thơ Trần Mai Ngân



      Nhà thơ Trần Mai Ngân


     LỤY TÌNH 

     Em hay nói và luôn hay viết
     Em nhớ anh nhiều... em nhớ anh
     Và yêu anh cũng rất nhiều nhiều...
     Dẫu biết nhàm... anh chẳng cần đâu

     Câu tin nhắn chơ vơ úa sầu
     Nằm yên lặng cố dằn tiếng nấc
     Đến một lúc nỗi đau chất ngất
     Em lạnh lùng từ bỏ rời xa

     Em đã ngu ngơ cả thật thà
     Cứ vụng nghĩ mình yêu là đủ
     Nhưng vốn dĩ cuộc đời mới cũ
     Anh si mê hương sắc rong chơi

     Em trả lại và mãi xa rời
     Về sau... về sau... chẳng còn đâu
     Câu nói yêu anh ngậm đắng sầu
     Sẽ im bặt và em mất hút

     Có còn lại chỉ là một chút
     Chút dư hương kỉ niệm hôm nay
     Có bao giờ anh nhớ những ngày
     Em hay nói nhớ anh nhiều lắm...

     Thôi đã hết câu văn dấu chấm
     Trả đời nhau lận đận ngày qua
     Nhạt nhoà thôi em bước vội xa
     Ngăn nước mắt vì ai rơi xuống !

                             Trần Mai Ngân
                                 9-2-2018

KINH VÔ THƯỜNG (tt) - Thơ Võ Thạnh Văn


   


   KINH VÔ THƯỜNG (tt)

   [031]
   xa nguồn nước có buồn trôi
   xa nhau người có bồi hồi nhớ mong
   những con hải tước bên cồn
   ngẩn ngơ kêu khản giọng buồn đục sương

   [032]
   chợt thèm đôi mắt cá ươn
   môi chùm chín bói - má hường ủng phai
   đồng tiền duyên lúm gió vay
   đôi chân liễu ốm - nhánh tay trúc gầy

   [033]
   mai về chất đá chờ mây
   chép thơ đợi gió trăng gầy qua song
   ai nghiêng gối mộng se lòng
   chuyện xưa ngày cũ bòng bong rối bời

   [034]
   thuở trăng li dị mặt trời
   có ta nhân chứng góp lời phân bua
   mặt trời gay gắt hờn thua
   trăng non nũng nịu chuốt bùa mây se

   [035]
   vòng tay mãi đợi người về
   chuyền nhau hơi ấm lời thề dở dang
   hoa từ lạc bướm lang thang
   bướm tìm hoa dẫu phũ phàng gió sương

                                          Võ Thạnh Văn

CHÙM THƠ TỨ TUYỆT XUÂN MẬU TUẤT CỦA NGUYỄN KHÔI


     
          Nhà thơ Nguyễn Khôi


1- LÒ ĐÃ ĐỐT

 Lò đã đốt... lửa phừng lên "vĩ đại " ?
 Củi gộc, gốc tre... đâu chỉ mấu với cành
 "Chống tham nhũng"... lũ Quan tham rất hãi
 Chức quyền cao "ghế" đã thấy rung rinh.

 2- LỄ HỘI
 Lại lễ hội... đi cầu tài, cầu lộc
 Phục suốt đêm mua dấu "ấn đền Trần"
 Chỉ vì tiền, chúng diễn trò lừa bịp
 Bán cả cái linh thiêng còn sót của Thánh thần.

 3- VUI LẬP NGHIỆP
 Trên hồ Tây đang đua Hội thuyền Rồng
 Ở dưới phố đầy Quán bia nhậu nhẹt
 Dân mình sướng thỏa ăn chơi, nói phét
 Quyết phen này "lập nghiệp"- 4 chấm không.

CÒN ĐƯỢC CHÚT TÌNH, KHÔNG ĐỀ - Thơ Tịnh Đàm


      
            Nhà thơ Tịnh Đàm


     CÒN ĐƯỢC CHÚT TÌNH

     Ngõ hồn tôi
     Mãi trâm tư
     Bao nhiêu ước vọng
     Đã như... sương mù !
     Lặng nghe
     Đời khát lời ru
     Bông hoa nào
     Rụng
     Nẻo phù vân... xưa ?
     Sầu đong
     Biết mấy cho vừa
     Một tôi
     Tung tẩy...
     Nắng mưa phận mình !
     Cũng may
     Còn được chút tình
     Về thương lại
     Kiếp nhân sinh...
     Vơi đầy.

Thứ Tư, 28 tháng 2, 2018

DỆT THƠ TIN MỪNG - Bóng Tà Dương, Nghiệp Bùi, Đức Hạnh



   DỆT THƠ TIN MỪNG

   Thứ bảy sau Chúa nhật 1 Mùa Chay 
   Ngày 24/02/2018
   Phúc Âm: Mt 5, 43-48
   "Các ngươi hãy nên trọn lành như Cha các ngươi trên trời"

   YÊU KẺ THÙ (Mt 5,43-48)

   Yêu hàng đồng loại lý đương nhiên
   Mến cả thù nhân mới thực hiền
   Ngược đãi oán hờn lui xuống chót
   Khoan hoà tha thứ đặt ưu tiên
   Làn mưa tưới cả người hung bạo
   Ánh sáng soi cùng kẻ đảo điên
   Quý trọng quân hằn, tâm đại lượng
   Nên con cái Chúa, Đấng siêu huyền
            Bóng Tà Dương - Nghiệp Bùi

   HỌA:

   ĐI TRÊN ĐƯỜNG CHÚA

   Tỏ tính yêu đời lẽ tự nhiên
   Rộng lòng thứ lỗi tỏ nhơn hiền
   Ngông cuồng độc ác mù tâm địa
   Bác ái nhân từ đẹp cảnh tiên
   Chân lí Yêu Người ngời biển cả
   Niềm tin Kính Chúa đẹp cơ duyên
   Theo đường Thánh Giá thương thù địch
   Tạo hóa Thiên ân rất diệu huyền... 
                                     Đức Hạnh
                                    24 02 2018

Thứ Hai, 26 tháng 2, 2018

DÒNG SÔNG - Trần Mai Ngân





DÒNG SÔNG

Dòng sông cứ trôi chảy mãi không bao giờ ngưng nghỉ .
Con sông ai biết được có buồn vui, có cô đơn và hạnh phúc. Nó cứ lặng lẽ khi đầy, khi vơi. Nó cứ cô độc trong miền miên viễn riêng tư của bốn mùa...

Thứ Bảy, 24 tháng 2, 2018

CHÙM THƠ CHU VƯƠNG MIỆN

     

    XUÂN XUÂN

     mấy chục năm không viết thơ xuân
     năm tàn tháng lụn cứ qua dần
     mới đó mà đã gần tám bó
     bây giờ xuân lù lù sau lưng
     xuân của thiên nhiên của đất trời
     hết đông xuân lại đến bên người
     người vui hay khổ xuân o biết
     bốn mùa bát tiết tiếp nhau trôi

     một năm 365 ngày
     xuân đi rồi xuân đến
     tết đến rồi tết đi
     một năm mười hai tháng
     thảo nguyên cỏ xanh rì
     phía này sơn ca hót
     vọng lại tiếng từ qui
     ngồi quên trên bãi cỏ
     gió ngàn qua vi vu
     chung quanh hoa rừng nở
     cánh bướm bay nhởn nhơ
     xa xa tràng pháo tết
     xuân đến tự bao giờ ?

Thứ Tư, 21 tháng 2, 2018

TÂM LÝ NGÀY TẾT - Phạm Quỳnh


         

                        TÂM LÝ NGÀY TẾT
                                        Phạm Quỳnh

Lời dẫn của Phạm Tôn: 
Bài này Phạm Quỳnh viết bằng tiếng Pháp nhan đề Psychologie du Tet, đăng trên phần Pháp văn của Tạp chí Nam Phong số 149-1924, sau này có in trong Tiểu luận 1922-1932 (Essais 1922-1932) và đã được nhà văn Nguyên Ngọc dịch rất đạt ra tiếng ta, xuất bản năm 2007. Nhưng ở đây, chúng tôi giới thiệu với bạn đọc bản dịch của Tiến sĩ Phạm Thị Ngoạn, con gái Phạm Quỳnh, và là tác giả luận văn Tìm hiểu tạp chí Nam Phong để tạo thêm một nét hứng thú trong ngày Tết này.

Những dịp để cho cả một dân tộc cùng nhau hướng về một tình cảm, một tư tưởng, để cùng nhau rung động…thật là hiếm có. Thường phải có những sự xẩy ra khá quan trọng, có ảnh hưởng đến tính mạng cả một đoàn thể, để ai nấy đều phải để hết tâm trí vào.
Dân Việt Nam ta có cái may mắn, cái đặc ân là có một dịp vui chung cho tất cả, dịp ấy cứ đều đặn mỗi năm một lần vào ngày đầu xuân năm mới. Về dịp này tất cả đàn con đất Việt, từ người giàu cho đến kẻ nghèo, từ người tiên tiến cho đến kẻ thủ cựu đều một lòng một dạ, cùng nhau hớn hở đón chúa xuân, trong mấy ngày lễ long trọng, trang nghiêm mà cũng rộn ràng náo nhiệt biết bao! Ngày ấy là ngày TẾT.

Thứ Ba, 13 tháng 2, 2018

AN TRÚ - Thơ Trần Mai Ngân


 

    AN TRÚ

   Tóc anh bạc khói sương
   Lòng em luôn xanh thắm
   Yêu thương thật vô nhường
   Nồng nàn như xuân tết

   Tháng ngày tờ lịch hết
   Để ta lại bắt đầu
   Đánh dấu trang tình yêu
   Ngọt ngào tươi màu mới

   Thời gian luôn bước tới
   Riêng ta ở chỗ này
   Xin an trú thật đầy
   Như bao ngày ta đã

   Mùa xuân như tình xuân
   Dù đôi khi nghiêng ngả
   Ta vẫn hết một lòng
   Yêu người như thế đó

   Tóc anh trắng màu mây
   Hoa nắng tròn mê say
   Tết tình yêu yến tiệc
   Lòng phải lòng ngất ngây...

                  Trần Mai Ngân
                     13-2-2018

Thứ Hai, 12 tháng 2, 2018

THẦY HỒ SĨ CHÂM, GIÁO SƯ DẠY ANH VĂN TRƯỜNG TRUNG HỌC NGUYỄN HOÀNG QUẢNG TRỊ - Đoàn Đức


     

Thầy Hồ Sĩ Châm
Dạy Anh văn lớp Đệ Nhất C (Lớp 12). NK 1966 – 1967
 
Năm lớp Đệ Nhất C, thầy Hồ Sĩ Châm dạy chúng tôi môn Anh văn, sinh ngữ 1. Được biết thầy tốt nghiệp chuyên ngành Cử nhân Văn chương Anh Mỹ (B.A. in English Literature) và sinh ngữ phụ là Pháp và Đức ngữ, tại Hoa Kỳ. Thầy xuất thân trong dòng tộc Hồ Sĩ có tiếng ở Quảng Trị nên chúng tôi rất ngưỡng mộ. Ngày đầu tiên thầy vào lớp, trông thật hiền lành, dáng người trung bình, nhỏ nhắn. Thầy đọc và giảng bài như các thầy tốt nghiệp ĐHSP Huế hay Sài Gòn chứ không có vẻ “Mỹ” chút nào cả, chỉ có khác là thầy nói tiếng Anh rất tự nhiên và lưu loát. Năm học lớp Đệ Nhất C, bạn thân của tôi, Đỗ Tư Nghĩa vì buồn tình nên xin học miễn chuyên cần, chỉ tới lớp học môn Triết mà thôi chỉ khi nào thi Đệ Nhất Lục Cá Nguyệt hay Đệ Nhị Lục Cá Nguyệt (tức học kỳ I và II) thì mới có mặt đầy đủ để thi các môn. Tôi thoạt đầu thấy trống vắng và buồn vì Nghĩa ngồi cùng bàn sát bên trái tôi suốt sáu năm liền; nay năm cuối chỉ còn lại mình tôi. Thế nhưng rồi cũng quen vì đã có người khác thay thế ngồi bên cạnh. Bấy giờ tôi phải giơ tay hoạt động nhiều hơn và lên bảng nhiều hơn vì lớp chỉ còn 13 người mà tiếng Anh là môn chính, hệ số 3, sáu giờ một tuần.

LA GI ĐẤT CỦA NGƯỜI TỨ XỨ - Phan Chính


            

            LA GI ĐẤT CỦA NGƯỜI TỨ XỨ

         Lần theo bước chân của Tư nghiệp Nguyễn Thông khi nhận chức Doanh điền sứ Bình Thuận (1877) đã lặn lội tận cùng núi cao hiểm trở từ phía tây Bình Thuận qua hướng bắc Biên Hòa, hết lòng với công việc của nhà quy hoạch. Những địa danh có từ trước đó sống lại trên trang sớ dâng vua "Nghĩ thỉnh thượng du đồn khẩn sự nghi sớ" (sớ xin lập đồn điền khai khẩn vùng thượng du). Khi đề xuất mở tuyến đường nối biển với vùng cao, Nguyễn Thông có nói đến các địa danh như La Di thuộc Hàm Tân và ước lượng quãng đường dài tính bằng đêm xe trâu đi. Rồi ở vùng lân cận đã có Bác Dã (Đồng Kho), Lạc Hải (Biển Lạc) thuộc Tánh Linh và Cao Cương (La Ngư), Thiển Môn (Cửa Cạn) thuộc Hàm Thuận Nam, Hàm Tân có Canh Man (Sông Phan ?)…Tất nhiên có những cơ sở từ sử liệu Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán nhà Nguyễn (1802- 1845) mà Nguyễn Thông tiếp tục trong quá trình khảo sát thực địa. 

ĐIỆU RU VỎ ỐC - Thơ Quang Tuyết





   ĐIỆU RU VỎ ỐC

   Em trở về bên biển
   Hoà điệu cùng cô đơn
   Biển trào dâng không dứt
   Nỗi lòng như sóng vờn


   Một mình trên biển vắng
   Nhặt tìm những bước chân
   Bên thềm xuân đã đến
   Thuyền vẫn còn mênh mông

   Vùi đêm trong tiếng sóng
   Vùi tình trong cơn mê
   Vùi anh trong quá khứ
   Vùi mình trong tái tê

   Biển níu chân em lại
   Bằng bọt bèo sóng hoa
   Anh níu đời em mãi
   Bằng bóng mây chiều xa

   Đời xin là nốt lặng
   Dòng nhạc còn say mơ
   Người xin thôi hò hẹn
   Nắng tàn soi bóng mờ

       Đinh Quang Tuyết
        VT sáng thứ bảy

Chủ Nhật, 11 tháng 2, 2018

ĐÊM XUÂN CA - Thơ Hoành Châu


 

     ĐÊM XUÂN CA

     Nửa đêm thánh thót khúc ca xuân
     Tay rẽ phím đàn nhịp ái ân
     Uyển chuyển ngón mềm êm nhẹ lướt
     Dịu dàng môi ngọc khẻ rung ngân
     Nốt trầm thương nhớ thời mai hậu
     Cung bỗng trót quên tuổi xế gần
     Réo rắt dương cầm như huyễn hoặc
     Ru đời phiền muộn vấn an thân


                           Lãng Uyển Châu 
                         (Trần Hoành Châu)

Thứ Bảy, 10 tháng 2, 2018

BÀI TỰA NHÀ VĂN CUNG TÍCH BIỀN VIẾT CHO THI PHẨM "KINH VÔ THƯỜNG" CỦA VÕ THẠNH VĂN


             

@ I
Từ Kinh

Một kính ngưỡng hằng có mà chúng ta được biết, phần nào được hiểu: “Lời / Chữ của bậc Thánh Nhân gọi là Kinh, của thường nhân, là Truyện.”

Kinh Dịch đã định rõ 2 phần: KinhTruyện. Lời luận giải của Khổng Tử --một chỉ yếu hình định Dịch kinh— là Truyện.


Thứ Sáu, 9 tháng 2, 2018

CHẬP CHỜN XUÂN PHAI - Thơ Trần Mai Ngân




   CHẬP CHỜN XUÂN PHAI

   Chập chờn cơn mê
   Giăng mắc lối về
   T ơi tìm đâu
   Năm tháng trắng mầu
   Trôi trên tóc xanh...

   Chập chờn mong manh
   T ơi quẩn quanh
   Hoa Bằng Lăng tím
   Của em và anh
   Mây cũng xa rồi !

   Chập chờn xa xôi
   Vẽ nét đơn côi
   Trên tờ giấy cũ
   Cánh hoa ủ rũ
   Một cơn mưa chiều

   Chập chờn những điều
   Cùng anh không nói
   Trôi mãi âm thầm
   Nỗi đau lặng lẽ
   Giấu cầm trên tay

   Chập chờn Xuân phai
   Bước nốt đường dài
   Chẳng ai còn ai
   Chẳng ai còn ai
   Chập chờn phôi phai...

   Những ngày cuối năm Đinh Dậu
           Trần Mai Ngân

TƯ LIỆU LỊCH SỬ VỀ CÁC TRẬN CHIẾN BẠCH ĐẰNG GIANG - Le Quang Chac

   Cua_song_Bach_Dang

             Cửa sông Bạch Đằng ngày nay thuộc địa phận tỉnh Quảng Ninh

          TƯ LIỆU LỊCH SỬ VỀ CÁC TRẬN CHIẾN 
          BẠCH ĐẰNG GIANG

Trần Hưng Đạo là người có đức –tài, về nhân cách ông đặt mối thù chung lên mối thù riêng. Ông tập trung vào việc chống ngoại xâm là chính, đối với Trần Cảnh, Trần Chung thì ông vẫn giữ đoàn kết. Vua tôi đồng lòng, cả nước ra sức. Đó là yêu cầu chiến lược, là bài học lớn của chúng dân được Trần Hưng Đạo rút ta từ ba lần chống Nguyên – Mông xâm lược. Từ vai trò của vị tướng quân thời Trần trẻ tuổi, cuộc kháng chiến lần thứ nhất đến cương vị của một vị Quốc công thiết chế, đứng đầu sự nghiệp quân sự của toàn bộ quân dân Đại Việt. Ở cuộc kháng chiến gian khó nhất, ở cả ba cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông xâm lược. Là cuộc kháng chiến lần hai đến lúc mở màn cuộc kháng chiến lần thứ ba. Đứng trên cương vị tối cao mà ở đó là nhờ những vị thống soái già dặn, tài năng sự nghiệp chiến tranh và chiến trường đầy ắp vinh quang của chiến công và chiến thắng oanh liệt của thời đại tràn đầy hào hứng Đông A lúc bấy giờ.
Trận Bạch Đằng lần thứ ba đã được dựng lại sự hình thành trận Bạch Đằng giang, giờ đây đã rõ ra là một dòng sông chiến trường lịch sử sau Ngô Quyền.

Thứ Tư, 7 tháng 2, 2018

ÔNG GIÀ BÁN VÉ SỐ - Lưu An




ÔNG GIÀ BÁN VÉ SỐ

Về hưu đã hơn một năm nay nhưng tôi vẫn chưa quen thuộc được lối sống nhàm chán của một người không có gì để làm. Cả ngày chỉ đi lên, đi xuống tìm những việc vớ va, vớ vẩn để làm hay đi thăm bạn bè, tán gẫu. Ngày nào cũng mua 2 hay 3 tờ báo đọc không còn một chữ, ngay cả những trang quảng cáo cũng không bỏ sót.

NỖI LÒNG LƯU DÂN - Thơ Tuệ Minh




   NỖI LÒNG LƯU DÂN

   Rưng rức giậu sau mấy nụ đào
   Mưa phùn lất phất, rặng thông cao
   Năm cùng tháng tận, trời buông rét
   Khiến khách lưu phương dạ xuyến xao

   Chạnh nhớ quê hương, xa bấy dặm
   Tìm về cửa Phật, điểm tâm giao
   Bánh chưng, bánh tét, chung tay gói
   Giữ trọn yêu thương những ngọt ngào

   Lá chuối, gạo thơm gìn sự tích
   Dưa hành, nhân đậu nếp thanh tao
   Nhắc con, nhủ cháu luôn đùm bọc
   Lẽ đạo khuôn vàng phép gởi trao

   Thư pháp chúc Xuân câu đối đỏ
   Tâm linh thắp sáng nghĩa đồng bào
   Mái chùa không khí ra ngày Tết
   Ấm áp tình người, bớt xuyến xao

                                 Tuệ Minh
                           February 5, 2018

Nguồn:
https://www.facebook.com/ThichPhuocToan/posts/412292299208414

Thứ Ba, 6 tháng 2, 2018

CHÙM THƠ TỊNH ĐÀM


   
      Nhà thơ Tịnh Đàm

   GỞI NGƯỜI XA
   Người còn mê mải chốn xa
   Có mơ cùng nỗi nhớ nhà bao năm ?
   Để khi nghe lạnh chỗ nằm
   Mới hay mắt lệ ướt đằm niềm riêng !

   CHÚT TÌNH
   (Thân tặng bác G.T.Điệp)
   Buồn vui cũng ở chốn này
   Trà suông, vắng bạn... uống cay nỗi mình !
   Ngẫm đời trong cõi nhân sinh
   May còn có được chút tình làm duyên

   MỘT MÌNH
   Phố đông người, vẫn riêng mình
   Tôi ngồi như một tượng hình bơ vơ !
   Nhìn trăm con mắt hững hờ
   Biết ai thương cảm trước giờ biệt ly ?
   Bạc đầu, chân mỏi còn đi
   Trả cho xong nợ những gì trót vay !
   Đến khi đời trắng đôi tay,
   Tôi về ru lại tháng ngày trong xưa !

                                Tịnh Đàm
                      (Hóc Môn, TP. HCM)

XIN BÌNH AN - Thơ Trần Mai Ngân



         Nhà thơ Trần Mai Ngân


    XIN...

    Mùa Xuân, mùa Hạ, Thu Đông
    Đời trôi vội vã sắc không xa rời
    Phúc thiền sinh hiện nơi nơi
    Từ bi một đóa hoa đời tôi xin...

    BÌNH

   Tâm bình thân trí cũng bình
   Cho đi tất cả phần mình cần chi
   Thế gian suy thịnh lẽ vì
   Xem như sương khói nhẹ thì bay đi...

   AN

   An nhiên như thể trăng rằm
   Sáng soi trần thế lặng thầm có không
   Tình trần vốn dĩ mênh mông
   Xin qua duyên kiếp long đong phận người!
   
                                                  4-2-2018
                                             Trần Mai Ngân

KINH VÔ THƯỜNG (TT) - Thơ Võ Thạnh Văn


   

   KINH VÔ THƯỜNG (tt)

   [011]
   yêu nhau túy mộng triều cương
   qua cơn bão loạn xuân nhường thu phong
   xa nhau bến gợn nước ròng
   đông căm tuyết tụ – hạ nồng son phai

   [012]
   vầng xoay đất mộng liêu trai
   phôi thai nước nhược – hoài thai non bồng
   một lần không – vạn lần không
   trăm năm trắc trở còn chong mắt chờ

EM RA PHỐ THỊ - Thơ Sáu Miệt Vườn





     EM RA PHỐ THỊ

     Em mang gì ra phố
     Trong nắng Xuân ngã vàng
     Đóa hoa chưa quá độ
     Sao gọi mùa Xuân sang

     Em mang mùa ra phố
     Quên trầu thắm hương cau
     Đêm thị thành hoa lệ
     Đủ sắc màu hỏa châu

     Em mang chiều ra phố
     Khói sương bay thoảng mờ
     Xa vời rồi thơ ấu
     Ta neo gì trong mơ

     Em mang đời ra phố
     Bỏ ta với tình sầu
     Bao giờ ta tao ngộ
     Khi đời còn bể dâu!

          Sáu Miệt Vườn
             26/01/2015

Thứ Hai, 5 tháng 2, 2018

THẦY TRẦN THƯƠNG BÁ, GIÁO SƯ DẠY VIỆT VĂN TRƯỜNG TRUNG HỌC NGUYỄN HOÀNG - Đoàn Đức

 
           

Thầy Trần Thương Bá
Dạy văn lớp Tam C (lớp 10) – Niên Khóa 1964 – 1965

Trường Nguyễn Hoàng từ khi có Đệ Nhị Cấp thì học sinh Đệ Nhất Cấp đeo bảng tên màu đỏ, học sinh Đệ Nhị Cấp bảng tên màu xanh đậm, biên giới giữa 2 cấp là bằng Trung học Đệ Nhất Cấp, còn gọi là bằng Thành Chung, bằng Diplôme; (với bằng này có thể đi thi cán sự y tế và ra trường dư sức nuôi vợ con, nếu đi lính thì mang cấp bậc Trung sĩ.) Vì thế học sinh bảng đỏ chúng tôi kính ngưỡng học sinh bảng xanh Đệ Nhị Cấp là đàn anh hay bậc thầy, vì họ đã đậu Diplôme, và Tú Tài I.
Chúng tôi sau khi thi đậu Diplôme, như qua một thế giới khác – Đệ Nhị Cấp với bảng tên màu xanh dương đậm và được phân ban theo sở thích, năng lực. Ban A: Sinh vật và lý, hóa là môn chính, Ban B: Toán và lý, hóa là môn chính, Ban C: Văn, sinh ngữ 1 là môn chính, hệ số 3, sinh ngữ phụ và sử địa hệ số 2.
Ba đứa bạn thân chúng tôi đành chia lìa: Tôi và Đỗ Tư Nghĩa cùng vào ban C vì kém Toán, Lý, Hóa. Còn Nguyễn Thắng chọn ban B vì giỏi Toán, Lý, Hóa. Thế nên tôi viết về một vị thầy dạy văn có nhiều ấn tượng đối với tôi ở cái tuổi hình thành nhận thức của mình đó là thầy Trần Thương Bá.
Tôi chỉ được học với Thầy về Ca daoChinh Phụ Ngâm hơn một học kỳ, bởi sau đó Thầy phải lên đường nhập ngũ.

NHỮNG LỜI THƯỢC DƯỢC... - Trần Mai Ngân


    

     NHỮNG LỜI THƯỢC DƯỢC...

Mùa Xuân đất trời đầy hương hoa !
Dạo làng hoa Sa Đéc, cả mươi cây số hoa là hoa, sắc hương ngộp sắc hương...
Tôi ngơ ngác, hờ hững ! Có lẽ vì nhiều quá, đầy quá... Và thường sau nhiều, đầy luôn lại là một sự trống tênh lạ lùng !
Chụp ảnh - cười, cười - chụp ảnh... Và rồi ra về khi trên bầu trời một vài chùm Sao đã xuất hiện lung linh.

MƯA NẮNG PHẬN NGƯỜI - Thơ Tịnh Đàm


     
        Nhà thơ Tịnh Đàm

      MƯA NẮNG PHẬN NGƯỜI
        (Thân tặng bác G.T.Điệp)

     Vẫn buồn
     Như tiếng thở dài,
     Vẫn đôi mắt đượm u hoài
     Khôn khuây !
     Vẫn mong ước
     Cuộc sum vầy
     Vẫn anh,
     Chiếc bóng hao gầy...
     Vì đâu !?!
     Vẫn chờ đợi,
     Đến bạc đầu
     Vẫn xa xôi,
     Nhớ thương...
     Mầu áo xưa !
     Vẫn đời,
     Sóng gió đẩy đưa...
     Vẫn trôi cho đủ...
     Nắng mưa phận người !

                   TỊNH ĐÀM
         (Hóc Môn, TP. HCM)

Chủ Nhật, 4 tháng 2, 2018

THƠ SAY - Thơ Châu Thạch


    


         THƠ SAY
         (Tặng Khúc Thụy Du) 

         Ta thấy Kha Tiệm Ly
         Thấy Hoàng Anh 79
         Thấy chàng La Thuỵ
         Thấy cả em Khúc Thụy Du nữa là bốn vị
         Tuyệt tác thơ say...

         Nghiêng hồ trường chắp cánh để thơ bay
         Tình biến rượu hoá thành trăng nghi ngút
         Hồn ta thân củi mục
         Tẩm hương thơ nở vạn hoa đời
         Theo hương kia ta bay vút lên trời
         Say nghiêng ngã mửa ra toàn ánh nguyệt
         Hồn khoái lạc có những người thân thiết
         Cho ta thơ đọc sáng dãy Ngân Hà
         Cho ta thơ để ta đọc thiết tha
         Để ta gọi họ Hàn đêm đối bóng
         Trần gian xấu nên hồn ta cũng hỏng
         Cảm ơn thơ cho ta lại làm Người.

         Ta thấy em
         Thấy chàng La Thụy
         Thấy Hoàng Anh 79
         Thấy Kha Tiệm Ly

         Thơ say nghiêng, nghiêng cả kinh kỳ
         Nghiêng núi nghiêng trời nghiêng biển rộng
         Thấy đôi cánh rợp cả trời lồng lộng
         Bình hồ lô thu tóm hóa hương men
         Trút men ra sực nức đến cung hằng
         Hương thế kỷ tràn trên đời bạc nhược
         Và sự sáng tràn lên trên mỗi bước
         Bước của thơ làm nở đến ngàn hoa
         Đời bóng đêm bỗng chốc sáng lên lòa
         Rơi từng chữ hóa thiên thần nhảy múa
         Thấy thơ say bỗng nhiên thành kết tủa
         Ngọc và ngà và lệ hóa vào nhau
         Thấy nụ cười và thấy cả thương đau
         Thấy lóng lánh vần thơ bay, bay mãi
         Như chiếc én giữa trời xuân cánh trãi
         Như lá thu chao đảo đẹp trời xanh
         Như tiếng ve một buổi sáng trong lành
         Như cơn gió mênh mang mùa đông lạnh

         Cảm ơn thơ, Cảm ơn đời bất hạnh
         Cảm ơn em và hết thảy người thơ
         Đã đưa ta đến những chốn không ngờ
         Ta say quá giữa vô cùng tinh túy.

                                         Châu Thạch

Thứ Sáu, 2 tháng 2, 2018

BÂNG KHUÂNG - La Thụy cùng thi hữu


  

       BÂNG KHUÂNG

       Cuối năm trảy lá cội mai già
       Bấc lạnh tàn đông còn buốt da
       Ngấn lệ tang con dường chửa nhạt
       Ngày hưu chào bạn ngỡ đang xa
       Dậu đi, tống cựu bâng khuâng nhỉ!
       Tuất đến, nghênh tân man mác a!
       Chờ nắng hồng lên cành trổ lộc
       Giao thừa canh thức : nhánh đơm hoa
                                                  La Thụy
       HỌA:

       XUÂN LẠI VỀ !

      Trảy lá hoàng mai gốc chửa già
      Xuân này bảy bảy - tuổi nhăn da
      Thi đàn thưa vắng người lui tới
      Thi hữu già nua - kẻ biệt xa
      Tống cựu năm qua buồn não nuột
      Nghinh tân Xuân mới chạnh lòng ta
      Giao thừa chẳng đợi cành mai nở
      Mồng một nhấp trà ngắm kiểng hoa
                                       Hồ Trọng Trí
                                         3-2-2018

      XUÂN TÌNH

      Xuân vẫn cười tươi mộng chửa già
      Xuân về cảnh vật đổi màu da
      Xuân yêu đất Mẹ dù ngăn trở
      Xuân quý tình thơ dẫu cách xa
      Xuân ước tâm người luôn chính trực
      Xuân mong biển thế chẳng phôi pha
      Xuân còn trăn trở cùng non nước
      Xuân trải lòng mình nở thắm hoa.
                                        Đức Hạnh
                                      03-02-2018

      LẶNG THẦM

      Thềm hoang lặng lẽ đợi vui già
      Lóng ngóng hiên đời ngậm diết da
      Lữ thứ cô tình ngâm buốt lạnh
      Phương người lẻ bóng tẩm sầu xa
      Sóng tương tư vẫn reo hồn nhỉ ?
      Bến mộng mơ còn gọi khách a ?
      Bảng lảng sương chiều giăng phía nhớ
      Xuân mùa giữ hẹn đón ngời hoa…
                                Lý Đức Quỳnh
                                      4/2/2018

PHẬN HOA - Thơ Đoàn Thuận



       Tranh của Deiphine Enjolas

     PHẬN HOA

     Thu vàng, trôi ngang đông sầu, vào xuân xanh.
     Bàn tay gió, khô khua, lá bay trơ cành.
     Dù hơi mây giã từ nắng hanh ngày cuối hạ,
     Mùa vẫn tự nhiên dạo chơi như lữ hành.

     Mầm cây đong đưa trên không trong sương tan
     Chưa kịp sinh sôi nở hoa đã úa tàn.
     Khi cách ly đất đai, xa mờ nơi trú ngụ.
     Dù tấm thân tầm gửi, dù mộng đời phong lan.

     Hương trời miên man ngàn xưa còn đâu đây
     Vương theo cánh chim phương xa, trên áng mây.
     Về cõi hư vô đâu tuổi tên, đâu hình bóng
     Nỗi niềm phấn hoa lặng câm bao tháng ngày.

     Hoa tàn bên sông, vì đâu, khi sương phiêu bồng?
     Hương phai từ hoa, khi nao, một đời hư không?
     Người đã xa ta, tại sao, cho vườn hoang vắng?
     Cỏ dại ngây ngô, cô liêu, giữa trời đất mênh mông.

                                                        Đà Lạt,1968
                                                     ĐOÀN THUẬN

Thứ Tư, 31 tháng 1, 2018

TRĂNG CỐ NHÂN - Thơ Võ Thạnh Văn


      


      TRĂNG CỐ NHÂN

      Có phải trăng mười năm trước
      Vể soi tiệc rượu đêm nay
      Trăng nầy, trăng xưa bội ước
      Về cười thống hận men cay

      Có phải trăng xưa yểu mệnh
      Lụy tình treo cổ bên song
      Trăng nào, trăng xưa bạc hạnh
      Hận tình tự vận ven sông

      Có phải trăng xưa bội bạc
      Về trau chuốt giọng cuồng ngâm
      Phụ tình, trăng xưa đài các
      Về khoe xiêm áo xênh xang

      Có phải trăng thề cổ độ
      Về giăng tình võng truy hoan
      Trăng nầy, trăng xưa dang dở
      Về gieo hương sắc tân toan

      Trăng nào, trăng xưa lơ lẳng
      Về phơi hạt bụi đa tình
      Lỗi hẹn, trăng xưa lãng đãng
      Còn gieo duyên dáng nịch nhân

      Kênh kiệu, trăng xưa lơi lả
      Về dâng lá ngọc cánh vàng
      Ngạo nghễ, trăng xưa vương giả
      Khuya về xé lụa ngân vang

      Lãng mạn, trăng xưa điệu hạnh
      Mời người nhập hội uyên ương
      Trăng nào điêu ngoa thái thậm
      Về bung tóc lả nghê thường

      Vuốt mặt đón trăng bầu bạn
      Vỗ bàn cười hát nghênh ngang
      Tiếp trăng, đeo gươm hào sảng
      Đốt thơ pha rượu uống tràn

      Tài hoa, thách trăng múa kiếm
      Quan hoài, nài trăng thổi tiêu
      Cảm khái, ép trăng say lịm
      Mềm lòng, trăng khóc cô liêu

      Trăng tao nhân, hề, thất chí
      Trăng mặc khách, hề, ưu nhiên
      Trăng tráng sĩ, hề, phóng khí
      Trăng cố nhân, hề, miên miên

                          Phù hư dật sĩ
                    VÕ THẠNH VĂN
                              1985

Thứ Hai, 29 tháng 1, 2018

CÔ NGUYỄN THỊ THANH, GIÁO SƯ DẠY PHÁP VĂN TRƯỜNG TRUNG HỌC NGUYỄN HOÀNG QUẢNG TRỊ - Đoàn Đức


             

     CÔ NGUYỄN THỊ THANH, GIÁO SƯ DẠY PHÁP VĂN 
     TRƯỜNG TRUNG HỌC NGUYỄN HOÀNG QUẢNG TRỊ

Cô Nguyễn Thị Thanh
Dạy Pháp Văn sinh ngữ 2 Đệ Tam C (Lớp 10) và Đệ Nhị C (Lớp 11)
- Trong hai niên khóa 1964 - 1965, 1965 -1966

Lên Đệ Nhị Cấp, cô Thanh là người tôi rất quý mến, gia đình cô ở Thạch Hãn, quận Mai Lĩnh cùng làng với tôi. Chính nhờ cô mà tôi thích tiếng Pháp, rồi say mê văn chương cùng các trào lưu văn học Pháp từ lãng mạn, siêu thực, tương trưng cho đến hiện sinh. Tuổi thơ Đệ Nhị Cấp tôi miệt mài với các tác phẩm Lettres De Mon Moulin (Lá Thư Hè) của Alphonse Daudet, La Porte Étroite (Khung Cửa Hẹp) La Symphonie Pastorale (Hòa Âm Điền Dã) của André Gide, Bonjour Tristesse (Buồn Ơi Chào Mi), Aimez Vous Brahms (Cô thích nhạc Brahms ?) của Francoise Sagan và Le Malentendu (Ngộ Nhận), Le Vent à Djémila (Gió về Djémila), Le Mythe De Sisyphe (Huyền Thoại Sisyphe) của Albert Camus… là từ sự hướng dẫn dạy dỗ, khơi gợi của nhiều thầy cô, trong đó cô là người chủ yếu.

XUÂN ƠI! - Thơ Giáng Thu Xưa





     XUÂN ƠI!

     Xuân lại về sao luôn nhớ đến
     Dư âm ngày đó mãi không thôi
     Tình thơ một thuở câu hò hẹn
     Chẳng thể nào quên bước sánh đôi

     Khoảnh khắc bên nhau hoài lưu luyến
     Niềm thương còn đượm biết bao lời
     Ngút ngàn xuân thắm mai vàng nở
     Gió lạnh hanh về chỉ bóng tôi...

                                  Giáng Thu Xưa
                                     01-28-2018

NGUYỄN KHUYẾN - CHỐNG THAM NHŨNG BẰNG BÀI VĂN SÁCH THI ĐÌNH NỔI TIẾNG


          


Nguyễn Khuyến (1835- 1909) là một nhà thơ cổ điển lớn của dân tộc, là “sư tổ” của nghệ thuật câu đối Việt Nam. Đồng thời ông còn là một nhà “kinh bang tế thế” mẫn tiệp và chính trực. Năm Tân Mùi (1871) trong kỳ thi Đình ở Kinh Đô Huế, Nguyễn Khuyến đỗ Hoàng Giáp Đình Nguyên (Tam Nguyên) với bài văn sách nổi tiếng. Bài văn sách thi Đình ấy là áng văn sắc sảo vạch trần tệ tham nhũng và tâu vua kế sách chống tham nhũng và cải cách hành chính mạnh bạo.

Thứ Sáu, 26 tháng 1, 2018

NGƯỜI ĐÀN BÀ CỦA TÔI... - Thơ Trần Mai Ngân


      
      Nhà thơ Trần Mai Ngân

   NGƯỜI ĐÀN BÀ CỦA TÔI...

   Đèo cao, núi cao
   Sông sâu, biển rộng
   Tôi đi tìm người đàn bà, đi tìm người đàn bà
   Có đôi môi mọng trẻ thơ, đôi môi hồng hồng chỉ biết cười...
   chỉ biết cười ngay cả khi lệ rơi...

   Trời cao vời vợi
   Nhật nguyệt xa xa
   Tôi đi tìm người đàn bà, tìm người đàn bà hôm qua
   Dưới ánh mặt trời da em như tuyết
   Diễm tuyệt, diễm tuyệt... kiêu sa, kiêu sa...

   Đôi chân không mỏi
   Đi khắp ta bà
   Tôi tìm em, tìm em... người đàn bà của tôi
   Thất lạc nơi đâu, nơi đâu...

   Nhịp sống khác màu
   Bắt ta xa nhau
   Tôi đi tìm, đi tìm... bốn bể năm châu
   Em của tôi đâu, em của tôi đâu

   Em ơi ! Em đâu...
   Em ơi ! Em đâu...
   Người đàn bà của tôi... hôm qua, có đôi mắt nâu, đôi mắt rất sầu...
   Em ơi ! Em đâu
   Em ơi ! Em đâu...

                                                                         24-1-2018
                                                                    Trần Mai Ngân

CHU VƯƠNG MIỆN VIẾT VỀ BÀ CHÚA THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG


    

          

 TIỂU SỬ:

Tên thật Nguyễn Văn Thưởng
Bút hiệu khác Phương Hoa Sử
Sinh ngày 21-11-1941 tại Phục Lễ, Thủy Nguyên, Kiến An .
Vào Nam năm 1954.
Từng theo học tại trường Trung Học Trần Quốc Tuấn Quảng Ngãi...
Từ 1962 đến 1966 : Hạ sĩ quan trừ bị ngành truyền tin
Năm 1966 : Giải ngũ - Công chức hành chánh
Đến Hoa Kỳ năm 1984.
Bắt đầu cầm bút từ đầu thập niên 1960, tác phẩm đăng trên nhiều Tạp chí tại Sài Gòn: Thời Nay, Bách Khoa, Văn Học, Tiền Phong...

TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN:

Ðêm Ðen Hai Mươi Tuổi (1964)
Tiếng Hát Việt Nam (1965)
Trường Ca Việt Nam (1966)
Phía Mặt Trời Mọc (1968)
Ðất Nước (1987)
Văn Học Dân Gian (1988)
Tác Phẩm, Tác Giả (1988)
Bằng Hữu (1987).

Thứ Năm, 25 tháng 1, 2018

VUÔNG CHIẾU THI NHÂN XƯA NAY - Thơ Chu Vương Miện


    


    VUÔNG CHIẾU THI NHÂN XƯA NAY 

     Bà chúa thơ nôm
     tọa trên gốc cây đề
     trước mặt bày mấy trái mít
     tay trái cầm cái quạt
     tay phải cầm bát bánh trôi nước

     Bà Huyện Thanh Quan
     lễ nghi học sĩ
     ngôì trên đống gạch hoàng thành
     cung miếu triều xưa đổ nát
     bên cạnh là một chiếc lồng
     nhốt con chim quốc ?

     Cụ Hồng Sơn liệp lộ
     đang đứng khóc
     một tay cầm bản văn tế thập loại chúng sinh
     một tay cầm pho bắc hành thi tập

Thứ Ba, 23 tháng 1, 2018

GỌI XUÂN - Thơ Trần Mai Ngân


       
          Nhà thơ Trần Mai Ngân


        GỌI XUÂN

        Ngực trầm hương em đợi 
        Anh về gọi mùa Xuân
        Thắp lên trái tim lạnh
        Buộc sợi tình mong manh...


        Ngực căng đầy thanh tân
        Thổn thức đêm ba mươi
        Bàn tay ai in dấu
        Nhành mai chiết năm xưa

        Ngực trầm hương thở vội
        Yêu dấu ơi sao vừa...
        Xuân non cành lộc biếc
        Ta có mùa Xuân chưa

        Bao lần đã đón đưa
        Chiều Xuân không trở lại
        Em thinh không tình trần
        Đợi anh về gọi Xuân...

                      Trần Mai Ngân
                         22-01-2018

Thứ Hai, 22 tháng 1, 2018

CÔ NGUYỄN THỊ NHÃ, GIÁO SƯ DẠY VIỆT VĂN TRUNG HỌC NGUYỄN HOÀNG - Đoàn Đức


         

CÔ NGUYỄN THỊ NHà
(Dạy Việt Văn lớp Đệ Lục 2 (Lớp 7) và Đệ Tứ 2 (Lớp 9), NK 1961-1964 - Chủ nhiệm lớp Đệ Tứ 2)

Cô giáo thời Đệ Nhất Cấp tôi quý mến nhất là cô Nguyễn Thị Nhã, là người chú tâm huấn luyện học sinh giỏi luật thơ và trở thành người biết phê bình văn học. Năm Đệ Lục, khi dạy thơ Bà Huyện Thanh Quan cô giảng luật thơ Đường Thất ngôn bát cú rất kỹ, cô nói thể thơ gồm bảy chữ tám câu, luật trắc vần bằng và luật bằng vần bằng. Thứ tự câu gồm : Phá đề, thừa đề, thực, luận và kết. Về niêm thì chữ thứ hai câu một niêm với chữ thứ hai câu tám, câu hai niêm với câu ba, câu bốn niêm với năm và câu sáu niêm với bảy, và cùng thanh bằng hay trắc. Về đối thì chỉ đối ở hai câu thực và hai câu luận. Khi đối thì danh từ đối với danh từ, động từ với động từ, trạng từ đối với trạng từ; từ Việt đối vời từ Việt, từ Hán đối với từ Hán; và còn phải đối ý nữa :

     Gác mái ngư ông về viễn phố.
     Gõ sừng mục tử lại cô thôn
           (Chiều Hôm Nhớ Nhà)

LA GI, LAI LỊCH MỘT VÙNG ĐẤT - Phan Chính


              


     LA GI, LAI LỊCH MỘT VÙNG ĐẤT

       La Gi ngày xưa là phần đất nằm dọc bờ sông Dinh có dịch trạm Thuận Phước ở làng Phước Lộc, nằm trong hệ thống dịch trạm dưới triều Nguyễn trung hưng. Địa giới La Gi thời ấy bao trùm phần đất của các phường xã Phước Hội, Phước Lộc, Tân Thiện, Tân Phước, Tân An, Tân Bình, BìnhTân bây giờ… Khi thành lập huyện Hàm Tân (1916) do trụ sở huyện đặt tại làng Hàm Tân (trước đó thuộc tổng Đức Thắng, thổ huyện Tuy Lý- sau sáp nhập và đổi sang phủ Hàm Thuận thống hạt, tỉnh Bình Thuận) nên trở thành tên huyện. Cũng từ đó, lỵ sở huyện Hàm Tân nằm trên địa bàn làng Hàm Tân, tổng Phước Thắng, huyện Hàm Tân (từ năm 1910 đơn vị hành chánh Phủ và Huyện ngang nhau). Huyện Hàm Tân được thành lập gồm 2 tổng Phong Điền và Phước Thắng không còn trực thuộc phủ Hàm Thuận. Tổng Phong Điền có địa giới từ phía tả ngạn sông Dinh kéo dài lên các làng Tam Tân, Hiệp Nghĩa, Phong Điền và Thạnh Mỹ,Văn Kê. Tổng Phước Thắng từ hữu ngạn sông Dinh, gồm các làng Hàm Tân, Phước Lộc (địa bàn La Gi) đến Cù My, Thắng Hải giáp với Xuyên Mộc.

THI PHẨM KINH VÔ THƯỜNG CỦA VÕ THẠNH VĂN


     

Tiểu tự của tác giả nhân ngày hoàn thành CÁT BỤI #10 của toàn bộ thi phẩm KINH VÔ THƯỜNG.

KINH VÔ THƯỜNG là lời kêu thương bi thống của một kiếp nhân sinh bi lụy trong cõi trần bi ai. Đó là lời ca cùng tột bi tráng chứa đựng ngậm ngùi chất ngất đau thương của những tâm hồn vươn lên từ nỗi bi thiết thường hằng.

Từng chữ trong KINH VÔ THƯỜNG là từng bước chân rời rạc rã riêng của hành trình đi vào tâm thức, một tâm thức tuyệt đối cô đơn khép kín riêng tư. Từng chữ, từng lời là những bước chân hành giả trên đường hành hương, ngơ ngác dọ dẫm đi vào tự thức để tìm lại chính mình.

Nhìn lại cho rõ chính mình, cái bản lai diện mục, là nhận diện nỗi bi thương to lớn của kiếp nhân sinh. Nỗi bi thương to lớn ấy chính là con người đã đánh mất bản thể từ lúc chưa sinh. Từ đó, con người hoang mang và miệt mài tìm kiếm chính mình trong huyễn vọng.