Chiều
nay, cà phê với bạn cũ Sư Phạm, tôi hỏi LẠI là bệnh gì của “tứ chứng nan y”,
nhưng chưa có giải đáp thỏa đáng, tôi tra trên mạng có 2 bài viết sau. Mời quý
bạn cùng đọc và góp thêm ý khiến nhé !
Bài
thứ nhất:
Về “tứ chứng nan y” hiện có nhiều cách giải thích không thống nhất.
*
Cách hiểu được số đông chấp nhận, nhất là các thầy thuốc đông y, là 4 bệnh khó chữa lành theo quan niệm của y học cổ, gồm:
(1) Phong: tức là bệnh cùi, còn gọi là bệnh phung hay bệnh hủi; (2) Lao: ho lao, bệnh lao phổi;
(3) Cổ: xơ gan cổ trướng;
(4) Lại: tức là ung thư. Trong đó, có hai bệnh đã được y học ngày nay chữa lành là phong và lao.
“Tứ chứng nan y: Theo quan niệm xa xưa bao gồm 4 bệnh là bệnh phong (cùi), bệnh lao, cổ trướng (xơ gan) và ung thư”.
Tên 4 bệnh được nêu như thế là quá mới, không theo cách gọi của y học cổ truyền.
“Tứ chứng nan y (thành ngữ): Bốn bệnh được cho là nguy hiểm nhất, rất khó chữa trị mà y học trước đây dường như phải bó tay: Phong (hủi), lao, cổ (viêm gan cổ trướng), lị”.
Trang này chỉ nêu “lị” mà không giải thích đó là bệnh gì.
“Dự Nhượng hựu tất thân vi lại, thôn thán vi
ách, sử hình trạng bất khả tri” (豫讓又漆身為厲,
吞炭為啞, 使形狀不可知), nghĩa là Dự Nhượng lại bôi sơn vào mình
làm như người bệnh hủi, nuốt than cho mất tiếng, để khỏi ai nhận ra hình tích của
mình.
Trong tứ chứng phong, lao, cổ, lại thì phong (theo
cách giải thích nói trên) có nghĩa là bệnh hủi rồi, giờ thêm lại cũng có nghĩa
là hủi nữa. Vô lẽ người xưa liệt kê tứ chứng mà thực tế chỉ có tam chứng thôi
sao? Không thể thế được.
*
Thắc mắc này đã được “giải mã” ở chú thích của tác giả Nguyễn Cẩm Xuyên trong bài viết “Lá trúc che nghiêng mặt chữ điền” đăng trên Kiến thức Ngày nay số 691 ngày 20-10-2009, tít đề bài viết là một câu thơ trong bài “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử được đăng trong tập Thơ điên của ông. Chú thích thứ 5 bên dưới bài viết như sau:
“Ở đây xin không dùng chữ “phong” như nhiều tài liệu (kể cả sách
giáo khoa) [tác giả bài viết muốn nói đã có sự nhầm lẫn khi cho rằng phong là bệnh
phung – ĐNCT] bởi vì:
“Phong” 瘋 chữ Hán có nghĩa là bệnh điên; “lại” mới là bệnh phung (cùi). Theo Đông y xưa: “Phong, lao, cổ, lại:
tứ chứng nan y” nghĩa là có 4 chứng nan y là điên, lao, cổ trướng, và phung (cùi)”.
Theo chúng tôi, đây là cách giải thích khả tín. Bởi từ
điển không có từ phong nào có nghĩa là bệnh cùi cả; có phong 風 (còn đọc là phúng, danh từ) là bệnh phong, nhưng là
“bệnh phong thấp 風溼 bệnh nhức mỏi (đau khớp
xương khi khí trời ẩm thấp), phong hàn 風寒
bệnh cảm lạnh, cảm mạo”.
Tóm lại, tứ chứng nan y phong, lao, cổ, lại có nghĩa
là điên, lao, cổ trướng, và phung (cùi).
*
Thắc mắc này đã được “giải mã” ở chú thích của tác giả Nguyễn Cẩm Xuyên trong bài viết “Lá trúc che nghiêng mặt chữ điền” đăng trên Kiến thức Ngày nay số 691 ngày 20-10-2009, tít đề bài viết là một câu thơ trong bài “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử được đăng trong tập Thơ điên của ông. Chú thích thứ 5 bên dưới bài viết như sau:
Phong 疯: Bệnh điên.
Lao 痨 : bệnh lao.
*
Bài thứ hai:
TỨ CHỨNG NAN Y, QUAN NIỆM XƯA VÀ NAY
Trong dân gian có câu mọi người thường nói mỗi khi gặp
ai mắc một trong bốn chứng bệnh Phong - Lao - Cổ - Lại, là tứ chứng nan y, thuộc
loại khó trị. Quan niệm Xưa và Nay khác nhau như thế nào?
VỀ MẶT CHIẾT TỰ VÀ NGỮ NGHĨA THEO XƯA:
Phong là gió. Khi Khí huyết suy yếu, tinh thần mệt mỏi,
gió độc trúng vào làm méo mồm, mắt xếch, cấm khẩu, tê run, bại xuội, bán thân bất
toại. Theo mô tả này thì đây là Đột quỵ hay Tai biến mạch máu não của ngày nay.
Lao là hao mòn, nhọc mệt. Vì khó nhọc quá, lao tâm lao
lực quá, hao mòn khí huyết xương thịt, làm cho mỗi ngày một cơn nóng âm, ho
đàm, ho bọt, toát mồ hôi,... Trong đó phân ra dương lao, âm lao và trùng lao.
Cổ là cái trống, bụng to như cái trống. Bởi tửu sắc
quá độ, ẩm thực không chừng mực làm cho tỳ vị hư nhược, những chất ăn vào không
làm ra dưỡng chất nuôi thân thể, tích kết lại ở trong bụng rồi biến ra nước làm
bụng to như cái trống, dần dần sưng mặt, sưng tay chân, sưng phù cả thân thể.
Lại là bệnh cùi. Bởi ngoài cảm phong độc, thấp độc,
nhiệt độc, trong ăn uống nhiều chất lạ chất độc, phòng dục ô uế hay chung chạ
truyền nhiễm mà phát. Triệu chứng: trước ngứa khắp thân thể, sau cào gãi da rộp
trắng hay đỏ tím như phát ban, lâu ngày da chết, cào không biết nhột, thịt chết
cắt không biết đau; gân chết tay chân buông thoải; xương chết rụng dần các đốt,
sống mũi mòn dần, lông mày rụng, mắt mờ, tiếng nói khan,...
TƯƠNG
QUAN BỆNH CẢNH NGÀY NAY
Theo mô tả các triệu chứng bệnh của tứ chứng, chúng ta
có thể hình dung các bệnh cảnh của Tây Y theo trình tự trên như sau:
Đột quỵ hay Tai biến mạch máu não là hậu quả của nhiều
yếu tố nguy cơ và bệnh lý khác nhau có liên quan đến tim mạch và chuyển hóa,
như tăng huyết áp, thiếu máu cơ tim, tăng mỡ máu, đái tháo đường,... Đột quỵ
gây ra yếu hoặc liệt nửa người, thậm chí tử vong. Tuy nhiên, dù đây là loại bệnh
lý được Y tế thế giới cảnh báo là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong và tàn phế,
nhưng ngày càng được nghiên cứu sâu sắc từ điều trị, đến phục hồi vận động,
cũng như bằng phối hợp với các phương tiện truyền thông, giúp cho người bệnh hiểu
và quan tâm chăm sóc sức khỏe bản thân để nhận biết sớm, đề phòng và điều trị.
Có thể nói ngày nay, bán thân bất toại không còn là bệnh nan y nữa.
Lao với quan niệm xưa có thể tương quan ngày nay là bệnh
Lao do vi trực khuẩn Mycobacterium tuberculosis và cả suy nhược mạn tính. Cả
hai bệnh này dù khó, nhưng vẫn có thể được chữa khỏi. Lao có thể được chữa bằng
nhiều phác đồ phối hợp các thuốc kháng lao tùy thuộc vào mức độ khởi bệnh cũng
như cơ địa của mỗi người. Và suy nhược mạn tính, phối hợp từ các phương pháp
dùng thuốc và không dùng thuốc đồng thời với sự tuân thủ luyện tập của người bệnh,
cũng không còn là bệnh nan y.
Cổ, tương quan là bệnh Xơ gan cổ trướng, hay xơ gan mất
bù của Tây y, đây là giai đoạn nặng của xơ gan, tế bào gan gần như xơ hóa hoàn
toàn. Cho đến nay vẫn là bệnh nan y, khoa học chỉ có thể giúp giải quyết tạm thời
các triệu chứng, hoặc hãn hữu có điều kiện ghép tạng thay gan thì bệnh nhân mới
có thể duy trì sự sống.
Lại tương quan với bệnh Phong. Nếu nhà thơ Hàn Mạc Tử
sống ở thời đại ngày nay thì ông đã không chết trẻ, xã hội không mất một nhà
thơ tài hoa, đời còn có thêm những tác phẩm bất tử làm phong phú đời sống tinh
thần cho các thế hệ, vì ngày nay đã có thuốc trị Phong. Người bệnh hòa nhập với
xã hội và sống cuộc sống bình thường vì được chữa trị và phòng bệnh đúng mức. Vậy
thì trong - tứ chứng nan y - chỉ còn Cổ trướng hay xơ gan mất bù là nan trị.
*
Kết hợp Đông - Tây Y trong điều trị Xơ gan mất bù Xơ gan mất bù là hậu quả của xơ gan chuyển từ viêm gan mạn tính có nguyên nhân do rượu, do Viêm gan siêu vi B - C mạn tính, do tự miễn, do độc chất,... làm mất dần các chức năng của gan như:
Không còn khả năng giải độc: Gan là một trong các hàng
rào bảo vệ cơ thể để chống lại các yếu tố độc hại xâm nhập qua đường tiêu hóa,
đồng thời làm giảm độc tính và thải trừ một số chất được tạo ra trong quá trình
chuyển hóa của cơ thể. Cơ chế chống độc của gan do cả tế bào Kupffer và tế bào
gan đảm nhiệm. Khi gan bị xơ, các chất độc này tự do tung hoành gây mẩn ngứa,
khó tiêu, tiêu chảy, buồn nôn, nôn,...
Không còn khả năng chuyển hóa và dự trữ chất đường sử
dụng khi cần thiết, do đó lượng đường trong máu sẽ tăng, đến một mức độ nào đó
sẽ gây bệnh đái tháo đường thứ phát sau xơ gan.
Không còn khả năng chuyển hóa và tổng hợp các chất đạm
cần thiết để duy trì áp suất keo giữ nước ở trong lòng mạch và trong tế bào,
làm nước thoát ra gian bào gây phù và báng bụng (cổ trướng).
Không còn khả năng sản xuất và bài tiết mật. Khi xơ gan,
không những giảm sản xuất tế bào gan, mà các tế bào còn lại bị xơ hóa sẽ ảnh hưởng
đến đường đi của mật, thay vì đổ vào ruột thì sẽ vào máu gây vàng da và ngứa.
Không còn khả năng đông máu và chống đông máu. Gan dự
trữ vitamin K và sản xuất ra nhiều yếu tố đông máu. Do đó khi suy gan thường bị
rối loạn đông máu.
Từ việc mất dần các chức năng trên, xơ gan mất bù
(không còn khả năng tự điều chỉnh các rối loạn khởi đầu do tế bào gan xơ hoàn
toàn), có thể đưa đến những biến chứng nguy hiểm như:
Xuất huyết tiêu hóa: Xơ gan khiến cho dòng máu đi qua
gan bị cản trở, làm tăng áp lực tĩnh mạch cửa, dẫn đến dãn nhiều mạch máu ở thực
quản và dạ dày. Nếu dãn quá mức, mạch máu sẽ bị vỡ, bệnh nhân nôn ra máu đỏ
tươi lượng nhiều và đi ngoài phân đen. Không xử trí kịp thời rất dễ gây tử
vong.
Hội chứng gan thận: Hội chứng gan thận là một dạng suy
thận trước thận do giãn mạch, làm giảm thể tích máu động mạch dẫn đến co mạch
thận. Điều này thường xảy ra ở bệnh nhân xơ gan cổ trướng.
BS. Nguyễn Thị Bay
Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Bác sĩ Y học cổ truyền
Nguyên Trưởng Cơ sở 3 Bệnh viện Đại học Y dược TPHCM
Nguồn:
https://suckhoeonline.net.vn/tu-chung-nan-y-quan-niem-xua-va-nay
VỀ MẶT CHIẾT TỰ VÀ NGỮ NGHĨA THEO XƯA:
Kết hợp Đông - Tây Y trong điều trị Xơ gan mất bù Xơ gan mất bù là hậu quả của xơ gan chuyển từ viêm gan mạn tính có nguyên nhân do rượu, do Viêm gan siêu vi B - C mạn tính, do tự miễn, do độc chất,... làm mất dần các chức năng của gan như:
Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Bác sĩ Y học cổ truyền
Nguyên Trưởng Cơ sở 3 Bệnh viện Đại học Y dược TPHCM
https://suckhoeonline.net.vn/tu-chung-nan-y-quan-niem-xua-va-nay
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét