Nhà
thơ, nhà văn Hà Huyền Chi
Hẳn là ai trong chúng ta, ít nhất một vài lần theo đời
mình, đã nghe và hát bài Lệ Đá của nhạc
sĩ Trần Trịnh. Nó là bài nền chính trong một phim truyện cùng tên từ những ngày
cũ tại Sài Gòn. Lời bài ấy là của thi sĩ Hà Huyền Chi.
Trong quãng 1963 - 1975, ông đến nhà tôi trong con ngõ
502 đường Phan Đình Phùng vài lần. Một người đàn ông đậm dáng, da ngăm, ria
mép, mặc quân phục bụi bặm rồi về sau là thường phục, nói giọng luôn chậm rãi.
Ông đến vì ông là bạn của bố tôi nhưng ngay sau 30/4/1975, ông không đến nữa.
Hà Huyền Chi là một nhà thơ, nhà văn, đạo diễn phim, cả
diễn viên nổi tiếng trước 1975. Bố tôi vẫn đùa: “Cậu nhiều tài thế, thì còn đất cho ai sống nữa?”. Ông cười to, rồi
tặng cho bố tôi một quyển sách, quyển Saut
Đêm. Saut, tiếng Pháp, là cú nhẩy, ở đây nên hiểu nó là một cú nhẩy dù - Nhẩy
dù vào ban đêm.
Thơ Hà Huyền Chi, nhiều lần tôi đọc trộm, vì lúc ấy
còn tuổi thiếu niên, trong khi thơ ông “người lớn” quá, bố tôi chưa cho đọc.
“Người lớn” thế này:
Anh
thèm là vạt nắng
Đùa
trên áo em xinh
Vuốt
ve làn da trắng
Hôn
cánh môi đa tình
Anh
thèm là ngọn gió
Thổi
suốt lòng em si
Vỗ
về từng phiến nhớ
Nuôi
khát khao dị kỳ
Anh
thèm là mây nõn
Như
tóc em bồng bềnh
Chuỗi
mộng con, mộng lớn
Sẽ
hân hoan tựu thành
Anh
thèm là chiếc nhẫn
Trói
em vào đời riêng
Anh
thèm cơn lú lẫn
Quên
cuộc đời, trừ em.
Hà Huyền Chi viết và làm việc vào tầm kỷ lục - Ông có
tới 18 tập thơ và 8 truyện dài - Đóng phim cũng tới 8 tác phẩm và đạo diễn 2
tác phẩm. Tên thật là Đặng Trí Hoàn (Hoàng? - Như một số ghi chép), sinh
21/12/1935 tại Hà Nội. Năm 1954, 19 tuổi, ông di cư vào Nam một mình. Năm 1957,
nhập ngũ khóa 14 Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt, ra trường làm thiếu úy trung đội
trưởng thuộc Tiểu đoàn 5 Nhẩy dù. Năm 1973, giải ngũ với cấp bậc thiếu tá, trưởng
phòng Ấn họa Cục Tâm lý chiến. Năm 1975, sang Mỹ và cư ngụ tại tiểu bang
Washington cùng gia đình cho đến ngày ra đi vào tháng 12/2021 ở tuổi 86. Ông mất
sau bố tôi 6 năm.
Hà Huyền Chi làm thơ hồi còn rất trẻ, tác phẩm đầu tay
của ông chính là Saut Đêm xuất bản
năm 1963. Bắt đầu được biết đến với bài thơ đầu tiên đăng trên báo, là bài Không Gian Vương Dấu Giầy. Nhiều bài thơ
của ông được phổ nhạc mà trong đó bài Lệ
Đá của nhạc sĩ Trần Trịnh lại không phải là thơ mà chỉ do ông đặt lời, và
bài Góa Phụ Ngây Thơ của nhạc sĩ Trần
Thiện Thanh. Các bút danh khác của ông là Mậu Binh, Hồ An, Mã Tử, Hạc Bút Ông.
Năm 2003, ông viết truyện dài Sóng Ngầm
(2003), là quyển thứ tám. Về điện ảnh, ông từng tham gia Người Tình Không Chân Dung của Hoàng Vĩnh Lộc vào năm 1971 khi còn
tại ngũ, cùng Kiều Chinh và Trần Quang. Giải thưởng, có Giải dành cho Phóng sự Tiền phong (1967), Giải Văn Học nghệ thuật bộ môn Thơ (1971),
Giải Tượng vàng (1972), Giải Văn học nghệ thuật toàn quốc bộ môn
Điện ảnh (1974).
Hà Huyền Chi từng kể, khi ông còn ở binh chủng Nhẩy
dù, ông đã viết nhiều truyện ngắn và thơ. Có bài thường xuyên đăng trên báo
quân đội, nên nhẩy vào nghề báo chí rồi nhẩy vào điện ảnh như một thử thách, vì
khi đó ông làm phụ tá trưởng phòng Điện ảnh của Cục Tâm lý chiến, rồi có mặt
trong Đạo diễn đoàn thuộc Nha Điện ảnh của Bộ Thông tin.
Hà Huyền Chi rất mê thơ, từ lúc còn đi học đã tập làm
thơ, do nghĩ rằng làm thơ sẽ là lối đi dễ nhất để vào thế giới văn chương. Tuy
nhiên vẫn theo ông, để đi vào văn chương, với văn xuôi, bước đầu người ta nên tập
viết truyện dài, sau đó hãy tập viết truyện ngắn, cuối cùng mới nên tập làm
thơ, bởi thơ vốn là đỉnh cao nhất. Nhưng chính ông lại đi ra khỏi quy luật đó.
Có người từng thống kê, Hà Huyền Chi là thi sĩ có thơ
được phổ nhạc nhiều nhất và người phổ thơ ông nhiều nhất là nhạc sĩ Mai Anh Việt,
với 65 bài. Vì thế cũng có người khác nhận xét “thơ Hà Huyền Chi mang nhiều chất nhạc”. Có lẽ khi ông làm thơ là
đã có ý niệm đem phổ nhạc, nó xuất phát từ nhạc phẩm Lệ Đá được ông đặt lời cho một bản nhạc chưa lời của Trần Trịnh.
Ông nhận xét, từ lâu đã có tình trạng lạm phát số người
muốn tự khoác cho mình chiếc áo thi sĩ, nhạc sĩ. Nhiều người đã tự bỏ tiền ra
in thơ hay nhạc, trong lúc chưa nắm vững được kỹ thuật căn bản của niêm luật, vần
điệu, thanh điệu, hợp âm và phối âm, và ông lấy ví dụ về cảm hứng của chính
mình từ Lệ Đá.
Trước hết, nó không phải là một bài thơ phổ nhạc. Do một
cơ duyên đặc biệt, một người bạn tên Đông chơi Clarinet vào giữa những năm 1960
đã giới thiệu Trần Trịnh với Hà Huyền Chi, khi đó Trần Trịnh chưa có nhiều tiếng
tăm trong làng Tân nhạc:
– Nhạc Trần Trịnh khá lắm, nhưng rất ít người biết đến.
Xin anh giúp bạn em một lần, đặt lời ca cho nó.
- Em biết là anh vốn mù nhạc mà?
– Em biết chứ, nhưng em thành thực nghĩ chỉ có anh mới
giúp được nó.
Trần Trịnh cười hiền lành:
– Xin anh giúp cho. Tôi nghĩ là sẽ có cách…
Hà Huyền Chi thẳng thắn đặt điều kiện:
– Nể thằng em, tôi chấp thuận trên nguyên tắc. Tuy
nhiên, tôi cần nghe anh đàn bản nhạc này vài lần để có khái niệm về nhạc tính.
Và tôi cũng cần ý kiến thẩm định về nhạc thuật của bài với một pianist như
Dzương Ngọc Hoán - Ông xã ca sĩ Quỳnh Giao.
Họ kéo nhau lên Đài phát thanh Quân Đội, Trần Trịnh ngồi
vào piano. Và điều ngạc nhiên là thi sĩ ưa ngay âm hưởng buồn ngất ngây dịu nhẹ,
rất “piano” ấy. Giai điệu thật tha thiết, ngọt ngào, thấm sâu. Khi ấy Đông đã
kéo Dzương Ngọc Hoán tới và Hoán khen bản nhạc này không tiếc lời, khiến Hà Huyền
Chi có ngay quyết định giúp Trần Trịnh. Ông nghe Trịnh đàn thêm vài lần nữa và
cố gắng nhập tâm mọi âm hưởng của bản nhạc.
Hôm sau, ông đem đến Trần Trịnh lời ca thứ nhất của Lệ Đá. Kết quả ngoài sức tưởng tượng, là
không biết bằng cảm hứng nào đó, ông đã hòa được những rung cảm đích thực của lời
mình viết vào nhạc Trần Trịnh. Trần Trịnh mừng rỡ tới sững hồn. Ông và ông Hoán
cùng hân hoan hát Lệ Đá khiến Hà Huyền
Chi cũng choáng ngợp trong niềm vui.
Lập tức ông viết lời 2. Buổi trưa nắng gắt, dưới mái
tôn thấp lè tè của quán cơm lính trong trại, trên chiếc bàn bọc nhôm nóng bỏng,
cáu bẩn, ông thả hồn bay với Lệ Đá. Ông viết thật dễ dàng, và khóc cũng dễ dàng
với lời 2 này.
“Tôi
vừa viết vừa khóc, rồi bỏ dở bữa ăn, đem lời 2 lên đài Quân Đội gặp Nhật Trường
trước phòng ghi âm. Tôi đưa Lệ Đá ra, Nhật Trường hát ngay với nỗi hân hoan
không cần che giấu. Hắn túm ngay lấy Trần Trịnh đòi soạn ngay hòa âm cho ban nhạc
và 2 bè khác cho Mai Hương cùng Như Thủy hát. Khoảng nửa giờ sau Lệ Đá đem thu
cấp kỳ. Nhật Trường, Mai Hương, Như Thủy, mỗi nguời trên tay một bản Lệ Đá ấy
mà say mê hòa ca với nỗi xúc động sâu sắc.
Hát và thu hoàn chỉnh ngay lần thứ nhất. Rồi Nhật Trường chạy như bay ra khỏi
phòng ghi âm ôm lấy tôi và Trần Trịnh: “Ông đặt lời thần sầu. Bản này sẽ là top
hit”. Tôi nhún nhường: “Được thế là nhờ nhạc Trần Trịnh bay bổng như diều đấy
chứ”. Nhật Trường cướp lời: “Nhưng ông là gió lớn. Đại phong mà…” -
Hà Huyền Chi nhớ lại.
Lời bài Lệ Đá:
Hỏi
đá xanh rêu bao nhiêu tuổi đời / Hỏi gió phiêu du qua bao đỉnh trời / Hỏi những
đêm sâu đèn vàng héo hắt / Ái ân bây giờ là nước mắt / Cuối hồn một thoáng nhớ
mong manh
Thuở
ấy tôi như con chim lạc đàn / Xoải cánh cô đơn bay trong chiều vàng / Và ước mơ
sao trời đừng bão tố / Để yêu thương càng nhiều gắn bó / Tháng ngày là men say
nguồn thơ
Tình
yêu đã vỗ cánh rồi / Là hoa rót mật cho đời / Chắt chiu kỷ niệm dĩ vãng / Em nhớ
gì không em ơi
Mầu
áo thiên thanh thơ ngây ngày nào / Chìm khuất trong mưa, mưa bay rạt rào / Đọc
lá thư xưa một trời luyến tiếc / Nhớ môi em và mầu mắt biếc / Suối hẹn hò trăng
xanh đầu non.
Quả thế thật, Hà Huyền Chi lúc ấy đã hứng lên đi hỏi mầu
rêu của đá. Ông hỏi nó bằng cách chơi ô chữ với Âm nhạc, khi nhờ nhạc sĩ Trần
Trịnh đánh chữ “o” vào những nốt nhạc nào có âm bình, dấu huyền vào những nốt
có âm huyền hay nặng, và dấu sắc vào những nốt có thể diễn dịch bằng chữ mang dấu
sắc hoặc ngã!
Trinh Anh Khoi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét