- Về văn học thì lão phu đã già hơi nghễnh ngãng vậy hai tiên sinh xin giảng giải cho Gia Cát Khổng Minh hiền đệ nghe?
Mạnh Công Uy nói:
- Cái chuyện lớn là Trị Quốc [Bình Thiên Hạ] mới khó khăn mà chuyện này đối với Gia Cát huynh coi như đồ cầm trong tay, móc vật trong túi. Còn chuyện văn học văn hiếc chỉ là chuyện nhỏ [đồ bỏ]. Tuy nhiên lão Thuỷ Kính tiên sinh đã dậy thì tiểu đệ tuân mệnh. Thôi chả nói chuyện xa xôi làm gì, ngay chúng ta đây, Mạnh là họ một chữ, còn Công là chữ lót và Uy là tên, Thôi Châu Bình, Thạch Quảng Nguyên cũng ở dạng này, còn tiên sinh Tư Mã Thuỷ Kính, Gia Cát Lượng hai vị là họ hai chữ. Nguyên hai chữ Tư Mã vốn là một chức quan, sau dùng làm họ, chả hạn như Tư Mã Thiên sử gia thời Tiền Hán. Họ Gia Cát vốn ở đất Gia và có nhiều cồn Cát, nên ai sinh sống ở đó đều nhận mình là họ Gia Cát, sau này thì còn thêm giòng họ Mộ Dung ở đất Yến, họ Hạ Hầu là họ cuả A Man sau cải theo họ mới cuả Tào Tung mà thành ra Tào Tháo. Thời Hán Sở tranh hùng thì có họ Chung Ly [Muội] rồi họ Âu Dương [Phong], họ Lệnh Hồ [Xung], họ Bách Lý [Băng], giòng họ Hoàng Nhan [Liệt], họ Vũ Văn [Hàn Đào]. Tuy nhiên, dù họ một chữ hay họ hai chữ, thì cũng bình thường. Còn họ của người Mông Cổ [Hung Nô] thì họ thường thường là ba chữ ở đằng sau, như họ Thiếp Mộc Nhĩ [Thiết Mục Nhĩ - Đạt Mộc Nhĩ], còn tên là Minh Minh Đạt Mộc Nhĩ, Thác Đác Đạt Mộc Nhĩ... còn họ cuả ngươì Bách Vịêt thì y như họ ngườì Háng tộc, điều đặc biệt là con trai thì lót chữ Văn, còn con gái thì lót chữ Thị.
Khổng Minh Gia Cát Lượng nghe xong gục gặc cái đầu coi như rất hài lòng mỹ ý, bèn hỏi tiếp
- Đây là tim gan cuả Tiểu đệ, nhiều năm muốn hiểu cho thật thấu đáo để tiện bề hành động, vậy xin các huynh trưởng vui lòng giải thích cho danh từ “Ngụy” cho tiểu đệ hiểu tường tận.
- Chữ Nguỵ này dễ mang đến chuyện hiểu lầm lắm lắm , chữ Ngụy thông thường có nghiã là “Giặc” là “Phản” nhưng ở Trung Quốc thì có khi Ngụy là một họ dân giã như các họ khác. Khởi đầu là ba họ lớn Hàn Triệu Ngụy đều là đại khai quốc công thần cuả nước Tấn. Nhân lúc nhà Tấn suy vi, ba họ này lấy cưa sắt cưa đất nhà Tấn ra làm ba vùng, một nửa tỉnh Thiểm Tây giáp ranh với nhà Tần [tỉnh Cam Túc] là cuả họ Hàn [nước Hàn], bên cạnh phiá tay phải là tỉnh Sơn Tây cuả họ Triệu [nước Triệu], qua sông Hoàng Hà là tỉnh Hà Nam dưới tỉnh Sơn Tây là họ Nguỵ [tức nước Ngụy] sau đổi thành nước Lương. Họ Nguỵ đây và nước Nguỵ không có tính cách là Giặc. Sau này thừa tướng Tào Tháo chết, con trưởng là Tào Phi soán ngôi nhà Hậu Hán, cũng đặt kinh đô tại Hà Nam [tức Lạc Dương], cũng gọi tên nước là Ngụy. Tương tự như vậy, giòng họ Tôn [cuả Tôn Kiên] là Tôn Sách Tôn Quyền, cai trị trên miền đất Giang Tô vốn là đất cũ cuả nước Ngô thời Chiến Quốc, nên goị tên nước là Ngô. Ngô thời Tam Quốc và Ngô thời Chiến Quốc hoàn toàn khác nhau, không dính dáng một ly ông cụ nào cả. Cũng như nhà Tây Hán đóng đô ở Hàm Dương [Tây An] và nhà Đông Hán đóng đô ở Lạc Dương [Hà Nam] cùng nhà Thục Hán cuả Lưu Bị ở Thành Đô [tỉnh Tứ Xuyên] thì có liên hệ với nhau, ở xa bắn đại bác tới nơi chứ nhà Bắc Hán thời Nam Bắc Triều thế kỷ thứ sáu và nhà Nam Hán thế kỷ thứ chín [tức thời Ngũ Đại] thì chả dây mơ rễ má chi tới nhà Tây Hán và Đông Hán. Với nữa, theo quan niệm cổ cuả người Trung Quốc thì được làm vua thua làm giặc? Cái chuyện xưng là nước Ngụy cũng là cái lý lẽ đương nhiên. Ngoài ra thì có Ngụy Văn Trường tức tướng Nguỵ Diên cuả Ba Thục, Ngụy Công Tử tức là Tín Lăng Quân con thứ của vua Ngụy, một trong bốn vị công tử lừng danh thời Chiến Quốc, nào là Mạnh thường Quân cuả nước Tề Sơn Đông, XuânThân Quân cuả nước Sở An Huy và Bình nguyên Quân của nước Triệu ở Sơn Tây. Đến đầu thế kỷ thứ bẩy, đời nhà đại Đường thì có thừa tướng Ngụy Trưng, đến đời nhà đại Minh thế kỷ thứ mươì sáu thì có thái giám Ngụy Trung Hiền chuyên quyền.
*
Chiều cũng đã tàn, khách muốn về, chủ quyến luyến muốn muốn cầm chân khách giữ lại. Sau cùng thì tiên sinh Tư Mã Thủy Kính đi đến quyết định nói:
2 nhận xét:
NGỤY có nhiều nghĩa:
1/ Ngụy 魏: Đời nhà Ngụy, nước Ngụy. Họ “Ngụy”.
2/ Ngụy 偽: giả, nguỵ, dối trá.
- Không phải chính thống, không hợp pháp.
“Ngụy triều” 偽朝 triều đại do loạn thần cướp ngôi lập ra,
“Ngụy chánh quyền” 偽政權 chính quyền tiếm đoạt, chính quyền lập ra không theo đúng hiến pháp.
3/ Ngụy 僞: Quân giặc.
Dối trá, Giả, không phải thứ thật.
Tiếng địa phương Quảng Trị có tiếng rủa “đồ ngụy tặc” ý nói đồ ba xạo, giả trá...
Họ kép 2 chữ Á Đông gồm:
Âu Dương (歐陽), Bách Lí (百里), Chung Li (鍾離), Công Dã (公冶), Công Dương (公羊), Công Lương (公良), Công Tây (公西), Công Tôn (公孫), Gia Luật (耶律), Đoan Mộc (端木), Độc Cô (獨孤), Đông Môn (東門), Đông Phương (東方), Đông Quách (東郭), Gia Cát (諸葛), Hạ Hầu (夏侯), Hách Liên (赫連), Hiên Viên (軒轅), Hoàn Nhan (完顏), Hoàng Phủ (皇甫), Hô Diên (呼延), Lệnh Hồ (令狐), Mộ Dung (慕容), Nam Cung (南宮),Tây Môn (西門),Tôn Thất (尊室), Tư Đồ (司徒), Tư Khấu (司寇), Tư Không (司空), Tư Mã (司馬), Thượng Quan (上官), Trọng Tôn (仲孫), Trọng Trường (仲長), Trưởng Tôn (長孫), Thác Bạt (拓拔), Thái Sử (太史), Thái Thúc (太叔), Thành Công (成公), Thân Đồ (申屠), Thiền Vu (單于), Thuần Vu (淳于), Uất Trì (尉遲), Vũ Văn (宇文), Vương Tôn (王孫)....
Ngoài ra còn có họ kép 3 chữ hoặc 4 chữ (người Mãn Châu, người Hung Nô, người Nữ Chân, người Mông Cổ...)
Đăng nhận xét