Quyển
sách “Đối Thoại Với Giáo Hoàng Gioan Phaolô II” do nhóm Giáo Điểm ấn hành tại
Hoa Kỳ năm 1995 đã tạo nên sự xôn xao dư luận trong và ngoài nước.
Giáo sư Dương Ngọc Dũng, một
nhân vật trí thức ngoài Công Giáo hiện đang sinh sống tại Sài Gòn đã viết tác phẩm “NHẬN ĐỊNH VỀ CÁC TRÍ THỨC PHẬT GIÁO
TRONG NHÓM GIAO ĐIỂM HOA KỲ” ấn hành lần đầu tại Sài Gòn cuối năm 1996 để phản
bác.
Tác
phẩm này của giáo sư Dương Ngọc Dũng đã tạo nên một cuộc bút chiến sôi nổi.
Theo giáo sư Dũng thì vào mùa thu năm
1996, sau khi kết thúc học trình về chuyên đề Phật Giáo tại Đại Học Harvard
đang chuẩn bị về nước, tình cờ ông được đọc qua cuốn "Đối Thoại... "
của nhóm Giao Điểm. Cảm thấy bất bình vì “những lý luận nhảm nhí, cách trình
bày vụng về, đầy thâm ý xuyên tạc tràn ngập trong tác phẩm này” nên ông đã phải
lên tiếng nhận định.
*
Hiện nay Trần Chung Ngọc là cây bút hung hăng nhất của
tạp chí Giao Điểm tại Mỹ. Hình như ông không còn việc làm gì khác hơn là viết
bài bút chiến với người khác và cũng không tiếc lời thóa mạ cá nhân bất kỳ ai
có can đảm phê bình ông, phê bình thái độ hồ đồ kỳ quặc của ông trong mọi vấn đề
liên quan đến tôn giáo. Đọc ông người ta có cảm giác ông có một lòng căm thù vô
hạn đối với Thiên Chúa Giáo trong khi vẫn luôn mồm thanh minh rằng mình “không hề có ác cảm với bất cứ ai” và tự
so sánh bản thân với Bồ Tát “những người
sẵn sàng vén tay áo, sắn ông quần, nhảy vào lửa địa ngục để cứu vớt chúng sinh
nặng nghiệp”. Tôi đã viết bài phê bình thái độ hồ đồ và phản trí thức này của
TCN, nhưng tác giả họ Trần, trong lúc mù quáng vì phẫn nộ khi bản ngã kiêu căng
của mình bị chà đạp đau đớn, đã vùng lên, tung ra những luận điệu còn khó nghe
hơn, những luận điệu chỉ cho thấy một người đang quằn quại trong hố sâu mặc cảm.
Ông đã đặc ân dành riêng 18 trang của tạp chí Giao Điểm số mới ra gần đây để
trút hết hờn giận lên đầu cá nhân tôi, Dương Ngọc Dũng, người đã dám cả gan chọc
đến oai hùm “Giao Điểm”.
Trước hết, ông TCN phê bình cá nhân tôi như sau:
“Căn
cứ lý luận của tác giả (tức DND) có thể tóm gọn trong một điều: tác giả đặt vấn
đề thẩm quyền, không ở trong các luận cứ, không ở trong các tài liệu khả tín dẫn
chứng, không ở trong nội dung các bài trong cuốn “Đối Thoại với Đức Giáo Hoàng
Gioan Paolô II Nhân Đọc Cuốn “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng” mà là ở bằng cấp của
những người viết bài”
(“Nhận Định về Các Trí Thức Phật Giáo” của ông Dương Ngọc Dũng, bài in trong tập về ông Dương Ngọc Dũng và bài Phê Bình Cuốn Đối Thoại với Đức Giáo Hoàng, Giao Điểm, 1997, tr.82. Từ đây về sau tất cả các trích dẫn đều rút từ trong cuốn sách này).
Rõ ràng đây là sự xuyên tạc cố ý để tung hỏa mù cho những
người không hề đọc cuốn sách phê bình của tôi. Chính tôi trong cuốn sách đó, phần
đầu, đã nhấn mạnh: “Sai lầm thứ ba, thuộc
phạm vi phương pháp luận nghiên cứu, liên quan đến việc sử dụng nguồn tư liệu để
trích dẫn. Khi trích dẫn một tư liệu, hai điều kiện đầu tiên và quan trọng nhất
mà tư liệu đó phải thỏa mãn là tính quan hệ (relevance) và tính thẩm quyền
(authoritativeness). Có nghĩa là tư liệu được trích dẫn phải quan hệ đến luận
điểm đang thảo luận một cách nhất quán” (Sđd: tr.10).
Trong các trang tiếp theo của cuốn sách này, tôi không
hề có thái độ đề cao bằng cấp như TCN cố tình gán ghép, xuyên tạc. Nếu tôi chỉ
biết đánh giá người viết qua bằng cấp thì đời nào dám phê bình các “tiến sĩ thứ thiệt” của tạp chí Giao Điểm.
Trong toàn thể cuốn sách của tôi, không có đoạn nào tôi phát biểu rằng hễ có bằng
cấp cao thì đương nhiên có thẩm quyền nói về một vấn đề gì đó. Chính bản thân
TCN mới là người mê tín bằng cấp hơn ai hết cho nên viết giọng văn đe dọa như
sau:
“Tạm
thời, trong khi chờ đợi thông tin kiểm chứng, tôi cứ tin là ông DND đã hội đủ
những điều kiện trên, nghĩa là biết tiếng Pali, Sanskrit và có bằng Ph.D về Phật
Giáo của Harvard chẳng hạn, nếu không thì ông DND không có tư cách gì để viết
như trên cả”
(“Nhận Định về Các Trí Thức Phật Giáo” của ông Dương Ngọc Dũng, Giao Điểm xuẩt bản, 1997, tr.96-97).
Thật là một câu ngô nghê, mâu thuẫn. Nếu ông đòi hỏi
cá nhân tôi phải có bằng Ph.D của Harvard mới có quyền phát biểu thì rõ ràng
chính ông mới đặt nặng vai trò thẩm quyền của hằng cấp. Cần nhấn mạnh là trong
suốt cuốn sách của tôi, tôi chưa hề viết câu nào về bản thân tự xưng là có Ph.D
tại Harvard. Đây là một sự gán ghép thâm độc của TCN để có cớ chửi bới đối
phương cho hả cơn tức giận. Thái độ hằn học của một người bị xem thường thể hiện
hết trong câu sau đây:
“Tác
giả có vẻ tự giới thiệu ngầm là mình đã tốt nghiệp đại học, đã thông thạo tiếng
Pali, Sanskrit, Hán cổ,v.v... và như vậy tự cho mình cái thẩm quyền hiểu về Phật
Giáo và chê bai tất cả các tác giả viết trong cuốn Đối Thoại”
(Sđd: tr.82).
Đây là sự suy diễn cá nhân của TCN do ông quá mặc cảm
về vấn đề mình không được đào tạo tại Harvard một cách chính thống về Phật học.
Tại sao lại là “tác giả có vẻ tự giới thiệu
ngầm”? Tôi khẳng định trong cuốn sách đó và ngay bây giờ là muốn trở thành
nhà nghiên cứu Phật học anh phải được trang bị những điều kiện cần thiết như
các cổ ngữ Phật Giáo. Trở thành nhà Phật học khác với hiểu biết về Phật Giáo.
Những tu sĩ tại Việt Nam vẫn phải học Pali trong các trường Phật học, trong khi
hầu hết kinh tạng Pali đã được hòa thượng Minh Châu phiên dịch sang Việt ngữ.
Điều đó có nghĩa là mặc dù anh có thể hiểu tường tận về ý nghĩa và triết học Phật
Giáo, nhưng để làm công tác nghiên cứu Phật điển thì anh phải có khả năng để tiếp
xúc trực tiếp với văn bản gốc. Hầu hết các kinh văn Đại Thừa đã được Thượng Tọa
Trí Tịnh dịch từ Hán văn, nhưng các tăng sinh trong các trường Phật học vẫn phải
học Hán cổ và cả Trung văn.
Trang bị kiến thức để trở thành một nhà Phật học khác
với việc hiểu biết về Phật Giáo. Các tăng sinh đang tu tập hầu hết (nếu không
muốn nói là tất cả) đều hiểu Phật Giáo và Trần Chung Ngọc cũng như các cây bút
khác cũng hiểu Phật Giáo, nhưng không phải ai cũng đủ khả năng để trở thành nhà
nghiên cứu Phật học. Cũng giống như trong các lãnh vực khác vậy. TCN học vật lý
ở đại học, điều đó không có nghĩa trong tương lai ông sẽ là nhà vật lý học,
chuyên nghiên cứu vật lý lý thuyết. Người dạy triết tại đại học chưa chắc là một
triết gia, mặc dù ông am hiểu lịch sử triết học, ông có thể biết tiếng Pháp, tiếng
Đức ngon lành hơn triết gia chính cống. Người dạy văn học chưa chắc là một nhà
văn hay một thi sĩ, mặc dù ông ta có thể hiểu biết về lịch sử văn học nhiều hơn
nhà thơ, nhà văn, biết nhiều ngoại ngữ hơn. Đây là một chân lý quá sơ đẳng (la vérité
de la Palice) mà TCN chỉ vì quá tức giận nên mù quáng không trông thấy mà thôi.
Tại sao tôi nhấn mạnh vấn đề cần am hiểu các cổ ngữ Phật
Giáo? Xin ông TCN đừng quá ganh ghét với cá nhân tôi mà đưa ra một kiểu lý luận
lố lăng, kỳ quặc như sau:
“Ở
trên thế gian này, Ph.D về Phật Giáo nhiều không đếm xuể, và những người này
cũng đã có nhiều tác phẩm nổi danh bằng đủ mọi thứ tiếng. Nếu tôi đọc những tác
phẩm về Phật Giáo của họ, những người có căn bản vững chắc về những ngôn ngữ Phật
Giáo như Pali Sanskrit,v.v… thì những tác phẩm đó có đáng tin cậy hay không,
hay là tôi bắt buộc phải đọc tác phẩm của một người Việt nào đó biết tiếng
Pali, Sanskrit và có bằng Ph.D về Phật Giáo” (Sđd: tr.103).
Tôi đâu bắt buộc ông phải đọc tác phẩm của người Việt
Nam. Thật là kỳ lạ, một người luôn luôn để cao văn hóa dân tộc lại miệt thị người
Việt như vậy. Có nghĩa là nếu có các vị tiến sĩ khác trên thế giới mà viết về
Phật Giáo thì nên đọc, còn các tiến sĩ lô-can, cho dù giỏi tiếng Pali hay
Sanskrit thì cũng là đồ bỏ. Tại sao lại vọng ngoại như vậy? Tại sao lại phải
chê bai đồng hương như vậy? Hay là ông muốn “tự
giới thiệu ngầm” ông có bằng Ph.D tại Mỹ nên đương nhiên phải ngon lành hơn
các tiến sĩ lô-can, nội hóa?
Sự tức giận do mặc cảm là không biết Pali hay Sanskrit
đã đưa TCN đến chỗ buông ra những câu hằn học như sau:
“Tất
cả kinh điển Phật Giáo chỉ được viết ra sau khi Đức Phật tịch diệt mấy trăm
năm, trải qua một thời gian dài hoàn toàn dựa vào truyền khẩu. Điều này chứng tỏ
trong kinh điển Phật Giáo có những thiếu sót cũng như những thêm thắt của các
Phật tử sau này, vậy biết tiếng Pali hay Sanskrit cũng chỉ là đọc những bản văn
hoặc thiếu sót hoặc thêm thắt mà thôi, có gì mà phải khoe khoang?”
(Sđd: tr.103).
Xin ông TCN bớt giận để nhận ra rằng sở dĩ ông biết được
sự kiện là kinh điển Phật Giáo chỉ được viết ra sau khi Đức Phật tịch diệt
chính là nhờ công phu khảo cứu sâu xa của các nhà Phật học. Nếu họ không nghiên
cứu, không viết sách phổ biến sự kiện này, thì chúng ta không thể nào biết được
điều đó. Mà muốn biết được cái sự kiện mà ông tưởng là đơn giản này họ phải tốn
bao nhiêu công sức nghiên cứu văn bản, so sánh, đối chiếu bao nhiêu tư liệu bằng
vô số các ngôn ngữ cổ. Chỉ có người ham nổi danh là trí thức Phật Giáo như ông
mới cho rằng học Pali hay Sanskrit là để khoe khoang, để hãnh diện. Đó chỉ là
những công cụ làm việc, thế thôi. Nói như TCN cũng giống như nói: “Học toán cao cấp để làm gì? Trong đời sống
hàng ngày chỉ cần bốn phép tính căn bản là chu tất”. Tất cả những sự kiện
liên quan đến giáo lý Phật Giáo, tất cả những kiến thức nhỏ nhoi của TCN về Phật
Giáo mà tác giả tưởng lầm là tự nhiên mọc ra trong đầu mình, đều là kết quả những
công trình khảo cứu công phu, phiên dịch kinh điển của bao nhiêu thê hệ học giả,
và ngày nay trở thành kho tàng tri thức chung của nhân loại. Không có những người
đầu tiên mày mò học Pali, Sanskrit, Tây Tạng, Hán cổ thì làm gì giờ này có những
quyển kinh bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Việt cho TCN đọc để hiểu về giáo
lý Phật Giáo? Huyền Trang phải vượt sa mạc sang Ấn Độ cư ngụ 13 năm để học tiếng
Phạn. Nhờ có ông ngành Duy Thức Học được khai phát ở Trang Hoa và bao nhiêu
kinh điển Đại Thừa được phiên dịch. Nói và viết như TCN là giận quá nói ngang,
nói bừa, nói bậy mà thôi, chứ tôi tin rằng trong thâm tâm TCN ông hoàn toàn hiểu
được tôi muốn nói vì điều đó quá đơn giản, dễ hiểu.
Trần Chung Ngọc đặt câu hỏi:
“Cái
điều kiện tiên quyết mà ông DND đặt ra là phải biết một vài thứ tiếng như Pali,
Sanskrit, Triều Tiên, Tây Tạng, Nhật Bản, v.v… mới có thẩm quyền viết về Phật
Giáo, cũng như phải biết tiếng Hi Lạp, La Tinh, Do Thái cổ, v.v… mới có thẩm
quyền viết về Thiên Chúa Giáo. Nhưng ông DND không cho biết ông đã học những thứ
này ở đâu, học trường nào, giáo sư là những ai, học bao lâu, tốt nghiệp bao giờ,
đã có những tác phẩm nghiên cứu nào có giá trị, v.v… ” (Sđd:
tr.96).
Trước hết, tôi lại phải xác định lập trưởng của tôi:
nghiên cứu văn chương Trung Quốc thì phải biết tiếng Tàu, nghiên cứu Phật Giáo
phải am tường ít nhất là một trong bốn ngôn ngữ cổ (Phạn, Pali, Tây tạng, Hán),
nghiên cứu Thiên Chúa Giáo cũng thế (nếu nghiên cứu Cựu Ước phải học tiếng Do
Thái cổ, nghiên cứu Tân Ước phải học La Tinh, Hi Lạp). Đây chính là yêu cầu của
các trường đại học Mỹ. Chẳng lẽ tiến sĩ tại Wisconsin như ông mà không biết vấn
đề này? Các yêu cầu đó đâu phải cá nhân tôi tự đặt ra đâu? Ông cứ mở các
courses of instruction của các trường đại học Mỹ ra xem thì biết ngay. Sao ông
không viết thư chửi luôn tất cả các đại học Mỹ là "chưa tiêu hóa được cái học khoa cử"? Mà bằng chứng nào
cho tôi thấy là ông đã “tiêu hóa” được
cái học của chính ông? Còn trong cuốn sách tôi phê bình nhóm Giao Điểm tại sao
tôi lại phải phí thì giờ kê khai lý lịch bản thân như ông yêu cầu?
Nhưng ông đã thắc mắc thì tôi xin thưa: tôi học Phật
Giáo từ năm 1993 tại Harvard với giáo sư Masatoshi Nagatomi, học Tiểu Thừa Phật
Giáo và tiếng Pali với giáo sư Charles Hallisey (Harvard), học tiếng Phạn với
giáo sư James Benson (bây giờ là giáo sư Sanskrit tại Oxford), Michael Witzel
(trưởng khoa tiếng Phạn tại Harvard), Stephanie Jamison (Harvard), học tiếng
Tây Tạng với giáo sư Leonard de van Kuijip và tu sĩ Jorden (người Tây Tạng đang
viết luận án tiến sĩ tại Harvard), tiếp tục nghiên cứu các truyền bản Phạn văn
và Tây Tạng còn sót lại của Bhavaviveka với giáo sư David Eckel (Boston
University), học triết lý tôn giáo (philisophy of religion) và thuyên thích luận
(hermeneutics) với Alan Olson, giáo sư triết (Boston), học xã hội học tôn giáo
với giáo sư Peter Berger, tác giả lừng danh của quyển The Sacred Canopy, học thần
học và tôn giáo đối chiếu với giáo sư Ray Hart, trưởng khoa tôn giáo học
(Boston), nghiên cứu về Thiền Nhật bản với nữ giáo sư Livia Kohn (Boston), học
hiện tượng học về tôn giáo (phenomenology of religion) với giáo sư Krzysstof
Michalski (Boston), học đối chiếu Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo thông qua việc
nghiên cứu trường phái Kyoto tại Nhật Bản với giáo sư Harold Oliver (Boston).
Ông có toàn quyền viết thư hỏi các nhân vật đó. Hồ sơ học bạ (transcript) của
tôi trong chương trình tiến sĩ toàn là hạng A (nếu ông muốn cứ cho địa chỉ, tôi
sẵn sàng gởi cho ông xem chơi).
Chẳng lẽ các giáo sư nổi tiếng dạy tôi đều là hạng ngu
dốt, "chưa tiêu hóa được cái học
khoa cử" nên mới cho tôi hạng cao như vậy? Tôi học ở Harvard đậu thủ
khoa chương trình Master về Đông Á Học (East Asian Studies) năm 1995. Chẳng lẽ
giáo sư Harvard là bọn ngu hết ráo nên mới cấp bằng cho tôi? Còn các công trình
nghiên cứu của tôi thì ông cứ kiên nhẫn chờ xem, tôi chắc chắn không làm ông thất
vọng đâu.
Tôi phải công nhận ngay trong ba người viết bài chỉ
trích tôi (Trần Văn Kha, Nguyễn Kha và Trần Chung Ngọc) thì tác giả họ Trần nói
năng có lập luận và thái độ tương đối còn tỏ ra bình tĩnh để thảo luận, còn Trần
Văn Kha chỉ biết ngoác mồm chửi bới (thậm chí còn dọa đánh tôi “bể mặt” và chụp mũ tôi là Cộng Sản),
còn Nguyễn Kha thì hiểm độc hơn, vu khống, và chơi toàn đòn “chụp mũ” (Nguyễn Kha chụp mũ tôi được
Thiên Chúa Giáo thuê viết bài, vu khống tôi đi thi rớt đại học Mỹ, v.v...). Tôi
xin liệt kê toàn bộ sự phê bình của Trần Chung Ngọc, tạm cho đây là những thắc
mắc thực sự của tác giả, và tiến hành trả lời những phê bình đó.
Sau khi kết án tôi là “chỉ biết đánh giá người qua bằng
cấp” và “chưa tiêu hóa được cái học khoa cử” (sđd: tr.82-83) Trần Chung Ngọc tiến
hành chất vấn tôi về vấn đề: có cần phải biết Pali hay Sanskrit để hiểu Phật
Giáo hay không? Tôi xin khẳng định lại một lần nữa: cổ ngữ Phật Giáo (Phạn,
Pali, Tây Tạng) là những công cụ cần thiết để nghiên cứu Phật Giáo một cách
nghiêm túc. Nhưng nghiên cứu Phật Giáo có thể tiến hành từ rất nhiều góc độ (xã
hội học, nhân chủng học, triết học, v.v…).
Những nhà nghiên cứu không phải là tu sĩ vốn là những
người chọn đời sống tín ngưỡng, thực hành Phật pháp. Giống như chúng ta có thể
thích nghe nhạc Chopin hay Beethoven là quyền thưởng ngoạn riêng tư của chúng
ta, nhưng nếu muốn trở thành người nghiên cứu âm nhạc thực sự thì phải đi học tại
nhạc viện một cách bài bản.
Tôi không hiểu tại sao một yêu cầu hết sức giản dị và
minh bạch như vậy lại được Trần Chung Ngọc bẻ quẹo thành “Dương Ngọc Dũng gián tiếp khoe khoang mình biết tiếng Sanskirt, Pali”.
Chẳng lẽ khi tôi nói “muốn mở phòng mạch
phải tốt nghiệp trường Y” thì điều đó có nghĩa là “tôi gián tiếp tự khoe tôi là bác sĩ?” Hay khi tôi phát biểu “muốn hiểu rõ thuyết tương đối cần phải có
hiểu biết sâu về vật lý ” thì điều đó có nghĩa là “tôi đã có hiểu biết sâu về vật lý?” Trần Chung Ngọc học vật lý ở đại
học, nghĩa là có một trí thức khoa học được đào tạo bài bản, chắc chắn không thể
chấp nhận một người chẳng có kiến thức về vật lý lại nói lăng nhăng về thuyết
tương đối. Một chân lý sơ giản như vậy nếu Trần Chung Ngọc đừng quá tức giận cá
nhân tôi cũng phải công nhận là đúng.
Một luận điểm khác của Trần Chung Ngọc đáng chú ý hơn.
Khi tôi phê bình các trí thức Giao Điểm trong khi tự
nhận là trí thức Phật Giáo tại sao lại lên cơn chửi bới cả Đức Giáo Hoàng và cả
lịch sử Thiên Chúa Giáo vì Phật Giáo vốn là một tôn giáo xây dựng trên nền tảng
từ bi, bác ái, tha thứ, thì Trần Chung Ngọc trả lời một cách lạ lùng như sau:
“Nếu
ông DND hiểu cái hiền hòa, từ bi, không sân si, tranh chấp của đạo Phật là cứ
giơ má cho người ta tát rồi xoa mặt cám ơn thì quả thật là ông không hiểu gì về
đạo Phật cả, chỉ biết đạo Phật qua sách vở, và ngay cả cái biết sách vở cũng
chưa tiêu hóa được” (sđd: tr.91).
Tại đây thì đúng là “Bồ Tát” Trần Chung Ngọc đã để hở sườn trong khi lý luận. Trong
tinh thần nhẫn nhục của Phật Giáo, không những vấn đề chỉ giới hạn vào việc “giơ má cho người ta tát” mà còn chủ
trương bất bạo động (chính Gandhi đã áp dụng lý thuyết nhẫn nhục của Phật Giáo)
và dùng tình thương xóa bỏ hận thù, không bao giờ chủ trương đánh phá đối
phương ngoại đạo vì bất cứ lý do gì. Đơn giản chỉ vì Trần Chung Ngọc không đọc
kỹ văn hiến Phật Giáo nên mới hiểu sai như vậy. Tôi xin trích dẫn một đoạn
trong Truyện cổ Phật Giáo (Phật Giáo Cổ Đại
Cố Sự) do Minh Chiếu phiên dịch từ Hán Văn để mô tả tinh thần kham nhẫn cực
độ của Phật Giáo:
Lúc
bấy giờ Đức Thế Tôn đang an tọa trong tịnh xá Trúc Lâm, dùng đạo nhãn thấy dân ở
nước Rô Na Ba Răn Ta đang chịu nhiều thống khổ dưới quyền thống trị của nhà cầm
quyền Kê Hoa Đà người Bà La Môn Giáo. Người ấy đã dùng bao thế lực sẵn có trong
tay, ép buộc dân chúng phải thờ Phạm Thiên và ngược đãi bắt bớ những người chống
đối lại.
Trước
hành động bạo ác và bất công ấy, Đức Thế Tôn thương hại cho Kê Hoa Đà là một
nhà trí thức mà hiện tại không có người hướng dẫn sáng suốt, tương lai không
tránh khỏi ác báo trong ba đường. Bấy giờ Đức Thế Tôn thấy trong hàng đệ tử, chỉ
có tôn giả Phú Lâu Na là người thiện duyên với Kê Hoa Đà và dân chúng xứ ấy nên
sai đến đó để giáo hóa.
Đức
Thế Tôn biết rằng trên con đường truyền bá Chánh Pháp dắt người trở về con đường
tươi sáng của đạo Từ Bi, Tôn Giả Phú Lâu Na sẽ gặp nhiều trở ngại thử thách của
đối thủ. Biết vậy, cho nên Đức Thế Tôn gọi Tôn Giả Phú Lâu Na đến dạy rằng:
-
Dân xứ ấy và Kê Hoa Đà độc ác lắm, ta sợ ngươi không đủ can đảm để chịu đựng.
- Bạch Thế Tôn, con nguyện đem hết năng lực để hoàn thành sứ mạng.
- Nếu đến đó bị chửi mắng, thì ngươi nghĩ sao?
- Con nghĩ: những lời chửi mắng kia cũng như những tặng phẩm. Nếu họ mang đến tặng cho con, con không nhận, họ sẽ mang về, và con nghĩ rằng: những người này còn hiền từ lắm, vì họ không nhận nước con.
- Nếu họ đem nhận nước ngươi?
- Con nghĩ rằng: họ chỉ là những người tối dạ, và chỉ nhận nước mà không lấy đá ném vào đầu con.
- Nếu họ dùng đá ném vào đầu ngươi?
- Con nghĩ rằng: họ rất tốt vì chỉ lấy đá ném vào đầu mà không dùng gậy đánh con.
- Nếu họ dùng gậy đập ngươi?
- Con nghĩ rằng: họ rất hiền từ vì chỉ dùng gậy đập mà không giam cầm, ngăn cản bước đường truyền đạo của con.
- Nếu họ giam cầm ngươi?
- Con nghĩ rằng: những người ấy rất tử tế, vì họ giúp con có thời gian di dưỡng tinh thần để nung luyện thêm ý chí, mà không dùng gươm đâm chém con.
- Nếu họ dùng gươm đâm chém ngươi?
- Con nghĩ rằng: họ rất tốt dạ, chỉ đâm chém con mà không giết chết con.
- Nếu họ giết chết ngươi?
- Bạch Thế Tôn: con rất vui mừng, vì những người kia đã dùng tâm từ bi giúp con thoát khỏi thân giả tạm đau khổ này để chóng thành quả Vô Thượng Giác.
Đức
Thế Tôn dạy: Hay thay! Hay thay! Phú Lâu Na, ngươi có một ý chí mạnh mẽ. Ngươi
đã biết khinh thường thân mạng để phụng sự chân lý. Ngươi thật là một đệ tử
trung kiên của ta, đáng thay ta đến xứ ấy truyền bá chánh pháp, hướng mọi người
trở về con đường sáng đầy an lạc và giải thoát
(1).
(“Nhận Định về Các Trí Thức Phật Giáo” của ông Dương Ngọc Dũng, bài in trong tập về ông Dương Ngọc Dũng và bài Phê Bình Cuốn Đối Thoại với Đức Giáo Hoàng, Giao Điểm, 1997, tr.82. Từ đây về sau tất cả các trích dẫn đều rút từ trong cuốn sách này).
(“Nhận Định về Các Trí Thức Phật Giáo” của ông Dương Ngọc Dũng, Giao Điểm xuẩt bản, 1997, tr.96-97).
(Sđd: tr.82).
- Bạch Thế Tôn, con nguyện đem hết năng lực để hoàn thành sứ mạng.
- Nếu đến đó bị chửi mắng, thì ngươi nghĩ sao?
- Con nghĩ: những lời chửi mắng kia cũng như những tặng phẩm. Nếu họ mang đến tặng cho con, con không nhận, họ sẽ mang về, và con nghĩ rằng: những người này còn hiền từ lắm, vì họ không nhận nước con.
- Nếu họ đem nhận nước ngươi?
- Con nghĩ rằng: họ chỉ là những người tối dạ, và chỉ nhận nước mà không lấy đá ném vào đầu con.
- Nếu họ dùng đá ném vào đầu ngươi?
- Con nghĩ rằng: họ rất tốt vì chỉ lấy đá ném vào đầu mà không dùng gậy đánh con.
- Nếu họ dùng gậy đập ngươi?
- Con nghĩ rằng: họ rất hiền từ vì chỉ dùng gậy đập mà không giam cầm, ngăn cản bước đường truyền đạo của con.
- Nếu họ giam cầm ngươi?
- Con nghĩ rằng: những người ấy rất tử tế, vì họ giúp con có thời gian di dưỡng tinh thần để nung luyện thêm ý chí, mà không dùng gươm đâm chém con.
- Nếu họ dùng gươm đâm chém ngươi?
- Con nghĩ rằng: họ rất tốt dạ, chỉ đâm chém con mà không giết chết con.
- Nếu họ giết chết ngươi?
- Bạch Thế Tôn: con rất vui mừng, vì những người kia đã dùng tâm từ bi giúp con thoát khỏi thân giả tạm đau khổ này để chóng thành quả Vô Thượng Giác.
Thế là thế nào? Bồ Tát Hạnh không phải là giáo lý của Đức Phật chẳng lẽ là giáo lý của chúa Giêsu? Tôi có nói sai chăng? Trong văn hiến Đại Thừa Phật Giáo, Đức Phật không còn đơn thuần chỉ là một cá nhân được giác ngộ như trong truyền thống Thượng Tọa Bộ, mà được lý tưởng hóa thành một siêu nhân vượt không gian, thời gian, Har Dayal, chuyên gia về Phật Học, nhận định như sau:
(The Buddhists invented their class of saints (Bodhisattvas) chiefly by personifying the different virtues and attributes of Guatama Buddha's personatily. They also took up certain epithets that were applied to Gautama Buddha and converted them into the names of some bodhisattvas. The bodhisattvas thus derive their existence and attributes from the central historical fact of Gautama's life and work. The two chief bodhisath’as, Manjusri and Avalokitesvara, are personifications of Wisdom (parjna) and Mercy (karuna) respectively) (2).
*
(2) Har Dayal, The Bodhisattva Doctrine in Buddhist Sanskirt Literature, Motila] Banarsidass, Delhi, 1978, tr.36.
“Con người có thể chỉ đọc một Kinh hay một câu trong Kinh là có thể am hiểu Phật Giáo, mà cũng có thể đọc thiên kinh vạn quyển bằng tiếng Pali hay Sanskrit mà vẫn mù tịt về Phật Giáo” (sđd: tr.135).
(3) Tỳ Kheo ni Như Thanh, Lược giải Kinh Hoa Nghiêm: Hành Bồ Tát Đạo, Tổ Đình Huệ Lâm, 1988, tr.299
Như vậy khi Trần Chung Ngọc tuyên bố rằng con người có thể “hiểu” Phật Giáo bằng cách chỉ cần đọc một câu trong Kinh thì cái “hiểu” này thuộc loại nào? Trần Chung Ngọc đã “hiểu” được cái “gì” trong câu kinh đó? Căn cứ vào đâu Trần Chung Ngọc có thể khẳng định rằng mình đã hiểu đúng câu kinh đó? Dĩ nhiên phải có thầy ấn chứng hay sách vở khác ấn chứng cho cái hiểu của mình. Nhưng Trần Chung Ngọc không đi học Phật học nên không có thầy hướng dẫn, ấn chứng cho cái hiểu của mình. Ông cũng không thèm đọc sách của những người “buôn bán hí luận” nên cái hiểu của ông là do ông tưởng như vậy, nhưng khi đối chứng với tư liệu cụ thể chưa chắc đã đúng. Chúng ta cứ tưởng chúng ta hiểu được mệnh đề 2 cộng 2 là 4 một cách tự nhiên. Thực ra chúng ta đã được “rèn luyện” để hiểu như vậy. Những tu sĩ Phật Giáo có thể đọc một câu kinh mà hiểu được tinh thần Phật Giáo đơn giản là vì họ trực tiếp hành trì Phật Giáo trong một thời gian dài và do thầy của họ đã giảng dạy những điều tương tự như thế. Như vậy hiểu là một động tác liên kết: liên kết một sự kiện mới với những điều đã học để nhận ra ý nghĩa chính xác. Không bao giờ lại có một thứ hiểu biết từ trên trời rơi xuống. Hơn nữa, căn cứ vào bằng chứng nào, thống kê nào, nghiên cứu nào, để có thể khẳng định có người chỉ cần đọc một câu kinh cũng hiểu Phật Giáo, còn người đọc thiên kinh vạn quyển kinh lại không hiểu đạo Phật? Xin ông hãy bình tĩnh lý luận và cho tôi một bằng chứng về chuyện này. Các tu sĩ là những người thực hành Phật Pháp nhưng đâu có ai khinh chê kinh điển đâu. Ngày nào trong chùa họ cũng tụng Bát Nhã Tâm Kinh, Lăng Nghiêm, Di Đà Tiểu Bổn, Đại Bổn, Pháp Hoa đấy chứ?
Trần Chung Ngọc
lý luận bằng cách nối các mệnh đề: mệnh đề 1: thiền Nam phương (Huệ Năng) là
thiền chân chính, tượng trưng linh li của Thiền Tông. 2. Thiền Tông là tinh hoa
của Phật giáo. Vậy Thiền Nam phương là tinh hoa của Phật Giáo. Lấy lý luận này
để loại bỏ các dòng Thiền khác, cho chúng không là chính Thiền? Lấy lý do gì để
đề cao Thiền hơn các pháp môn khác, chẳng hạn Tịnh Độ. Tại sao không nói Tịnh Độ là tinh hoa của Phật Giáo được? Đây là một
thành kiến đã ăn vào não tạng giới trí thức Việt Nam. Học thuật Phật Giáo muốn
tiến lên, phải biết rà soát lại những giáo điều được luôn tôn vinh là chân lý
vĩnh cửu. Còn người tu sĩ tập trung vào việc hành trì dĩ nhiên chẳng cần quan
tâm đến các chi tiết học thuật lịch sử để làm gì. Suzuki đứng từ góc độ của người
tu Thiền xem Thiền là phi lịch sử hay siêu lịch sử, trong khi Hồ Thích, đứng từ
góc độ khảo cứu sử học, cho Thiền là một hiện tượng lịch sử và phải dùng các tư
liệu lịch sử để nói về Thiền, do đó ông chê Suzuki nói về Thiền không chính
xác.
Sau khi khẳng định một cách vô căn cứ như tôi vừa chứng
minh, Trần Chung Ngọc lập tức chuyển sang một lổì tấn công hạ cấp hơn là dựng
chuyện vu khống tôi. Ông viết:
“Ông
DND chắc không hiểu được điều này nên mở miệng chê bai, dè bỉu các bản dịch
kinh điển của Đoàn Trung Côn, Thích Trí Tịnh và Thích Minh Châu”
(sđd: tr.135).
Trong toàn bộ cuốn sách tôi viết phê bình nhóm Giao Điểm
xin ông hãy trích dẫn rõ ràng câu nào tôi “chê
bai, dè bỉu” các bản dịch nói trên. Thậm chí chính tôi còn trích dẫn bản dịch
của hòa thượng Trí Tịnh để chứng minh cho lập luận của mình (nơi trang 48 theo
đúng bản đánh máy vi tính). Tại sao tôi không trích nguyên tác tiếng Phạn hay
Pali hay Hán cổ để hù thiên hạ như ông kết án? Nếu ông Trần Chung Ngọc thực sự
tìm ra một câu trong cuốn sách của tôi có nội dung ý nghĩa chê bai, dè bỉu ba
nhân vật nói trên, tôi xin quỳ gối tạ tội với tất cả các đại lão hòa thượng.
Còn nếu tìm không ra, ông phải nhận là đã vu khống tôi, - nếu ông còn có tư
cách của một người trí thức - một thủ đoạn nhằm gây hiểu lầm giữa giới Phật
Giáo và cá nhân tôi và nhằm tăng trọng lượng giả tạo cho các luận điểm bút chiến
của mình. Về quan hệ giữa tôi và hòa thượng Thích Minh Châu, mong ông Trần
Chung Ngọc biết cho rằng tôi đã nhiều lần làm phiên dịch viên cho hòa thượng tại
các đại hội Phật Giáo quốc tế và chính hòa thượng đã cấp thẻ chứng nhận tôi là
thành viên trong Ban Phật Giáo Quốc Tế trực thuộc Viện Phật Học Cao Cấp (tôi có
photo tấm thẻ này in ở cuối sách). Tôi đã giảng dạy tiếng Anh tại trường Phật Học
Cao Cấp do hòa thượng Minh Châu làm hiệu trưởng. Chính hòa thượng Minh Châu viết
thư giới thiệu (letter of recommendation) cho tôi đi học tại Harvard cùng với
thư của hòa thượng Thiện Hào. Có lẽ nào tôi lại “chê bai, dè bỉu” các bản dịch của hòa thượng Minh Châu như ngài vu
cáo được? Ngài có thể viết thư hỏi giáo sư Minh Chi mà. Câu “có học mà vô hạnh” ngài tặng cho tôi
nhưng tôi không dám nhận nên theo qui tắc phải được hồi trả về cho người tặng.
Trở về vấn đề học thuật, chính vì không đi học về Phật
Giáo nên Trần Chung Ngọc đưa ra một luận điểm sai lầm quen thuộc khác như sau:
“Phật
Giáo không phải là một môn học cần đến một kiến thức loại tích lũy, nghĩa là hiểu
biết cái sau nhờ đã hiểu biết cái trước như trong các bộ môn nhân văn và khoa học.”
(sđd: tr. 135).
Vậy thì ông nói sao về thực tế tồn tại các trường Phật
học cơ bản, trung và cao cấp tại Việt Nam và tại các quốc gia khác như Thái
Lan, Sri Lanka, Myanmar, Đài Loan? Chẳng lẽ các cao tăng sáng lập các trường học
Phật Giáo lại làm sai tinh thần Phật Giáo? Rõ ràng các vị cao tăng đó đã quan
niệm học Phật rất khó khăn và đòi hỏi thời gian đào tạo, tích lũy rất lâu dài
nên mới sáng lập ra những trường như vậy. Huyền Trang, một cao tăng thông minh
tột bậc mà cũng phải vượt sông, vượt biển sang tận Ấn Độ học hỏi tại đại học Phật
Giáo đầu tiên trên thế giới là đại học Nalanda. Ông đã học hỏi, nghiên cứu Phật
điển tại đây trong mười ba năm. Học Phật như vậy không phải là tích lũy thì còn
gọi bằng danh từ nào? Còn nếu khẳng định rằng học Phật “không phải là hiểu biết cái sau nhờ đã hiểu biết cái trước” thì Trần
Chung Ngọc đã lầm to. Ngay cả việc đọc kinh Phật cũng phải có trình tự, đọc
kinh dễ hiểu trước, đọc kinh cao cấp sau. Chẳng hạn không có hòa thượng nào dạy
kinh Hoa Nghiêm cho những đệ tử sơ cơ mới nhập đạo. Đọc Trường Bộ Kinh (Nam
tông) là sáng sủa, dễ hiểu nhất. Kinh điển Đại Thừa rất khó hiểu và phải cần
tham khảo nhiều sớ giải, chẳng hạn văn hệ Bát Nhã bản thân đã là một văn hệ
hùng vĩ, nhưng chẳng thấm thía gì so với khối lượng sớ giải Bát Nhã tại Ấn Độ
và Trung Quốc. Nhờ sớ giải văn hệ Bát Nhã mà Nagarjuna tạo ra triết học Tính
Không (Trung Quán). Chính vì Phật Điển quá phức tạp, quá phong phú, nên Trung
Quốc đã tạo ra hệ thống phán giáo (chẳng hạn lối phân chia ngũ thời bát giáo) để
phân định kinh điển thấp cao, và phân loại các cấp bực giáo lý. Khi sáng lập
Thiên Thai Tông, Trí Khải đại sư đã đề xuất hệ thống ngũ thời bát giáo để giảng
dạy và thích nghĩa kinh điển Phật Giáo. Ngũ thời là năm thời kỳ giảng dạy giáo
lý Phật Giáo của Đức Phật (Hoa Nghiêm thời, Tiểu Thừa thời, Đại Thừa thời, Bát
Nhã thời, Pháp Hoa thời). Bát giáo thì căn cứ trên phương thức giáo hóa và nội
dung giáo lý của kinh điển phân ra làm tám loại giáo lý, gồm có Hóa Nghi Tứ
Giáo (Đôn Giáo, Tiệm Giáo, Bí Mật Giáo, Bất Định Giáo) và Hóa Pháp Tứ Giáo (Tạng
Giáo, Thông Giáo, Biệt Giáo, Viên Giáo). Hệ thống phán giáo bắt đầu hình thành
vào thời Nam Bắc Triều mà hậu nhân khái quát thành mười hệ thống lớn gọi là Nam
tam Bắc thất (3 hệ thống phán giáo miền Nam và 7 hệ thống phán giáo miền Bắc).
Chẳng hạn Phật Giáo Nam phương phân chia các học thuyết
giáo lý Phật Giáo ra thành 3 hệ thống lớn: Đôn giáo, Tiệm giáo, Bất định giáo.
Trong hệ thống Tiệm giáo lại chia ra thành Tam Thời Giáo, Tứ Thời Giáo, Ngũ Thời
Giáo, lấy cách phân chia của Huệ Quán làm tông chỉ.
Nói tóm lại, học Phật cũng không khác gì học y khoa
hay một ngành khoa học khác, cũng phải đi dần dần từng bước để lãnh hội. Không
nên lấy trường hợp cá biệt của Lục Tổ Huệ Năng để làm mẫu điển hình cho tất cả
mọi phương thức tu tập, học hỏi về giáo lý Phật Giáo.
Nếu Trần Chung Ngọc chưa tin tôi, xin ngài cứ tham khảo
cuốn Bản Đồ Tu Phật của Hòa Thượng Thích Thiện Hoa. Cuốn sách này hướng dẫn cho
hành giả những con đường và phương pháp tu hành khác nhau, từ thấp đến cao, từ
dễ đến khó. Hơn nữa, ngay trong thực hành tu chứng của Phật Giáo Đại Thừa, quả
vị Bồ Tát cũng có mười cấp bậc từ thấp đến cao (thập địa = hoan hỉ địa, ly cấu
địa, phát quang địa, diệm huệ địa, nan thắng địa, hiện tiền địa, viễn hành địa,
bất động địa, thiện huệ địa, pháp vân địa).
Rõ ràng tu tập hay học thuật Phật Giáo cũng tuần tự
nhi tiến như các môn học khác và cũng đòi hỏi sự tích lũy kiên trì các hiểu biết
của hành giả. Chỉ có sự khác biệt trong cứu cánh giữa việc tu tập và học thuật:
cứu cánh của việc tu tập là giác ngộ, thành Phật và cứu cánh của học thuật là hiểu
biết.
Trần Chung Ngọc khi biện hộ cho Thiền Tông một cách ấu
trĩ lại đưa ra lý luận như sau:
“Thứ
nhất, chúng ta không nên lẫn lộn văn tự với ngôn ngữ.
Thứ nhì, câu "bất lập văn tự" không thể tách rời ra khỏi 4 câu tả tôn chỉ của Thiền Tông. Tách riêng nó ra rồi "y tự giải nghĩa" thì nó trở thành vô nghĩa ... Bốn câu trên chỉ nói lên sắc thái của một pháp môn đặc biệt trong Phật Giáo.
Thứ ba, không nên hiểu "bất lập văn tự" là "không làm ra văn tự" hay "không dùng đến văn tự".
Thứ tư, trong Phật Giáo người ta không quan tâm nhiều đến những sự kiện như những nhân vật Bồ Đề Đạt Ma, Huệ Khả, Huệ Năng sinh ngày nào, sống bao nhiêu tuổi, có thật hay không có thật, mà thực sự quan tâm đến những câu truyện về các nhân vật trên dùng được vào việc gì trong vấn đề tu tập” (Sđd:tr. 133-134).
Không hiểu ngài Bồ Tát Trần Chung Ngọc ăn học ra sao
mà lại khẳng định rằng "chúng ta
không nên lẫn lộn văn tự với ngôn ngữ". Vậy ý ngài muôn nói văn tự
khác với ngôn ngữ? Vậy văn tự là gì? Xin ngài chỉ bảo thêm về lý thuyết tân
ngôn ngữ học này.
Trần Chung Ngọc cố gắng vớt vát bằng cách nói thêm: "Không nên hiểu bất lập văn tự là không làm ra văn tự hay không dùng đến văn tự. Hiểu như vậy là hiểu rất hời hợt về ỷ nghĩa của câu này nằm trong toàn bộ 4 câu tả tôn chỉ Thiền Tông".
Thứ nhì, câu "bất lập văn tự" không thể tách rời ra khỏi 4 câu tả tôn chỉ của Thiền Tông. Tách riêng nó ra rồi "y tự giải nghĩa" thì nó trở thành vô nghĩa ... Bốn câu trên chỉ nói lên sắc thái của một pháp môn đặc biệt trong Phật Giáo.
Thứ ba, không nên hiểu "bất lập văn tự" là "không làm ra văn tự" hay "không dùng đến văn tự".
Thứ tư, trong Phật Giáo người ta không quan tâm nhiều đến những sự kiện như những nhân vật Bồ Đề Đạt Ma, Huệ Khả, Huệ Năng sinh ngày nào, sống bao nhiêu tuổi, có thật hay không có thật, mà thực sự quan tâm đến những câu truyện về các nhân vật trên dùng được vào việc gì trong vấn đề tu tập” (Sđd:tr. 133-134).
Trần Chung Ngọc cố gắng vớt vát bằng cách nói thêm: "Không nên hiểu bất lập văn tự là không làm ra văn tự hay không dùng đến văn tự. Hiểu như vậy là hiểu rất hời hợt về ỷ nghĩa của câu này nằm trong toàn bộ 4 câu tả tôn chỉ Thiền Tông".
Nếu hiểu như vậy là hời hợt sao Trần Chung Ngọc không cung cấp luôn cái hiểu "sâu sắc" của ông cho bàng dân thiên hạ chiêm ngưỡng. Ngay cả việc dùng chữ "hiểu" đã là trái với tinh thần Thiền Tông rồi chứ đừng nói gì đến hiểu sâu sắc hay hiểu hời hợt.
Cứu cánh cuối cùng của Thiền là giác ngộ, không phải là hiểu biết. Tôn chỉ của Thiền là nhìn thẳng vào thực tính, không phải cái hiểu mang tính duy trí (intelellec- tual). Suzuki viết: "Không thể dùng trí suy luận thường mà hiểu được là câu nói thường gặp luôn trong văn học Phật Giáo" (4). Tham vấn về tâm, một ông tăng hỏi: “Rốt cuộc thế nào là tâm?” Sư đáp: “Tâm” - ''Bạch, con không hiểu". Sư đáp lại liền: "Thầy cũng không hiểu"(5). Vậy thì khi Trần Chung Ngọc trách tôi "hiểu hời hợt" ý ông cho rằng ông hiểu "sâu sắc" hơn tôi. Tạm cho là vậy đi. Nhưng vấn đề này có thể đưa ông vào tuyệt lộ: nếu ông lương thiện trí thức thì hãy trình bày minh bạch cái kiến giải "sâu sắc" của ông ra. Còn nếu ông đã trình bày được thì cái "hiểu" đó cũng phản lại tinh thần Thiền Tông nốt, vì Thiền đâu phải đặt ra để "hiểu". Ông không thể thoát ra khỏi song quan luận (dilemma) này được.
Bản thân D.T. Suzuki đã khẳng định: "Muốn hiểu Thiền cần phải có kinh nghiệm chứng ngộ (satori), không có chứng ngộ không thể thấu hiểu chân lý Thiền
(To understand Zen, it is essential to have the experience known as satori, for without it one can have no insight into the truth ofZen) (6).
Vậy nếu Trần Chung Ngọc chưa đạt đến trạng thái chứng ngộ (satori) thì ngài cũng chưa thể tự nhận là hiểu được chân lý nội chứng của Thiền như ngài cố gắng chứng minh cho tôi và Như Hạnh thấy.
*
(4) D.T. Suzuki, Thiền Luận, bản Việt Trúc Thiên dịch, n.x.b TP HCM. 1992, quyển thượng, tr. 192.
(5) Sđd, tr.161.
Mà tôi đâu có nói gì sai? Khi tôi viết: “...thể hiện một thái độ hỗn xược của những anh thợ điện đòi phê phán Einstein bằng cách hỏi Einstein có biết sửa cầu chì trong nhà không” thì Trần Chung Ngọc phê: “Câu này đã để lộ cái dỏm của ông DND. Không hiểu rõ về khoa học mà lại đòi ví von về khoa học” (sđd: tr. 137).
Ông lại bộc lộ một thái độ hống hách mà ông kết án ở bản thân tôi. Ý ông cho rằng chuyên môn của tôi không phải là khoa học như ông nên không có quyền dùng các ví von về khoa học. Tôi biết ông học vật lý thì dĩ nhiên trình độ vật lý phải giỏi hơn tôi. Nhưng để hiểu câu ví dụ của tôi thì có cần xách cặp đi học vật lý cao cấp thì mới hiểu nổi hay không? Anh thợ điện trình độ thấp lại đi bắt bẻ, đánh đố một thiên tài toán học, cũng giống như biết đàn vài ba nốt nhạc đã dám chê bai André Ségovias. Ý của tôi bình dân đấy chứ, đâu có gì sai trái khiến cho Trần Chung Ngọc phải đay nghiến cả một trang dài (nguyên trang 138) như thế? Vả lại, nếu tôi không có quyền nói về khoa học thì sao ông có quyền nói về triết, về Phật học là chuyên môn của tôi, của Như Hạnh, của các nhà Phật học?
Sao ông có thể hạ bút viết một câu sáo ngữ rẻ tiền, chẳng có một chút suy nghĩ nào như thế? Đi học thì không vay mượn kiến thức từ sách vở, từ giáo sư thì còn làm gì khác, ít ra là trong giai đoạn đầu? Ông thường nhắc đến khái niệm “văn hóa dân tộc” vậy sao không nhớ câu “Không thầy đố mày làm nên”. Không học ở thầy, ở sách vở, còn học ở ai, ở đâu? Chính vì chẳng có thầy, cũng chẳng căn cứ vào tư liệu, sách vở nào nên ông mới viết bậy, viết bạ như trên. Vả lại, ông có chắc rằng mọi ý kiến ông nghĩ ra được đều không thoát thai từ sách vở đi trước không? Xin ông hãy cung cấp cho tôi một ý tưởng mà chính ông nghĩ ra được về vật lý học mà trước ông chưa ai nghĩ ra. Trong cuốn sách ông viết để công kích Đức Giáo Hoàng và Thiên Chúa Giáo, ông đã trích dẫn sách vở rất nhiều. Vậy bây giờ có người chửi ông là “trích dẫn chỉ để phô trương kiến thức” thì ông trả lời ra sao? Lúc nào thì chúng ta có thể phân biệt được là tác giả không cố tình phô trương kiến thức? Vấn đề là kiến thức có đúng hay không, còn chuyện phô trương hay không phô trương không phải là một điểm chính để bàn luận.
Nguồn:
https://www.amigalink.com/phebinh/nhungluandiem.php
https://www.amigalink.com/phebinh/nhungluandiem.php
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét