ĐỌC
LẠI NGƯỜI XƯA 2
“Nam
nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”
Phạm Ngũ Lão
Đại công ngoài mãi tầm
tay
Thẹn nghe lời nhắc rồng mây Vũ hầu
Non sông riêng họ Trần đâu
Mà trăm trận đánh công đầu về ai
Để ta thương một chàng trai
Giáo cầm ngang tiếng thở dài mấy thu
Kìa trên dòng sử hoang vu
Tầm tay ai vượt sương mù trỏ lên
Thẳng băng ngọn giáo mũi thuyền
Nuốt sao Ngưu lệnh còn xuyên trăng tà
Chàng trai cười ngất Đông A
Hơi văn nhọn mãi chính là đại công.
Vũ Hoàng Chương
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”
Phạm Ngũ Lão
Thẹn nghe lời nhắc rồng mây Vũ hầu
Non sông riêng họ Trần đâu
Mà trăm trận đánh công đầu về ai
Để ta thương một chàng trai
Giáo cầm ngang tiếng thở dài mấy thu
Kìa trên dòng sử hoang vu
Tầm tay ai vượt sương mù trỏ lên
Thẳng băng ngọn giáo mũi thuyền
Nuốt sao Ngưu lệnh còn xuyên trăng tà
Chàng trai cười ngất Đông A
Hơi văn nhọn mãi chính là đại công.
I
- Sơ lược về nhà thơ Vũ Hoàng Chương
II - Sự Kiện của thơ
Phần I và phần II tôi đã viết ở “Bàn Về Đọc Lại Người
Xưa, Bài 1” đăng trên trang mạng nên nay xin lướt qua. Mời quý vị có thể đọc ở
đường link sau đây:
II - Sự Kiện của thơ
https://phudoanlagi.blogspot.com/2020/11/ban-ve-oc-lai-nguoi-xua-bai-1-tho-vu.html
Phạm Ngũ Lão (1255–1320) là danh tướng nhà Trần trong
lịch sử Việt Nam. Ông là người góp công rất lớn trong cả hai cuộc kháng chiến
chống Mông-Nguyên lần thứ hai năm 1285 và lần thứ ba năm 1288.
Phạm Ngũ Lão, người làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, Hải Dương (nay là làng Phù Ủng xã Phù Ủng huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên), Việt Nam
Phạm Ngũ Lão, người làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, Hải Dương (nay là làng Phù Ủng xã Phù Ủng huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên), Việt Nam
Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ ba (12/1287),
Phạm Ngũ Lão cùng các tướng bày trận phục kích đường rút lui của giặc trên sông
Bạch Đằng, trong trận này quân nhà Trần bắt sống các tướng nhà Nguyên là Phàn
Tiếp, Áo Lỗ Xích, Ô Mã Nhi. Phạm Ngũ Lão tiếp tục truy kích cánh quân của Thoát
Hoan trên đường bộ.
Phạm Ngũ Lão đã ba lần cất quân đi trừng phạt sự xâm
chiếm, quấy nhiễu của quân Ai Lao vào các năm 1294, 1297 và 1301; hai lần Nam
chinh đánh thắng quân Chiêm Thành vào năm 1312, buộc vua Chiêm là Chế Chí phải
xin hàng và 1318 vua Chế Năng phải bỏ chạy sang Java[.
Ngày 1 tháng 11 năm 1320, Phạm Ngũ Lão mất, hưởng thọ
66 tuổi. Vua Trần Minh Tông nghỉ chầu 5 ngày, đây là một đặc ân của nhà vua đối
với ông. Nhân dân xã Phù Ủng dựng đền thờ
ngay trên nền nhà cũ của ông. Ông cũng được phối thờ tại đền Kiếp Bạc, Chí
Linh, Hải Dương tại đền thờ Trần Hưng Đạo.
Nhà sử học lỗi lạc của nước nhà ở thế kỉ XV là Tiến Sĩ
Ngô Sĩ Liên đã đánh giá rất cao về tài năng phi thường của ông:
“Tôi
từng thấy các danh tướng nhà Trần như Hưng Đạo Vương thì học vấn tỏ ra ở bài hịch,
Phạm Điện Súy (chỉ Phạm Ngũ Lão) thì học vấn biểu hiện ở câu thơ, nào phải
riêng chuyên về nghề võ. Thế mà dùng binh tinh diệu, hễ đánh là thắng, hễ tấn
công là chiếm được, người xưa cũng không ai có thể vượt qua nổi các ông”.
THUẬT HOÀI
Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu,
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu,
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
Dịch nghĩa:
TỎ LÒNG
Cắp
ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu,
Ba quân như gấu hổ, át cả sao Ngưu Đẩu.
Thân nam nhi nếu chưa trả xong nợ công danh,
Ắt thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ hầu.
Ba quân như gấu hổ, át cả sao Ngưu Đẩu.
Thân nam nhi nếu chưa trả xong nợ công danh,
Ắt thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ hầu.
Bản dịch của Trần Trọng Kim
Múa
giáo non sông trải mấy thâu,
Ba quân hùng khí át sao Ngưu.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.
Ba quân hùng khí át sao Ngưu.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.
Thuật hoài” (thuật: kể lại, bày tỏ; hoài: nỗi lòng) được
hiểu là sự thổ lộ khát khao, mong muốn, bày tỏ hoài bão lớn lao và quan điểm
riêng của tác giả – một dũng tướng tuổi trẻ tài cao. (Phạm Ngũ Lão sáng tác bài
thơ trong cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên lần II giai đoạn 1284-1285,
nhà thơ khoảng 30 tuổi).
Trong bài thơ nầy có câu thơ “Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu” dịch là “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu” để nói thêm về chí lớn, về hoài
bảo, về khát vọng của Phạm Ngũ Lão, muốn làm được việc lớn như Vũ Hầu mà
thôi. Vũ Hầu tức Gia Cát Lượng (Khổng
Minh), người giúp Lưu Bị lập nên nhà Thục Hán, có nhiều công lao, được phong tước
Vũ Vương Hầu gọi tắt là Vũ Hầu và có khi gọi là Gia Cát Vũ Hầu.
V
– Bàn luận thơ “Đọc Lại Người Xưa, bài 2” của Vũ Hoàng Chương:
Hai câu thơ mở
đề Vũ Hoàng Chương Viết:
Đại
công ngoài mãi tầm tay
Thẹn nghe lời nhắc rồng mây Vũ hầu
Thẹn nghe lời nhắc rồng mây Vũ hầu
Ta biết Phạm Ngũ Lão là một danh tướng thời nhà Trần,
công trạng của ông rất lớn, là những “Đại
công” ghi vào lịch sử, để lại đời sau nhớ ơn và thờ phượng. Thế sao Vũ
Hoàng Chương lại viết về ông là “Đại công
ngoài mãi tầm tay” ? Điều nầy dễ hiểu bởi căn cứ câu thơ Phạm Ngũ Lão viết
trong “Thuật Hoài” dịch là “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”. Từ
đó, ta biết Phạm Ngũ Lão chưa vừa ý với những chiến công mà ông đạt được trong
đời. Những chiến công đuổi quân xâm lược Nguyên Mông, bình định sự quấy nhiễu của
quân Ai Lao, Chiêm Thành, Phạm Ngũ Lão vẫn chưa cho đó là đại công. Cái mộng của
Phạm Ngũ Lão là phải làm được những việc đại công như Khổng Minh, người tài cao
mà ông khâm phục. Vì vậy khi ông đem công trạng giúp vua giúp nước của mình so
với Khổng Minh thì ông thẹn với lòng.
Hiểu được nỗi lòng ấy của Phạm Ngũ Lão, Vũ Hoàng
Chương đã nói thay tâm tư của danh tướng bằng hai câu thơ trên: “Đại công ngoài mãi tầm tay /Thẹn nghe lời
nhắc rồng may Vũ Hầu”.
Hai câu thơ thứ 3 và thứ tư như sau:
Non
sông riêng họ Trần đâu
Mà trăm trận đánh công đầu về ai
Mà trăm trận đánh công đầu về ai
Hai câu thơ trên, nhà thơ Vũ Hoàng Chương tỏ ra bất
mãn với việc nhà Trần khen thưởng bất công đối với Phạm Ngũ Lão. Nhà thơ cho rằng
Phạm Ngũ Lão tài ba như thế mà cả trăm trận đánh, công đầu đều trao cho con
cháu họ Trần, người trong hoàng tộc.
Thật ra sử sách tìm không thấy nói điều nầy. Sử sách
nói rằng:
“Có thể hiểu, sự xuất thân của Phạm Ngũ Lão không qua khoa cử mà đi bằng con đường đặc biệt là lọt vào con mắt xanh của vị thánh tướng triều Trần, đã cho thấy cách chiêu mộ hiền tài phong phú của vương triều bấy giờ, là phát huy sức mạnh toàn dân. “Phạm Ngũ Lão được Hưng Đạo Đại Vương gả con gái cho. Điều này rất hiếm xảy ra trong vương triều Trần. Để làm được điều đó một cách thuận tình đạt lý, Trần Quốc Tuấn đã phải giáng con gái Anh Nguyên xuống làm con nuôi”
Sử gia Phan Huy Chú trong Lịch triều Hiến chương loại
chí, phần ghi chép và bàn về các vị tướng tài giỏi đã tôn vinh 16 vị tướng từ
thời Lý đến thời Lê sơ, riêng triều Trần có 4 người là Trần Quốc Tuấn, Trần Nhật
Duật, Trần Khánh Dư và Phạm Ngũ Lão, điều đó cho thấy ngay cả sử quan thời
phong kiến luôn bảo vệ tôn thất nhiều khi thiên lệch đã khách quan nhìn nhận
tài năng quân sự của ông, xếp ông vào hàng danh tướng bậc nhất, đã khẳng định
vai trò vị trí của ông trong các võ công hiển hách của vương triều Trần. Đến đời
vua Trần Anh Tông, ông được thăng tới chức Điện súy Thượng tướng quân, tước
Quan nội hầu. Điều đó chứng tỏ Vua nhà Tràn ban thưởng phân minh.
“Có thể hiểu, sự xuất thân của Phạm Ngũ Lão không qua khoa cử mà đi bằng con đường đặc biệt là lọt vào con mắt xanh của vị thánh tướng triều Trần, đã cho thấy cách chiêu mộ hiền tài phong phú của vương triều bấy giờ, là phát huy sức mạnh toàn dân. “Phạm Ngũ Lão được Hưng Đạo Đại Vương gả con gái cho. Điều này rất hiếm xảy ra trong vương triều Trần. Để làm được điều đó một cách thuận tình đạt lý, Trần Quốc Tuấn đã phải giáng con gái Anh Nguyên xuống làm con nuôi”
Hai câu thơ trên đây “Non sông riêng họ Trần đâu / Mà trăm trận đánh công đầu về ai” theo
tôi có lẽ chỉ là sự tưởng tượng rồi suy diễn của nhà thơ Vũ Hoàng Chương. Việc
nầy thôi xin nhường lại cho các sử gia nhận định chính xác hơn.
Hai câu thơ kế tiếp như sau:
Để
ta thương một chàng trai
Giáo cầm ngang tiếng thở dài mấy thu
Giáo cầm ngang tiếng thở dài mấy thu
Hai câu thơ nầy, Vũ Hoàng Chương tỏ ý thương cho Phạm
Ngũ Lão, người danh tướng tài cao đã thở dài vì công trạng của mình không được
đền đáp như ý nguyện.
Như đã nói ở trên, không có dấu hiệu nào chứng tỏ nhà
Trần khen thưởng bất công đối với Phạm Ngũ Lão. Căn cứ theo bài thơ “Thuật Hoài” của Phạm Ngũ lão ta cũng thấy
nhà Trần đã cho ông cơ hội để thỏa chí bình sinh: “Múa giáo non sông trải mấy thâu / Ba quân hùng khí át sao Ngưu”.
Vậy vì sao Vũ Hoàng Chương lại gán cho Phạm Ngũ Lão
cái tâm trạng “thở dài mấy thu” như
thế ?. Điều này ta có thể suy đoán nhà thơ Vũ Hoàng Chương đã hư cấu nỗi buồn của
Phạm Ngủ Lão để gởi một chút tâm sự của chính mình vào đó.
Tâm sự của Vũ Hoàng Chương là gì? Đó là sự bất đắc chí trong đời. “Vũ Hoàng Chương lớn lên gặp lúc nước nhà trải qua nhiều đổi thay lớn lao. Thanh niên thế hệ ông dùng nhiều các danh từ như: cách mạng, cao trào, tự do, dân chủ, đấu tranh, tiến bộ v.v... Còn ông Vũ thì ông hay nói đến chuyện ... làm vua. Vâng, chính ông làm vua. Tên ông lót chữ Hoàng, ông thường tự xưng là Hoàng (‘Tố của Hoàng ơi’). Hoàng, chiết tự thành ra Bạch Vương. Người yêu của ông có kẻ tên Khanh, ông xưng hô như thể là vua với hoàng hậu, nghe thích lắm”.
Từ đó ta có thể phỏng đoán ý nghĩa của hai câu thơ trên, Vũ Hoàng Chương mượn Phạm Ngũ Lão để bày tỏ sự bất bình của mình, vì cuộc đời không đãi ngộ một nhân tài như ông để có thể đạt cao trên con đường danh vọng.
Tâm sự của Vũ Hoàng Chương là gì? Đó là sự bất đắc chí trong đời. “Vũ Hoàng Chương lớn lên gặp lúc nước nhà trải qua nhiều đổi thay lớn lao. Thanh niên thế hệ ông dùng nhiều các danh từ như: cách mạng, cao trào, tự do, dân chủ, đấu tranh, tiến bộ v.v... Còn ông Vũ thì ông hay nói đến chuyện ... làm vua. Vâng, chính ông làm vua. Tên ông lót chữ Hoàng, ông thường tự xưng là Hoàng (‘Tố của Hoàng ơi’). Hoàng, chiết tự thành ra Bạch Vương. Người yêu của ông có kẻ tên Khanh, ông xưng hô như thể là vua với hoàng hậu, nghe thích lắm”.
Từ đó ta có thể phỏng đoán ý nghĩa của hai câu thơ trên, Vũ Hoàng Chương mượn Phạm Ngũ Lão để bày tỏ sự bất bình của mình, vì cuộc đời không đãi ngộ một nhân tài như ông để có thể đạt cao trên con đường danh vọng.
Góp ý nhận định của tôi về những câu thơ trên, nhà thơ
La Thụy có những bình luận như sau mà tôi thấy rất đáng trân trọng:
“Nhận
xét như vậy có lẽ do câu thơ sau gây ‘ấn tượng sâu sắc’: ‘Giáo cầm ngang tiếng
thở dài mấy thu’. Thực ra, Phạm Ngũ Lão là một chàng trai thôn dã, qua những
chiến công hiển hách BẢO VỆ NON SÔNG, TỔ QUỐC trước sự xâm lăng của giặc Mông
Nguyên (không phải chỉ riêng vì bảo vệ lăng miếu, xã tắc của triều Trần), ông
nhận những ưu đãi của nhà Trần:
- Khác với những gia tướng của Trần Hưng Đạo như Nguyễn Địa Lô, Yết Kiêu, Dã Tượng…, sau chiến thắng Mông Nguyên vẫn là gia tướng của Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão trở thành tướng lĩnh của nhà Trần. Ông được Trần Hưng Đạo gả con gái (giả làm con gái nuôi của Trần Hưng Đạo vì nhà Trần có quy định chỉ gả con gái trong dòng tộc) là quận chúa Anh Nguyên. Điều này rất hiếm xảy ra trong vương triều Trần. Để làm được điều đó một cách thuận tình đạt lý, Trần Quốc Tuấn đã phải giáng con gái Anh Nguyên xuống làm con nuôi. Chỉ riêng điều đó đã thấy sự nhìn xa trông rộng, phát hiện và trọng dụng hiền tài của Hưng Đạo Vương.
- Năm 1290, vua Trần Nhân Tông giao cho ông cai quản quân Thánh Dực, phong chức Hữu Kim ngô Đại tướng quân. Năm Giáp Ngọ (1294) nhờ lập công khi đi đánh ở Ai Lao, ông được ban Kim Phù (tức binh phù làm bằng vàng). Năm Đinh Dậu (1297) cũng nhờ lập công khi đi đánh trận ở Ai Lao, ông được ban Vân Phù (tức binh phù có khắc chạm hình mây). Năm Tân Sửu (1301), ông được phong làm Thân Vệ Đại tướng Quân và được ban Quy Phù (tức binh phù có chạm hình con rùa). Đến đời vua Trần Anh Tông, ông được thăng tới chức Điện súy Thượng tướng quân, tước Quan nội hầu. Một người con gái của Phạm Ngũ Lão hiệu là Tĩnh Huệ là thứ phi của vua Anh Tông
“Nỗi U HOÀI cũng là HOÀI BÃO của Phạm Ngũ Lão được THUẬT lại thông qua NỖI THẸN trong bài thơ THUẬT HOÀI... Chữ ‘thẹn’ thể hiện vẻ đẹp nhân cách của người anh hùng, nỗi thẹn của những con người có trách nhiệm với đất nước, non sông. Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão cũng là những day dứt của chí làm trai, biểu hiện một hoài bão lớn của người thanh niên yêu nước. Quan niệm ‘nợ công danh’ đã trở thành lí tưởng sống của người anh hùng trong xã hội xưa. Thời đại Phạm Ngũ Lão, chế độ phong kiến Việt Nam đang trên đà xây dựng lợi ích của giai cấp phong kiến, ‘công danh’ là một khát vọng lập công, lập danh, hoàn thành nghĩa vụ đối với đất nước là ‘tiếng thở dài mấy thu” như cách nói của Vũ Hoàng Chương ‘Nam nhi vị liễu công danh trái Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu’. ”
Phạm
Ngũ Lão đã cầm ngang ngọn giáo bảo vệ non sông mấy thu rồi mà vẫn còn thấy mình
chưa trả xong nợ công danh là bởi vì cái chí ông quá lớn và cái tâm ông đẹp
quá. ‘Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu’ Phạm Ngũ Lão cảm thấy thẹn khi nhắc đến
Vũ Hầu Gia Cát Lượng, vì chưa có tài mưu lược lớn như Gia Cát Lượng để trừ giặc,
cứu nước, khôi phục giang sơn cũng có nghĩa là thấy mình chưa xứng đáng là một
đấng nam nhi thời loạn.
Đó
cũng là biểu hiện khát vọng muốn góp sức mình vào sự nghiệp chung. Hoài bão lớn
của Phạm Ngũ Lão thông qua nỗi thẹn không chỉ thể hiện qua món nợ mà còn ở việc
ông không hề nói suông, ông có ước mơ lớn và đã cố gắng thực hiện hoài bão ấy.
Cho nên, từ một chàng trai không tiếng tăm nơi thôn xóm, ông trở thành một tướng
tài, ông trả xong nợ công danh với lịch sử, lịch sử đã gọi tên ông. Thế hệ sau
nhớ mãi đến ông cùng với THUẬT HOÀI . ‘Công danh nam tử còn vương nợ./ Luống thẹn
tai nghe chuyện Vũ Hầu’
(La Thụy)
- Khác với những gia tướng của Trần Hưng Đạo như Nguyễn Địa Lô, Yết Kiêu, Dã Tượng…, sau chiến thắng Mông Nguyên vẫn là gia tướng của Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão trở thành tướng lĩnh của nhà Trần. Ông được Trần Hưng Đạo gả con gái (giả làm con gái nuôi của Trần Hưng Đạo vì nhà Trần có quy định chỉ gả con gái trong dòng tộc) là quận chúa Anh Nguyên. Điều này rất hiếm xảy ra trong vương triều Trần. Để làm được điều đó một cách thuận tình đạt lý, Trần Quốc Tuấn đã phải giáng con gái Anh Nguyên xuống làm con nuôi. Chỉ riêng điều đó đã thấy sự nhìn xa trông rộng, phát hiện và trọng dụng hiền tài của Hưng Đạo Vương.
- Năm 1290, vua Trần Nhân Tông giao cho ông cai quản quân Thánh Dực, phong chức Hữu Kim ngô Đại tướng quân. Năm Giáp Ngọ (1294) nhờ lập công khi đi đánh ở Ai Lao, ông được ban Kim Phù (tức binh phù làm bằng vàng). Năm Đinh Dậu (1297) cũng nhờ lập công khi đi đánh trận ở Ai Lao, ông được ban Vân Phù (tức binh phù có khắc chạm hình mây). Năm Tân Sửu (1301), ông được phong làm Thân Vệ Đại tướng Quân và được ban Quy Phù (tức binh phù có chạm hình con rùa). Đến đời vua Trần Anh Tông, ông được thăng tới chức Điện súy Thượng tướng quân, tước Quan nội hầu. Một người con gái của Phạm Ngũ Lão hiệu là Tĩnh Huệ là thứ phi của vua Anh Tông
“Nỗi U HOÀI cũng là HOÀI BÃO của Phạm Ngũ Lão được THUẬT lại thông qua NỖI THẸN trong bài thơ THUẬT HOÀI... Chữ ‘thẹn’ thể hiện vẻ đẹp nhân cách của người anh hùng, nỗi thẹn của những con người có trách nhiệm với đất nước, non sông. Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão cũng là những day dứt của chí làm trai, biểu hiện một hoài bão lớn của người thanh niên yêu nước. Quan niệm ‘nợ công danh’ đã trở thành lí tưởng sống của người anh hùng trong xã hội xưa. Thời đại Phạm Ngũ Lão, chế độ phong kiến Việt Nam đang trên đà xây dựng lợi ích của giai cấp phong kiến, ‘công danh’ là một khát vọng lập công, lập danh, hoàn thành nghĩa vụ đối với đất nước là ‘tiếng thở dài mấy thu” như cách nói của Vũ Hoàng Chương ‘Nam nhi vị liễu công danh trái Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu’. ”
(La Thụy)
Và nhà thơ La
Thụy đã kết luận như sau:
“Hoành
sóc giang san cáp kỷ thu
(Ngọn giáo non sông trải mấy thâu)
Nam
nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu
(Công danh nếu để còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe truyện Vũ hầu.)
(Ngọn giáo non sông trải mấy thâu)
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu
(Công danh nếu để còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe truyện Vũ hầu.)
NỖI
THẸN, MỐI U HOÀI, HOÀI BÃO của Phạm Ngũ Lão đã được Vũ Hoàng Chương khái quát
qua câu thơ: “Giáo cầm ngang tiếng thở dài mấy thu”
Hiểu như nhà thơ La Thụy thì câu thơ “Giáo cầm ngang tiếng thở dài mấy thu” là
nhà thơ Vũ Hoàng Chương mô tả tâm trạng của Phạm Ngũ Lão buồn vì chưa đạt ước
mơ lớn của mình chớ không phải buồn vì bị nhà Trần ban thưởng chưa đúng công
lao.
Bước qua 4 câu thơ kế tiếp của “Đọc Lại Người Xưa (2)”
như sau:
Kìa
trên dòng sử hoang vu
Tầm tay ai vượt sương mù trỏ lên
Thẳng băng ngọn giáo mũi thuyền
Nuốt sao Ngưu lệnh còn xuyên trăng tà
Tầm tay ai vượt sương mù trỏ lên
Thẳng băng ngọn giáo mũi thuyền
Nuốt sao Ngưu lệnh còn xuyên trăng tà
Bốn câu thơ nầy thì dễ hiểu thôi, Vũ Hoàng Chương ca tụng
tài ba và sự nghiệp của Phạm Ngũ Lão. Tài ba và sự nghiệp của Phạm Ngũ Lão thì
đã được nói nhiều ở trên nên người viết không nhắc lại thêm làm gì..
Vậy xin bước qua hai câu thơ cuối của “Đọc Lại Người Xưa (2)”:
Chàng
trai cười ngất Đông A
Hơi văn nhọn mãi chính là đại công.
Hơi văn nhọn mãi chính là đại công.
Hào khí Đông A
có ý nghĩa sâu xa. Trên thực tế, chúng ta có thể hiểu “hào khí Đông A” chính là hào khí nhà Trần. Câu nói đó là xuất phát
từ 2 lý do. Đầu tiên, theo lối chiết tự, chữ Trần được ghép từ chữ Đông và chữ
A nên có thể đọc là Đông A. Nhưng để hiểu được cụ thể, chúng ta phải kể đến lý
do thứ 2: Theo đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu cũng như khách quan lịch sử,
nhà Trần là triều đại phong kiến đầu tiên của lịch sử Việt Nam có thể tạo được
sự đồng tâm, nhất chí tối cao từ trên xuống dưới, từ quân đến dân, từ già đến
trẻ hay từ trai đến gái.
Tóm lại, hào khí Đông A không chỉ là nét chữ, lỗi chiết tự mà còn là tinh thần bất khuất, dũng cảm, quyết chiến quyết thắng của trên dưới quân-thần-dân nhà Trần. Với họ, đầu có thể rơi, máu có thể chảy nhưng quyết không thể làm người mất nước! Thậm chí có những người như Trần Quốc Tuấn, vì ích nước mà sẵn sàng gạt thù nhà.
Hai câu thơ “Chàng
trai cười ngất Đông A/ Hơi văn nhọn mãi chính là đại công” Vũ Hoàng Chương
đề cập đên hào khí Đông A không những chỉ thể hiện ở chiến công hiền hách thời
nhà Trần mà còn thể hiện ở hơi văn như “Hịch
Tướng Sĩ” của Trần Quốc Tuấn hay “Thuật
Hoài” của Phạm Ngũ Lão. Bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đã phản ánh
tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.
Bài “Thuật Hoài” của Phạm Ngũ Lão nói
lên nỗi khát khao của chí làm trai mong ước vụ cho đất nước.
Tóm lại, hào khí Đông A không chỉ là nét chữ, lỗi chiết tự mà còn là tinh thần bất khuất, dũng cảm, quyết chiến quyết thắng của trên dưới quân-thần-dân nhà Trần. Với họ, đầu có thể rơi, máu có thể chảy nhưng quyết không thể làm người mất nước! Thậm chí có những người như Trần Quốc Tuấn, vì ích nước mà sẵn sàng gạt thù nhà.
Đọc thơ “Đọc Lại
Người Xưa (2)” của Vũ Hoàng Chương đã nói lên đủ tài ba, nhân cách, đức độ
và tâm tư của danh tướng Phạm Ngũ Lão đời
nhà Trần. Đọc thơ, tuy ta chưa biết cụ thể Vũ Hoàng Chương gởi gì của riêng tư
lòng ông vào đó, nhưng tác giả đã sáng tác trong hoàn cảnh mình bị lao lý, phải
dấu thơ trao cho một người khác giữ, thì cũng đoán định được nhà thơ đã dùng bậc
danh nhân để tá khách chính mình vào đó. Thôi thì hãy dâng một nén hương lòng,
tưởng nhớ một người tài hoa đã ra đi còn để lại những vần thơ tuyệt tác cho đời.
Châu Thạch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét