Cũng lạ cho cái xứ Huế của tôi, cái chi cũng khác hơn
thiên hạ. Nắng thì nắng cháy da phỏng trán, mưa thì mưa thúi đất thúi đai, dầm
dề không dứt. Vài ba năm lại một trận lụt, trận bão to đùng. Đường phố Gia Hội,
nơi tôi ở, trở thành sông, đò chèo từ Bãi Dâu lên tới đường Trung Bộ (nay là Tô
Hiến Thành). Nghe tới bão năm Thìn là ai cũng kinh hãi. Mùa lụt, người lớn lo đến
sốt vó, không buôn bán làm ăn gì được, nhưng tụi con nít thì rất khoái lụt, rủ
nhau đi lội chơi suốt buổi (vì lụt to được nghỉ học) lội lụt cho đã, đói bụng,
về ăn cơm mắm cà, ăn vét đến thủng nồi.
Về giọng nói cũng rứa, có lẽ bản đồ nước ta chia ba
khúc có âm vực rõ ràng, âm hưởng khác nhau hẳn. Từ Thanh Hóa trở ra nói theo giọng
Bắc; từ Nghệ An trở vào đến Thừa Thiên nói theo giọng Trung; chỉ qua đèo Hải
Vân là giọng nói đã mang âm hưởng gần gần giọng Nam. Bởi vậy, người Quảng Nam,
Quảng Ngãi, Nha Trang… vào sống ở Sài Gòn chỉ vài ba năm là họ có thể nói rặt
giọng Nam Bộ; còn người Huế, Quảng Bình, Quảng Trị… có nhiều người ở miền Nam
hoặc miền Bắc vài chục năm vẫn không đổi giọng được, phải đợi con cháu, các thế
hệ sau mới thực sự đổi giọng Nam hoặc Bắc.
Về ẩm thực, người miền Bắc chỉ ăn mắm tôm, không bao
giờ ăn mắm ruốc. Nhưng người Huế thì dù đi đến đâu cũng phải tìm mua cho được mắm
ruốc Huế chứ không hề ăn mắm tôm. Người miền Nam không thích ăn cả hai thứ mắm
tôm và mắm ruốc, thức ăn miền Nam thường chỉ nêm nếm nước mắm, muối, bột ngọt,
đường…
Dân Huế đi đâu cũng nổi tiếng ăn ớt rất cay ít ai theo
kịp. Bởi rứa, hồi thời Ngô Đình Diệm bắt người Hoa phải vào quốc tịch Việt Nam
mới cho làm nhiều ngành nghề như người Việt. Nếu cứ giữ quốc tịch Hoa thì bị cấm
17 ngành nghề. Từ đó có “Người Việt gốc
Hoa”, nhiều người hài hước thêm vào “Người
Việt gốc rau muống” (để chỉ người Bắc) “Người Việt gốc giá sống” (là người
Nam) còn người Huế là “Người Việt gốc ớt”.
Về các món chè thì người Huế rất phong phú, bất cứ thứ
gì cũng nấu thành chè, từ hột kê, gạo nếp, đậu cho đến củ khoai tía (trong Nam
gọi là khoai mỡ chỉ nấu canh) củ khoai từ, khoai mài, khoai lang, bột sắn… Những
hàng chè ở Huế có khoảng 20 thứ chè, ngoài hột sen, đậu ngự, bột lọc bọc thịt
quay là những món chè cao cấp, còn có đủ loại chè khác. Trong Nam hay ngoài Bắc
chỉ có độ 5, 7 món chè: Đậu đỏ, bánh lọt, chè xôi nước, đậu xanh, sâm bổ lượng
– là chè của người Tàu – Miền Bắc nổi tiếng nhất có chè đường xôi vò, chè kho,
chè thạch…
Đi ăn cỗ ở Huế theo truyền thống phải đúng là “Mâm cao cỗ đầy”. Mâm là mâm đồng chạm
có 3 chân cao (ở thôn quê, mâm gỗ cũng có 3 chân). Thức ăn phải hàng trăm dĩa
nhỏ xếp chồng chất lên 3 lớp đầy vun, thật đúng nghĩa mâm cao cỗ đầy. Thời nay,
vì đa số dùng bàn ăn chứ ít dùng sập gụ, phản gỗ, nên mâm cao cỗ đầy cũng không
còn nhiều nữa, họa hoằng mới còn một đôi nhà theo kiểu xưa.
Phụ nữ Huế nổi tiếng về làm mứt bánh. Ngày Tết nhà nào
cũng có vài chục thứ mứt bánh. Nhà đông con gái thì càng “làm khéo” để khoe tài Công Dung Ngôn Hạnh. Học trò trường Đồng
Khánh xưa, chỉ thuần nữ sinh, nên ngoài những môn học bình thường còn được học
may vá thêu thùa, học nấu ăn và cả môn dưỡng nhi. Ai đã học qua chừng 4 năm ở
trường Đồng Khánh là có thể tự đan áo len, tự cắt may quần áo và thêu thùa, biết
nấu ăn rất nhiều món, kể cả các món bánh kẹo, bánh ta và bánh Tây.
Về ngôn ngữ người Huế có nhiều cách nói thật lạ, nếu
không là dân Huế lâu năm, không sống cả nơi thôn quê và thành thị thì không thể
hiểu được. Ví dụ: “Ăn một chắc, làm một
mình”, “chắc” ở đây là chỉ Một
người. Nhưng “Hai cấy dôn đập chắc”
(nghĩa là hai vợ chồng đánh nhau) “chắc”
ở đây lại là Hai người. Hoặc “Ăn xong nhớ
để đèng cho tui với hí” thì “để đèng”
không phải là thắp cây đèn để đó, mà “để
đèng là để dành, để phần”. Về chuyện này đã có một kinh nghiệm đắt giá của
một anh chàng “tứ xứ” về cưới một cô
gái nông thôn Huế. Cô vợ bận ra đồng, bảo chồng: “Anh ăn xong nhớ để đèng cho em hí” ở nhà anh chồng ăn cơm xong, liền
thắp một ngọn đèn để ở bếp, chẳng may con mèo đuổi chuột làm đổ đèn cháy rụi cả
gian bếp, từ đó anh chồng mới hiểu “ngôn
ngữ” của vợ. Nhiều chữ nếu không hiểu cứ ngớ ra tưởng người nước ngoài nói
như “Đi lên côi tê, đi xuống dưới nớ”.
Độc đáo nhất là hai chữ “Ấy và Mình” nó độc đáo vì không nơi nào nói như rứa, mà ở Huế cũng
không phải ai cũng nói như rứa. “Ấy và
Mình” chỉ dành riêng cho một lớp người Huế mà thôi. Lớp già cả, lớp quý tộc
không ai nói “Ấy và Mình”. Đàn ông
con trai cũng không ai nói “Ấy và Mình”.
Thời tiểu học, bạn bè gọi nhau là “Mi
Tau” kể cả trai và gái. Miền Bắc học trò thường gọi nhau là “Tớ, cậu, đằng ý”, ở miền Nam, học trò gọi
nhau là “Mày, Tao”, gần đây, học trò
thường gọi nhau là Bạn hoặc gọi tên. Thời tiểu học ở Huế thường gọi “Mi Tau”, lên trung học, đại học, chỉ
riêng các nữ sinh mới gọi nhau “Ấy và Mình”,
nam sinh vẫn gọi nhau là “Mi Tau” có
khi là “ông và tui”. Một số bạn gái gọi
nhau bằng tên, nhưng đa số và rất độc đáo vẫn gọi “Ấy và Mình” cho tới lớn khôn, đi làm rồi, có gia đình rồi, gặp lại
nhau vẫn gọi “Ấy và Mình”, nghe rất lạ.
“Ấy và Mình” vừa thân mật, vừa lịch sự,
không suồng sã, vừa êm tai, nghe thật ngọt ngào, dễ thương chi lạ!
Chỉ có con gái Huế mới xưng hô với nhau “Ấy và Mình”, cả nước không nơi nào xưng
hô như vậy. Rất riêng của Huế. Lúc còn ở Huế, cứ coi mọi chuyện là thường,
không quan tâm gì mấy. Xa Huế rồi mới thấy nhớ da diết, nhớ tất cả những gì có
liên quan tới Huế, nhớ nắng, nhớ mưa, nhớ giọng nói, nhớ món ăn, nhớ bạn bè và
nhớ nhất bạn bè vẫn gọi nhau “Ấy và Mình”
một cách xưng hô thật dễ thương.
Hoàng Hương Trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét