Thầy cô Lê Hữu Thăng
NHÓM THẦY GIÁO TRƯỜNG NGUYỄN HOÀNG VÀ HIỀN LƯƠNG NGHĨA THỤC (1972 – 1975)
Lê Hữu Thăng
Hiệp định Geneve năm 1954, sông Hiền Lương chia đôi đất
nước để một số bà con quận Vĩnh Linh rời bỏ quê hương lánh nạn. Vết thương chưa
hàn gắn được, nỗi đau xót chưa nguôi phai rồi mười tám năm sau, năm 1973, hiệp
định Paris lại chia đất mẹ Quảng Trị thêm một lần nữa. Sông Thạch Hãn cùng với
sông Hiền Lương đi vào những trang sử bi thảm của dân tộc, hòa với những nỗi khổ
đau nghiệt ngã của người dân Quảng Trị. Trận chiến mùa hè năm 1972, hơn ba trăm
ngàn người dân Quảng Trị phải di tản trong những tình huống vô cùng gian lao,
nguy khốn để đến và tạm cư tại Đà Nẵng.
Những căn cứ, doanh trại của quân đội Mỹ ở Đà Nẵng được
tổ chức thành 32 Trại tạm cư, chia làm 2 khu vực tả ngạn và hữu ngạn của sông
Hàn (khu Non Nước và khu Hòa Khánh).
Chỉ một tuần lễ sau, người dân đã có nếp sống tương đối ổn định, phối trí chỗ ở,
trợ cấp thực phẩm (mỗi ngày 500g gạo/người),
nước uống… chương trình giọt sữa cho trẻ con và bánh mì buổi sáng cho người lớn.
Tuy nhiên, còn một vấn đề mà chính quyền chưa giải quyết được: việc học hành
cho học sinh.
Trong bối cảnh xã hội của cuộc sống tạm cư, tái phối
trí sinh hoạt giáo dục là một vấn đề khó khăn. Một số thầy giáo Nguyễn Hoàng đã
nhiều lần trăn trở, nhóm họp với nhau để tìm phương án, ưu tiên là tập trung
các em học sinh bậc tiểu học và học sinh trung học của các trường tư thục Bồ Đề,
Thánh Tâm, Phước Môn… trước đây.
Anh chị em có rất nhiều thiện chí, hy sinh, năng nổ… để
tổ chức giảng dạy, nhưng cái khó khăn là cơ sở, phòng ốc, bàn ghế và kinh phí
điều hành, còn đứng lớp là tinh thần thiện nguyện của anh chị em.
Mọi người được bung ra để thăm hỏi, tìm kiếm nguồn tài
trợ từ các tổ chức từ thiện, xã hội ở Đà Nẵng, Saigon. Mong ngóng từng ngày tin
tức của anh em và một sự may mắn, tình cờ tìm được Tổ chức tài trợ là CƠ QUAN
XÃ HỘI TIN LÀNH VIỆT NAM (Vietnamese
Christian Social Services – VNCS).
Đầu tháng 6 năm 1972, một buổi họp của anh em để đón
tiếp và thuyết trình dự án với Cơ quan tài trợ: Ông Richardson, giám đốc cơ
quan (văn phòng ở SG) và ông Peter Downs, đại diện của Cơ quan tại vùng I cùng
nhóm các thầy giáo thiện nguyện được mang danh xưng D9OGCCTXH/QT, là tổ chức đối
tác với Cơ quan tài trợ.
Phần thuyết trình cũng như những ý kiến phát biểu của
anh em bổ sung cho dự án đã thuyết phục được Ông giám đốc cơ quan, không những
đồng ý toàn bộ dự án từ kinh phí bàn ghế, điều hành… mà cả phụ cấp giáo viên giảng
dạy, thay vì thiện nguyện và theo lời của ông giám đốc, những thầy giáo trong
chương trình phải được tưởng thưởng và cứu trợ như một người tỵ nạn.
II. HIỀN LƯƠNG NGHĨA THỤC VÀ TRƯỜNG TIỂU HỌC
ÁI TỬ:
Dự án giáo dục được tài trợ gồm có:
1. Tiểu
học:
Thiết lập 12 trường Tiểu học, mang tên Ái Tử 1 đến Ái Tử 12. Mỗi trường có 5 phòng học để điều
hành 10 lớp học: 5 lớp buổi sáng và 5 lớp buổi chiều, từ lớp 1 đến lớp 5. Nhân sự
điều hành gồm có một hiệu trưởng, một hiệu phó (phụ trách 5 lớp buổi chiều) và 10 giáo viên đứng lớp. Thù lao của
thầy cô tương đương với lương giáo viên lúc bấy giờ.
2. Trung
học:
Trong cơ chế hành chánh của giáo dục, tổ chức một trường
trung học thật khó khăn và phức tạp, nhưng quan niệm của anh em là cứ tiến hành
và khó đến đâu gỡ đến đó.
Trường được đặt tên là HIỀN LƯƠNG NGHĨA THỤC, điều
hành từ lớp 6 đến lớp 12. Như bạn đọc đều biết, Hiền Lương cũng là một tên
làng, thuộc huyện Vĩnh Linh, có con sông chảy qua làng mang tên Hiền Lương, sau
này là ranh giới chia đôi đất nước bởi Hiệp định Geneve 1954, nhưng trong Hiệp
định địa danh này được đổi thành Bến Hải. Nhóm thầy giáo thiện nguyện mang một
hoài bão không lớn lao như ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC, nhưng trong khái niệm “nghĩa thục” đã hàm chứa một tinh thần tự
nguyện, khai mở một hướng đi tích cực trong một hoàn cảnh đầy khó khăn và đầy
thử thách. Phương hướng khiêm tốn đầu tiên của HLNT là nhằm giúp đỡ những thế hệ
học sinh Quảng Trị đang gặp hoàn cảnh khó khăn của gia đình và xã hội do chiến
tranh gây nên. Hướng chủ đạo của HLNT là kêu gọi sự bảo trợ trong công tác giáo
dục nhằm giúp học sinh Quảng Trị có điều kiện tối thiểu để theo học tiếp chương
trình Trung học, lên được Đại học. Nhóm thành lập chỉ có một hợp đồng đơn giản
với sinh viên tốt nghiệp là phục vụ 4 năm cho quê hương Quảng Trị. Và xa hơn nữa
là mặt tình cảm mang ý niệm Hiền Lương sẽ không còn chia cắt, phân cách người
dân Quảng Trị nữa.
Ngoài ra, anh em cũng đã lên dự án, xây dựng một trung tâm kỹ thuật dạy về ô tô, nông ngư cơ, điện lạnh…, học sinh ăn ở nội trú để sau này phục vụ cho Quảng Trị. Dự án này sẽ được tài trợ bởi các cơ quan Hồng Thập tự (thực phẩm), ACS (xây dựng cơ sở), VNCS (giáo viên giảng dạy và nhân sự điều hành).
Cụ thể về mặt tổ chức cơ bản, ban giám hiệu và điều
hành HLNT gồm có:
Quý thầy: Thái Mộng Hùng, Đỗ Trinh Huệ, Lê Văn Mãn, Lê
Hữu Nam, Trần Kiêm Đoàn, Nguyễn Ngọc Bôi, Lê Hữu Thăng, Nguyễn Bảo. Quý thầy cô
tham gia giảng dạy như: Lê Mậu Tâm, Hoàng Văn Liệu, Trương Sĩ Lộc, Lê Văn Quýt
(thầy Lộc, thầy Quýt là những người rất nhiệt tình, năng nổ, hăng say trong những
ngày đầu thành lập ĐGCCTXH, nhưng sau đó hai thầy vào định cư ở Bình Tuy), Phan
Phụng Thạch, Trần Văn Lữ, Dương Vạn, Nguyễn Nguyên, Nguyễn Thiện Lữ, Lê Văn
Tôn… sau có sự hợp tác của Linh mục Nguyễn Ngọc Hàm (hiện nay là Đức Ông ở
Illinoi) và Linh mục Nguyễn Văn Thanh (hiện nay ở Pháp). Phụ cấp của thầy giáo được các cơ quan tài trợ đặc biệt
quan tâm như thù lao lên lớp là 120đ/giờ, trong khi các trường khác lúc bấy giờ trả
80đ/giờ.
HLNT cũng như các trường tiểu học, dưới mô hình tư thục,
nhưng học sinh không phải đóng học phí mà còn được cấp những học bổng đặc biệt.
Trường Hiền Lương chia 2 trung tâm cho 2 khu vực: Hòa
Khánh và Non Nước để đáp ứng nhu cầu địa lý của các trại tạm cư.
Tất cả các cơ sở giáo dục, 12 trường tiểu học Ái Tử và
2 trung tâm của HLNT đều được khai giảng trong tháng 7 năm 1972, nghĩa là chân
ướt chân ráo đến Đà Nẵng vừa được 3 tháng, một chương trình giáo dục được hình
thành. Nhớ lại những sinh hoạt của anh em thời buổi ấy thật là có sự chung góp
bàn tay và tấm lòng đầy tình nghĩa. Ngoài những buổi sắp hàng nhận gạo, nhận
bánh mì, nhận nước uống… còn bao nhiêu sinh hoạt xã hội và tinh thần cùng phải
lo. Cùng thân phận người dân tạm cư, tỵ nạn, anh chị em rất cảm thông và đùm bọc
lẫn nhau. Người tất bật gồng gánh, xoay xở, chạy đôn chạy đáo cùng anh em, kẻ
lo liên hệ với chính quyền để xin phòng học, người đến các đơn vị quân đội xin
nhà bạt về dựng lớp, xin xe GMC (nhà binh) để chở bàn ghế… thật lắm nhiêu khê,
nhưng anh em đều nhiệt tình chu đáo. Khó mà kể hết những công sức của mỗi người,
phân tích tính năng đa dạng của mỗi thầy cô hay vinh danh từng thầy giáo (khoảng
50 người). Tôi đã có dịp sinh hoạt trong vài tổ chức thanh niên thiện nguyện,
tham gia hoạt động với các tổ chức xã hội và tham dự các chương trình hội thảo,
tham luận của các tổ chức xã hội, cơ quan từ thiện, tôn giáo, nhưng những ngày
hoạt động cùng anh em trong ĐGCCTXH Quảng Trị đã để lại cho tôi nhiều ấn tượng
đặc biệt. Đó là lối sinh hoạt rất dân chủ, đoàn kết, quý mến, hài hòa, nhanh nhẹn
và đạt hiệu năng cao.
III. HLNT TRỞ VỀ QUẢNG TRỊ:
Tháng 9-1972, Cổ thành và 2 quận Hải Lăng, Triệu Phong
được tái chiếm sau gần 3 tháng (81 ngày), Quảng Trị chìm đắm trong ngút ngàn lửa
đạn. Bà con hồi cư trên những nhà cửa đổ nát tan hoang, vườn tược điêu tàn
hoang phế, phế liệu chiến tranh ngổn ngang, bom đạn vương vãi khắp mọi nơi.
Tình cảm thắm thiết với quê hương vượt trên mọi thử thách gian nan, nguy hiểm
và mọi người bắt đầu cuộc sống mới với một tinh thần can đảm phi thường.
Riêng ngành giáo dục Quảng Trị được Bộ giáo dục đặc
cách cho giáo viên được tự chọn nhiệm sở mới, do đó, một số thầy giáo ở lại Đà
Nẵng hay về Huế. Một số giáo viên trường Nguyễn Hoàng nối gót cùng bà con hồi
cư với một cuộc sống khá phức tạp, ăn cơm chợ, ban đêm ngủ lại trường.
Không biết từ thôi thúc bào để anh em chấp nhận một cuộc
sống khắc khổ, gian nguy như thế hay vì tiếng gọi của quê hương, vì “quê hương mỗi người chỉ một” (thơ Đỗ
Trung Quân).
Cuối năm 1972, khi bà con Quảng Trị hồi cư, trường Hiền
Lương được cơ quan tài trợ cấp ngân khoản để xây dựng một ngôi trường tại xã Hải
Trường, quận Hải Lăng và tiếp tục điều hành chương trình học vấn niên khóa 1973
– 1974.
Anh em trong ĐGCCTXH cùng hoàn cảnh và chọn trường Hiền
Lương làm nơi tạm trú. Tình hình an ninh không có gì khả quan, nhiều đêm vẫn
còn nghe tiếng súng giao tranh, vượt ranh giới, lấn đất. Những thầy giáo xa nhà
ngủ trọ qua đêm tại trường chẳng ai có được tiện nghi vật chất, phòng ốc tối
thiểu, phải ngủ trên băng ghế học trò. Thầy giáo đùm đề gia đình thì thường xuyên
thao thức, hồi hộp, thấp thỏm, không biết lúc nào thì phải khăn gói mà tháo chạy.
Nhiều thầy giáo trăn trở với những đêm trắng mắt, không ngủ được vì “ma hành” ở trường Hiền Lương (trường Hiền Lương được xây dựng cạnh cầu Dài,
khu vực của Đại lộ kinh hoàng).
Văn phòng trường Hiền Lương cũng là văn phòng của ĐGCCTXH.
Năm 1974, để hướng dẫn chương trình cứu trợ được hữu hiệu, ĐGCCTXH đã tổ chức 2
ngày hội thảo với sự tham dự của các cơ quan thiện nguyện, tổ chức xã hội từ
thiện của Việt Nam, ngoại quốc, của các tôn giáo từ Đà Nẵng đến Sài Gòn cùng với
bà con nông dân hồi cư… Kết quả rất khích lệ, vì nông dân từ đó có cơ hội đón
nhận được sự tài trợ cụ thể và nhanh chóng những nhu cầu thiết thực cho đời sống
và phát triển kinh tế.
IV. ĐGCCTXH
XUỐNG RUỘNG:
Một số tổ chức có những chương trình yểm trợ nông dân
phát triển kinh tế lâu dài như Thanh niên phụng sự xã hội (Phật giáo), Thanh
niên Cơ đốc Phục lâm (Tin Lành), Caritas (Công giáo)… đều “hành quân” đến Quảng Trị. Riêng tổ chức Xã hội Tin Lành Á châu
(Asian Christian Social Services – ACS) muốn thử nghiệm một chương trình tín dụng,
thành lập những tổ hợp nông dân, giúp nông cụ để nông dân mưu sinh và cần sự
giúp đỡ về nhân sự điều hành và tổ chức các dự án cấp thời. ĐGCCTXH cũng đã nhiệt
tình xung phong xắn tay áo đi vào “thực tế lao động” cùng với bà con nông dân.
Từ đó, ngoài chương trình điều hành trường Hiền Lương, anh em lại về nông thôn
phổ biến và tổ chức, thực hiện các dự án:
a. Quỹ
tín dụng: Bà con nông dân có quyền mượn vốn, không có lãi để mua phân bón, lúa
giống, chăn nuôi. Hợp đồng mượn trong 3 năm, mỗi năm hoàn trả 1/3 số tiền vay
mượn. Số tiền dành cho quỹ tín dụng này là 10.000.000đ.
b.Tổ
hợp trâu cày: Đa số nông dân hồi cư thuộc thành phần nghèo, khó khăn nên không
có vốn đầu tư mua trâu cày ruộng; hay người có chút vốn liếng thì không mạnh dạn
đầu tư… Theo yêu cầu của các cơ quan tài trợ, nhiều tổ hợp vay vốn không lời được
thành hình. Mỗi tổ hợp quy tụ từ 2 đến 3 người, tự chọn và đi mua trâu với số
tiền mượn tùy nghi. Lúc bấy giờ, giá mỗi con trâu cày khoảng từ 80.000đ đến
100.000đ. Sau một vụ mùa, hoàn trả 1/3 và có 3 tổ hợp (1/3 x 3) thu lại gần
1.000.000đ và tổ chức một tổ hợp kế thừa. Chương trình này đã tổ chức được 15 tổ
hợp.
c. Tổ
hợp máy cày: Máy cày tay trị giá 5 triệu đồng và máy cày lớn có người lái trị
giá 30 triệu đồng, phương thức tổ chức thành tổ hợp và trả góp… đã phân phối đến
làng Quy Thiện 1 máy cày tay, làng Long Hưng, làng Bích La mỗi nơi 1 máy cày lớn.
d. Tổ
hợp máy bơm nước: Đã thiết kế 1 máy ở An Hưng, 1 máy ở Quy Thiện, phương thức tổ
chức như các tổ hợp khác.
Dùng số tiền thu gom được tái tổ chức tổ hợp hay tín dụng
cho thôn ấp tại nơi đó, nghĩa là vừa lâu dài, trong vài năm thôi, trong thôn có
cả chục con trâu, quỹ tín dụng được tích lũy dồi dào, đáp ứng được nhiều nhu cầu
phát triển và cải thiện đời sống trước mắt.
Chương trình đã được thực hiện rất tốt đẹp. Đàn trâu từ
15 con lúc ban đầu, sau vụ mùa thứ nhất đã có 20 con. Thế rồi, tháng 3 năm
1975, quân Bắc Việt vượt tuyến đánh chiếm Quảng Trị. Trong những ngày cuối cùng
đó, những bác nông dân đã dẫn trâu hoàn trả cho chúng tôi tại trường Hiền
Lương, riêng chiếc máy cày thì trả lại Đà Nẵng. Tinh thần đó đã nói lên những
nét đẹp, trách nhiệm, chân chất, thật thà của nông dân Quảng Trị.
Một quá khứ đầy biến động với bao nhiêu kỷ niệm vui buồn
đã qua đi hơn ba mươi năm rồi, có đồng nghiệp đã ra đi vĩnh viễn, những người
còn lại rải rác trên mọi miền đất nước. Đã nhiều lần chúng tôi, Đoàn, Thăng,
Nam, Bôi… đi tìm nơi an nghỉ của anh Lê Văn Mãn để viếng thăm anh nhưng mò mẫm
mãi vẫn chưa thỏa với ước mong. Tôi vẫn còn ấm ức vì chiều 30 Tết Mậu Ngọ, anh
chị Mãn còn ghé thăm tôi ở Đà Nẵng, rồi ngày mai được tin anh tử nạn tại Nam Ô
(?!) Có những đêm, mùa đông rét mướt. anh em gặp nhau tại trường Hiền Lương,
bên đóm lửa bập bùng của những cành dương liễu, anh em luận bàn chuyện điều
hành các dự án với tất cả nhiệt huyết và tâm hồn yêu thương Quảng Trị. Những đồng
nghiệp còn lại mỗi khi gặp nhau không khỏi luyến tiếc một thời với HLNT. Ba năm
trước đây, Đức Ông Nguyễn Ngọc Hàm có dịp đến Colorado và ghé thăm tôi, câu
chuyện trường Hiền Lương như một kỷ niệm sâu đậm trong sự nghiệp giáo dục của Đức
Ông.
Và xin mượn bài viết hôm nay để gợi nhớ đến các đồng
nghiệp, một thời đã hiến dâng công sức, trí tuệ, hiệp lực cùng nhau xây dựng
nên HIỀN LƯƠNG NGHĨA THỤC và chia sẻ những khó khăn, gian khổ của nông dân Quảng
Trị. Xin đón nhận nơi đây như 1 nén hương vô vàn thương nhớ gởi đến các thầy của
HLNT đã vĩnh biệt bạn bè, đồng nghiệp, học sinh: Quý thầy Lê Mậu Tâm, Lê Hữu
Nam, Lê Văn Mãn, Phan Phụng Thạch, Trần Văn Lữ, Lê Văn Tôn, Phan Văn Cẩn…
Thế hệ thầy cô Nguyễn Hoàng đầy nhiệt huyết thời kỳ của những năm 1960 giờ đang
lên hàng hưu trí. Ghi lại những hồi ức một giai đoạn đời người và thế sự đầy
gian nan của Quảng Trị để nhắc nhở với nhau rằng, hoàn cảnh và số phận con người
thường xuyên đổi thay, chỉ có tấm lòng đối với quê hương và tình người đối với
nhau là nét đẹp không tàn phai của một thời và mãi mãi.
Lê Hữu Thăng
Colorado, tháng 11-2005
1 nhận xét:
Nhớ hồi trong trại 5 Non Nuoc năm 72-73, thầy dạy trường Nguyễn Hoàng, cũng được thầy Lê Hữu Thaeng mời dạy trường HLNT trong nhà vòm.Giai đoạn trườngNH hồi cư về Diên sanh,trường HLNT cũng mở ở gần đó.
Đăng nhận xét