BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Tư, 31 tháng 8, 2022

VỀ MỘT QUÃNG ĐỜI TRỊNH CÔNG SƠN (Kỳ 9) - Nguyễn Thanh Ty


Tác giả bài viết Nguyễn Thanh Ty
 
Vẫn Ông Già Thống:
 
Nếu cứ trưa thứ sáu Sơn "dọt", sáng thứ hai về thì cuộc đời rất phẳng lặng không có gì để nói. Đằng này Sơn không có thói quen đều đặn về giờ giấc. Thời gian của Sơn chậm lại, có khi trễ từ 24 tiếng đến 48 tiếng đồng hồ mỗi tuần là thường. Cứ mỗi lần trễ như vậy, tôi lại nghe tiếng xe gắn máy cũ kỹ của ông già Thống chạy xành xạch vô ngõ. Những bận như thế, sau khi ca cẩm, than thở một lúc, ông lại nhờ tôi nói hộ với thầy Sơn, đừng đi lâu quá, khổ cho thân già ông. 

Có lần tôi phát cáu, gắt lại ông:
- Bác Thống này! Bác nhờ tôi nói hộ. Tôi đã nói với ông Sơn y như lời bác. Cớ sao khi gặp ông Sơn bác lại bảo không có gì, chuyện nhỏ mà! Thầy có công việc cứ đi, để lớp tôi trông cho. Ông Sơn lại cự nự tôi cho tôi đặt chuyện.
 
Đang lúc bực, tôi tuôn một hơi dài. Nhưng khi nhìn cái miệng méo xệch bị trúng phong từ lâu thành tật của ông cố phân bua:
- Thầy nghĩ xem! Ông ấy là "sếp" của tôi mà! Khó cho tôi nói quá!
Lòng tôi lại chùng xuống, bất nhẫn với mình, và cảm thông cho ông.
 
Dạo gần nghỉ hè niên khóa 1965, Sơn ở luôn trên Đà Lạt hơn một tháng. Ông Thống kham hết nổi. Con ngựa già "đã mỏi vó trên đồi quê hương" buộc lòng ông phải đến Ty báo cáo sự vắng mặt cuả ông sếp mình. Ông Lê Cao Lợi phải điện một công văn khẩn nhờ đài phát thanh Đà Lạt thông báo cho Sơn về nhiệm sở gấp. Hạn cho một tuần, kể từ ngày loan báo, nếu không trình diện coi như đào nhiệm.
 
Hôm sau đã thấy Sơn lò dò về trình diện. Chắc chắn kỳ này Sơn sẽ lãnh cái búa tạ của ông Lợi giáng xuống do hai vụ cộng lại. Vụ trước làm ông mất mặt với tòa Tỉnh. Nặng ký thì thuyên chuyển vô trong núi xa như Tân Rai hay Tân Lú tha hồ nghe chim kêu vượn hú. Nhẹ thì chế tài hành chánh, ngưng thăng trật một năm. Nhẹ nữa thì thư khiển trách lưu hồ sơ. Nhưng ông Lợi chỉ khiển trách sơ sơ rồi bỏ qua, chỉ bằng miệng chớ không ghi hồ sơ cá nhân.
 
Khi nghe tin Trưởng giáo về, ông Thống vội đến ngay để "thăm" ông sếp của mình. Cố tạo một khuôn mặt thật tươi, ông Thống cười nói, hỏi thăm rất sốt sắng, nhiệt tình. Sơn tỏ vẻ biết lỗi nên nhỏ nhẹ:
- Chắc trong thời gian tôi vắng mặt khá lâu, bác vất vả lắm phải không?
 
Tôi nhìn ông Thống chờ xem phản ứng của ông. Nhưng tôi nhầm. Ông Thống vần cười nói thản nhiên:
- Ối giời! Tôi thì tôi lo cho thầy đi đường có bất trắc gì không, bởi thầy đi lâu quá. Chứ cái đám học trò thì có gì mà mệt. Thầy đừng có quan tâm. Tôi đã từng mấy chục năm giời trong nghề này rồi. Như ăn cơm bữa ấy mà!
 
Tôi trố mắt nhìn ông, kinh ngạc. Thì mới hôm qua, ông đến đây, vò đầu bứt tai than vãn làm như sắp chết đến nơi. Ông cứ rền rĩ cái điệp khúc quen thuộc: - Ối giời ơi! Tôi chết mất! Tôi chết mất! Thế mà bây giờ lại hoàn toàn trái ngược, coi như chuyện hôm qua, chuyện bữa trước, chuyện tháng trước ông nói với tôi không có gì xảy ra hết. Sơn lại dò dẫm:
- Này bác Thống! Bây giờ tôi còn nhiều việc phải làm trên Đà Lạt, vài hôm nữa, nếu tôi về không kịp, bác trông hộ lớp cho tôi nhé!
- Vâng! Vâng! Thầy cứ đi. Thầy cứ lo cho xong công việc của thầy. Thầy cứ để mặc đấy cho tôi. Mấy cái đứa học trò ranh ấy mà. Chả có gì phải lo sốt.
 
Ông Thống sốt sắng đáp. Sơn kín đáo quay sang tôi, nháy mắt. Thế là xong. Ông Thống lại vào tròng. Sơn tiễn khách:
- Thôi bác về nghỉ nhé. Cám ơn bác đã đến thăm.
 
Ông Thống cầm nón đứng lên toan ra cửa, nhưng làm như sực nhớ ra điều gì. Ông lục cặp, lôi ra một xấp giấy tờ, lật qua, lật lại vài trang rồi đưa cho Sơn và nói:
- A! còn cái này nữa chứ, xuýt nữa là tôi quên khuấy mất. May quá lại nhớ. Nhờ thầy xem qua một tị.
 
Sơn cầm xấp giấy xem qua một lượt rồi nói với ông Thống:
- À! Phiếu phê điểm hằng năm của bác đây mà.
- Vâng! Phải ạ. Nhờ thầy phê cho mấy chữ và cho điểm bên cạnh.
 
Ông giải thích thêm:
- Trước kia, trường mỗi mình tôi. Hàng năm ông thanh tra đến khám xét và phê điểm. Năm nay có thầy về thì cái việc này do thầy quyết định ạ.
 
Sơn tần ngần một lúc rồi nói:
- Bác Thống này! Bác muốn tôi phê như thế nào?
- Vâng! Thầy cứ xét xem năng lực và cách làm việc của tôi suốt niên khóa có chăm chỉ, đều đặn không, có bê trễ trong việc dạy dỗ học trò không thì thầy phê vào.
 
Ông cố ý kéo dài những chữ chăm chỉ, bê trễ như để nhấn mạnh thêm trọng lượng của từng chữ. Sơn cảm thấy quá khó trong công việc này. Có lẽ Sơn tự thấy mình quá bê bối trong việc dạy dỗ học trò, lại còn trút gánh nặng cho đồng nghiệp, dù người ấy đã già, đáng bậc cha, chú của mình, thì lấy tư cách gì để xuống bút một lời phê. Sơn đưa mắt nhìn tôi, thầm hỏi ý kiến. Tôi đề nghị:
- Theo tôi, cứ để cho bác ấy tự phê mình thế nào thì tùy, ông chỉ cho điểm thôi. Thế là ổn.
 
Sơn thoát nạn, quay sang ông Thống, Sơn nói:
- Thế nhé! bác nhé! Bác về nhà muốn phê như thế nào thì tùy bác. Bây giờ bác muốn bao nhiêu điểm?
Ông Thống rụt rè:
- Tùy thầy cho bao nhiêu tôi nhờ bấy nhiêu!
Sơn xởi lởi, rộng rãi:
- Tôi cho bác 100/100 điểm nhé!
Ông Thống giật nẫy mình kêu lên:
- Chớ! Không được đâu thầy! Từ xưa đến giờ chưa có ai đạt được 99/100 điểm cả. Thầy cho như thế tôi lại chết.
Sơn cười cười:
- Thế thì bao nhiêu là hợp lý là hở bác?
Ông Thống thở dài:
- Thôi thì thầy cho tôi 98 điểm cũng được!
Sơn đồng tình:
- Ừ! Thì 98 điểm nhé! Bác nhé!
 
Sơn ngoáy con số 98 trên 100 rồi ký tên mình dài ngoằng ở dưới. Xong, đưa trả phiếu điểm lại cho ông Thống. Ông run run đưa tay đỡ và nhét xấp giấy vào cặp, miệng cám ơn Sơn mấy lần nữa mới ra khỏi cửa, dắt chiếc xe cà tàng ra ngõ. Nét mặt rạng rỡ chưa từng thấy từ trước đến giờ. Tôi tiễn ông ra cửa:
- Hôm nay bác Thống thích nhé! Từ giờ về sau đừng nhờ gì tôi nữa nhé!
 
Ông quay lại giơ tay khoát khoát ra hiệu ngụ ý đừng nói gì. Khi ông khuất sau hàng lau, tôi ôm bụng cười sặc sụa. Sơn cũng cười, hỏi tôi:
- Ông thấy sao?
- Thì trăng với sao gì nữa! Ngày nào ổng cũng đến đây nhăn nhó, cáu bực, ca bài ca con cá. Hôm nay lại nhũn như con chi chi. Hóa ra là vì cái phiếu phê điểm. Mà ông lại cho cái điểm "ác ôn côn đồ" làm ổng xuýt đứng tim.
 
Sơn cười khoái chí:
- Ối điểm trên trời mà. Quyền của mình, mình cứ cho thoải mái, mất gì cho cam!
 
Bài Ca Dao Bên Cồn Đá:
 
Một hôm Sơn bỗng hỏi tôi:
- Này ông! Không hiểu ông Phạm Duy suy nghĩ bằng cách nào mà ổng đặt được những lời ca hay quá chừng. Tôi không ngờ được !
 
Tôi tán đồng và phụ họa:
- Dĩ nhiên là như vậy rồi. Từ xưa tới giờ Phạm Duy là số một. Có ai hơn được ổng đâu!
 
Tôi nghe Sơn nhâm nhẩm hát vài câu rồi lại hỏi:
- Như cái câu "Đêm qua ra đứng bờ ao. Trông cá, cá lặn. Trông sao, sao mờ. Buồn trông con nhện giăng tơ. Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai?" Ông thấy có tuyệt không?
 
Tôi bật cười:
- Tưởng ông đơn cử bài gì, chớ bài này thì ổng lấy ca dao ra phổ thành nhạc. Ổng đâu có đặt lời. Ổng còn lấy thơ của người khác phổ nhạc cũng tuyệt lắm. Tôi mê hai bài thơ của Phạm Thiên Thư "Đưa em tìm động hoa vàng""Ngày xưa Hoàng Thị" ổng cũng phổ nhạc thật tuyệt vời.
 
Sơn rất ngạc nhiên, hỏi lại:
- Mình có ca dao hay như vậy sao ?
 
Tôi đọc một mạch hết bài "Nhớ ai"- "Buồn trông chênh chếch sao mai..." Thuận miệng, tôi đọc luôn bài "Nụ tầm xuân"- "Trèo lên cây bưởi hái hoa..."
 
Sơn nói:
- Đó! đó bài nữa đó! Sao lâu nay tôi không biết cà?
Đến phiên tôi ngạc nhiên:
- Từ đệ ngũ đến đệ tam, học sinh nào chẳng học môn văn chương bình dân, trong đó có ca dao, tục ngữ, hát đố, truyện cổ... Chẳng lẽ ông không biết chút gì à?
 
Sơn thú thật:
- Từ nhỏ tới giờ, tôi học chương trình Pháp, nên không biết gì về ca dao, tục ngữ hết.
 
Tôi đùa:
- Thôi rồi! Thế nào ông cũng có học câu "Tổ tiên ta là người Gaulois (*) phải không?
Sơn cười, gật đầu:
- Đó là bài học đầu tiên!
 
Sơn đậu Bac I chương trình Pháp, bỏ ngang việc học khi cha bị tai nạn chết. Khi lên Bảo Lộc, Sơn cùng chúng tôi cố gắng học hàm thụ để có thể tiến thân thêm trong nghề nghiệp. Năm nào đầu niên khóa, Sơn cũng hăm hở mang một lô sách về đọc. Một thời gian ngắn sau khi đi đi, về về Sài Gòn -Đà Lạt, Sơn lại vất sách vào xó cho bụi bám. Năm 1966, Hảo Tâm đã xong cử nhân văn chương. Cuối năm, anh bị động viên vào Thủ Đức trước bọn tôi.
 
Sau cuộc nói chuyện về ca dao, tục ngữ, đêm nào Sơn cũng yêu cầu tôi đọc cho nghe vài bài. Lần nào Sơn cũng xuýt xoa khen hay. Từ đó Sơn mê ca dao, tục ngữ và sưu tầm tài liệu về đọc. Sau này có dịp, Sơn đưa chữ ca dao vào nhạc như bài "Ca Dao Mẹ" có câu "Bài ca dao bên cồn đá" chẳng hạn. Đến lượt tôi chịu thua. Không hiểu nổi - "Ca dao bên cồn đá" là ý nghĩa gì!
 
(*) Nos ancêtres sont des Gaulois
 
Sinh Tử Phù:
 
Sau vụ rao tìm trên Đài phát thanh Đà Lạt và bị quở trách tại Ty, Sơn trở nên cần mẫn hơn, khuôn phép hơn. Ít đi lại Sài Gòn, Đà Lạt hơn. Thỉnh thoảng có đi cũng về kịp sáng thứ hai để đi dạy. Trong thời gian này, Sơn nhận được rất nhiều thư từ. Phong nào cũng dày cộm. Sơn dạy buổi sáng, nên người nhận thư là tôi. Nhìn con dấu bưu điện, tôi biết được là thư gửi đi từ Huế. Đó là thư của bạn Sơn. Cái tên người gửi ở góc trái phong bì lần đầu tôi được nghe, được thấy, lạ lắm. Đó là Hoàng Phủ Ngọc Tường.
 
Từ lúc nhận được những thư đó, Sơn bỗng nhiên thay đổi hẳn tâm tính. Lúc nào cũng có vẻ bồn chồn, lo lắng. Ít đi lang thang những buổi chiều nữa. Có lúc ngồi thẩn thờ, mắt đăm chiêu nhìn qua cửa sổ hằng giờ, yên lặng với khói thuốc. Có khi điếu thuốc từ lúc châm đến lúc tàn, Sơn chỉ rít một hai hơi, rồi quên bẵng đi để nó cháy trên hai ngón tay đến lúc rụi đi. Chiếc gạt tàn chưa hết ngày đã đầy ứ lên, tràn ra cả bên ngoài. Sơn đi mua khóa về khóa chặt vali để cất kỹ những bức thư ấy. Có thư vừa đọc xong, Sơn đem đốt ngay. Không ngăn nổi tò mò, một hôm tôi hỏi Sơn:
- Dạo này tôi thấy ông không được vui. Có chuyện gì vậy?
 
Sơn lãng tránh:
- Đâu có gì! Chuyện nhà mà.
- Sao dạo này ông có quá nhiều thư của ông Phủ, ông Tường gì đó, mà mỗi lần nhận thư, đọc thư xong, tôi thấy ông có vẻ lo lắng thế?
- À! Bạn tôi đó. Ảnh báo cho tôi biết những chuyện không vui của gia đình tôi.
 
Thấy nói chuyện gia đình, tôi không tiện hỏi thêm.
Trước kia Sơn hay kể cho tôi nghe về gia đình anh, về hai đứa em. Em trai là Trịnh Quang Hà, em gái là Trịnh Vĩnh Thúy. Sơn mấy lần rũ tôi về Huế chơi để biết thú ngủ đò trên sông Hương, bánh bèo Âm phủ, cơm hến Vĩ Dạ... Tôi cũng muốn biết cố đô Huế một lần. Hẹn mãi. Nhưng lần nào về Nha Trang, mê sóng nước và thú săn bắn dưới biển tôi lại quên mất chuyện ngủ đò trên sông Hương. Đến nay tôi cũng chưa biết cầu Trường Tiền "sáu vài, mười hai nhịp" ra sao. Bây giờ, đọc báo thấy nói Sơn có bảy anh em. Cô ca sĩ Vĩnh Trinh là út. Nếu cứ tính sinh năm một, năm 1957 ba Sơn mất, thì Vĩnh Trinh phải năm mươi tuổi hoặc hơn.
 
Sau đó, Sơn lại thường xuyên đi Đà Lạt hơn. Nhưng không phải đến Đà Lạt. Sơn kể cho tôi nghe về một trang trại nào đó ở Phim Nôm, gần Đức Trọng, một quận của tỉnh Tuyên Đức. Sơn ở đó có khi hai, ba ngày với vài người bạn để bàn chuyện làm ăn. (Sơn không nói tên những người đó). Có lần Sơn rủ tôi làm ăn chung. Lương mỗi tháng mười ngàn. Tối trố mắt kinh ngạc:
- Công chuyện gì mà lương mỗi tháng mười ngàn? Họa là làm cho Việt Cộng ?
 
Sơn xua tay, gạt ngang:
- Nhảm! Ông không làm thì thôi. Nói bậy chết có ngày!
 
Tôi cười hì hì rồi quên đi. Một lần, Sơn về sau hai ngày bàn chuyện làm ăn, khoe với tôi mọi việc đều tốt đẹp và được đãi một chầu "Cà phê cứt chồn" nhớ đời. Sơn vui vẻ kể:
- Hồi giờ nghe nói cà phê chồn, mấy tiệm đều quảng cáo cà phê cứt chồn, giờ mới biết là láo hết. Làm gì có mà bán. Một đồn điền cà phê mênh mông, cho người đi nhặt cả tuần lễ, chưa chắc có được một ký. Chồn nó lựa những trái cà phê chín đỏ để ăn, rồi ỉa ra hột lẫn trong phân. Chủ đồn điền biệt phái một hay hai người đi lượm những hột đó, đem về phơi khô, rang, tẩm. Sau nhiều giai đoạn chế biến mới thành cà phê uống được. Không đủ biếu quan đầu tỉnh, đầu quận thì làm gì có mà bán ra thị trường.
 
Tôi vẫn thắc mắc:
- Cả một rừng cà phê bạt ngàn mà ông nói lượm không được một ký?
- Đúng vậy! Người ta không đợi cà phê chín mới hái. Nó sẽ rụng xuống đất hết. Trái vừa già có màu xanh đen là người ta đã hái rồi. Nói là hái chứ thật ra tuốt hay suốt. Trái cà phê mọc thành từng chùm dài như tiêu hay chùm ruột.
- Ông uống thấy mùi vị nó ra sao? Có bay mùi chồn không?
- Không! Nó có mùi thơm đặc biệt lắm. Cái mùi nó quyện trong hơi nóng bốc khói là là trên miệng chén, tỏa hương chầm chậm, thơm lâu lắm. Tôi nhâm nhi từng chút một để cho cái lưỡi và cái lổ mũi tôi thưởng thức hết cái ngon của nửa tách cà phê. Chỉ có nửa tách thôi, suốt một đêm hai con mắt tôi thao láo, không nhắm được. Đến bây giờ, (lúc Sơn về kể) tôi vẫn tỉnh táo mà không cảm thấy mệt.
 
Nghe nói, tôi đâm thèm và ao ước:
- Ông có xin họ một ít không? Đem ra pha thử cho tôi uống một chút?
- Ở đó mà ham! Tôi lên xuống cả tháng nay, giờ mới được đãi có nửa tách. Một tách còn chưa có thì làm gì họ cho một ít mang về. Vả lại, ai mở mồm xin, "ốt dột" chết!
 
Hè năm 1965, tôi mãi mê vui đùa với nắng gió, sóng nước ở bãi biển Nha trang nên quên lời hẹn với Sơn ra Huế để Sơn dẫn tôi đi thăm thú các nơi. Hết hè, tuy vẫn còn luyến tiếc những ngày vui trôi qua quá mau, tôi cũng phải trở về Bảo Lộc để kịp ngày khai giảng niên học mới.
 
Trở lại ngôi nhà trọ, tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy Sơn đã có mặt ở đây rồi. Căn phòng bừa bộn, bẩn thỉu. Toàn là tàn thuốc lá. Chỗ nào cũng đầy tro tàn. Bao thuốc lá Bastos xanh trống không xếp đầy chung quanh tường, cao gần tới đầu gối. Sơn nằm dài trên đi văng. Mùng vẫn buông, ám khói vàng khè. Dưới gầm bàn giỏ rác đầy ứ. Giấy loại quay ronéo vàng xỉn, vo tròn, xé nát vất đầy mặt đất. Xác cà phê khô đóng mốc xanh, trắng vươn vãi chỗ này một nhúm, chỗ kia một tụm. Tôi la lên:
- Ông không về Huế nghỉ hè sao?
- Không! Tôi ở lại đây luôn. Cũng không về Sài Gòn. Sơn uể oải vừa chui ra khỏi mùng vừa nói.
- Còn lại một mình bà Phi có nấu cơm cho ông không? Tôi hỏi thêm.
- Không! Sơn lắc đầu. Tôi ăn cơm bữa ở Ngọc Sơn. Tám đồng một bữa. Siêng thì đi ăn, làm biếng thì ở nhà gặm bánh mì. Bà Phi về Sài Gòn cả tháng nay rồi. Cô người làm cũng về quê luôn. Tôi nhìn Sơn ái ngại. Sơn xanh hẳn. Mặt hốc hác. Tóc râu bờm xờm. Người đã ốm o sẵn, nay lại càng gầy thêm. Gầy rạc. Bộ đồ pijama trở nên rộng thùng thình, nhàu nát, đen xỉn. Có lẽ ba tháng nay không giặt. Nhưng đặc biệt nét mặt Sơn rất vui và rạng rỡ. Vừa xếp dọn lại chỗ nằm của mình, tôi vừa trò chuyện:
- Ông làm gì mà nằm ép rệp ở đây tới ba tháng lận! Không buồn à?
 
Sơn phấn khích chìa tập nhạc ra khoe với tôi:
- Công trình ba tháng đó!
 
Tôi cầm xấp bản thảo, liếc qua trang đầu có nhan đề "CA KHÚC DA VÀNG". Lật thêm mấy tờ bên dưới thấy những bản nhạc có tựa đề rất lạ như "Gia tài của Mẹ"- "Đàn bò vào thành phố"- "Người già và em bé"- "Người con gái Việt Nam da vàng"... với những lời ca lạ lẫm, khác hẳn với những lời trong tình ca đến 180 độ. Tôi ngờ vực có một cái gì đó đã thay đổi con người Sơn. Sơn đã lột xác. Tôi chăm chú nhìn Sơn để tìm xem cái gì khác trên khuôn mặt xương xương kia. Nhưng tôi không nhìn thấy gì cả. Chỉ trong đôi mắt, sau lần kính cận, ánh lên vẻ khác thường. Tôi chưa xác định được rõ ràng là cái gì. Có một cái gì đó mơ hồ lấp ló trong trí tôi rồi vụt biến mất. Cái mơ hồ đó tôi chưa kịp đặt tên cho nó, và cũng chưa nghĩ ra được một chữ thích hợp cho trạng thái đó trong lúc này. Thấy tôi im lặng lật hết tờ này qua tờ khác, Sơn hỏi:
- Ông thấy sao? Được chứ?
- Tôi mới đọc lời thôi! Chưa biết nhạc ra sao! Chưa có ý kiến được. Thôi bây giờ ta đi ăn cơm. Tối nay ông hát cho tôi nghe thử vài bài được không?
 
Sơn đồng ý. Chúng tôi ra Ngọc Sơn ăn cơm chiều. Cơm nước xong, chúng tôi lững thững đi ngược về hướng bờ hồ để lên Câu lạc bộ uống cà phê, ngắm lại cảnh sương chiều bốc dần lên từ chân cầu nhà Thủy Tạ hình bát giác sơn màu đỏ chói và cái cây chết khô giữa hồ. đứng một mình, cô độc.
 
Tối đó Sơn hát cho tôi nghe một vài bài tiêu biểu trong tập "Ca khúc da vàng". Đến những đoạn như "Gia tài của Mẹ: một bọn lai căng... một lũ bội tình" hay như "Đại bác đêm đêm dội về thành phố! Người phu quét đường dừng chỗi lắng nghe" hoặc như "Tôi có người yêu chết trận đêm qua, chết thật tình cờ..." tôi bỗng nổi da gà. Lời ca thật xúc động. Nó xoáy sâu vào tim người nghe rồi chuyền lên óc làm cho rúng động tâm can, tỏa lan dần cơ thể làm cho tứ chi bãi hoải. Sơn ngừng hát, đưa mắt hỏi tôi. Đột nhiên trong óc tôi lóe lên một tia chớp: tôi đã thấy rõ hình dáng của nó và tìm ra được cái tên của nó mà buổi chiều tôi chỉ cảm biết mà không nghỉ ra được. Tôi buột miệng la lên: Sinh tử phù.
 
Sơn ngạc nhiên trố mắt nhìn tôi, chặp lâu mới hỏi:
- Ông nói "sinh tử phù" là ý nghĩa gì?
 
Thời gian đó Sơn chỉ đọc sách Pháp. Hình như đang đọc "Cánh cửa hẹp""Buồn nôn". Tôi thì mê luyện chưởng Kim Dung. Tôi giảng giải sơ lược về môn pháp cấy sinh tử phù cho Sơn nghe. Sơn càng thắc mắc:
- Vậy thì cái chuyện cấy sinh tử phù của ông ăn nhập gì đến tôi?
Tôi chậm rãi, buồn rầu trả lời Sơn:
- Ông đã bị cái ông Hoàng Phủ Ngọc Tường nào đó cấy "sinh tử phù" vào người rồi.
 
Ông còn nhớ có lần ông rủ tôi làm việc với nhóm của ông ở Phim Nôm, trả lương tháng mười ngàn không? Tôi nói đùa: họa may làm cho Việt Cộng, ông giãy nãy la oai oái. Và những lần ông đốt những xấp thư của ông Tường không? Bây giờ trong vòng ba tháng, ông đã sáng tác một đống nhạc, chẳng bù với hai bài "Chiều một mình qua phố""Lời buồn thánh" phải mất hơn sáu tháng? Bây giờ trong nhạc ông không còn những sợi nắng thủy tinh, những lá me bay, những tay gầy guộc nhỏ, những sõi đá biết nhớ biết đau mà toàn những xác chết, những bom đạn, mìn chông, bội phản... Những loại từ này không hợp với con người ông. Tôi e rằng ông đã bị tiêm nhiễm sinh tử phù Việt Cộng của ông Tường cấy vào người ông quá lậm rồi!
 
Sơn phản đối kịch liệt:
- Thôi đừng giỡn cha nội! Cha giỡn kiểu đó chết tôi nghe!
Từ đó, chúng tôi im lặng không ai nói với ai lời nào nữa cho đến lúc tắt đèn đi ngủ.
 
Dần dà trong bọn chúng tôi ai cũng biết Sơn vừa sáng tác một tập nhạc mới. Lại chia làm hai phe. Lúc đó đâu đã có từ "phản chiến" để chỉ loại nhạc này. Chúng tôi cứ ngâm nga mỗi bài vài câu. Phe thích thì cứ khoái... "Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm đô hộ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày..." ca cẩm suốt ngày. Phe chê thì:
- Xí! nhạc Việt Cộng! Cha nội Sơn theo Việt Cộng rồi!
 
Tuy nhiên, sau đó lại quên lãng đi. Chúng tôi vẫn lại bù khú cà phê, bi da, xập xám, vui vẻ ồn ào như trước. Nhưng không ai để ý thấy rằng khi đám nhà binh như Vĩnh, Ngự, Tinh, Thành nhập bọn là Sơn tìm cách lãng tránh. Nhất là lúc có mặt hai chàng Thành, chi khu phó và Tinh, an ninh quân đội. Có lần trong bữa nhậu vui vẻ, không biết vô tình hay hữu ý, Trung úy Thành vừa cười vừa nói:
- Này mấy ông giáo! Tôi xin nói trước, bạn thì bạn, chơi thì chơi, nhưng ông nào theo Việt Cộng thì chúng tôi vẫn cứ bắt như thường đó!
 
Nói xong, anh ta cười hì hì, rồi giơ cao ly lên:
- Nào dô! Dô!
Lúc về, Sơn nói riêng với tôi:
- Chơi với mấy cha nhà binh, ghê thấy mẹ!
 
Thời gian sau, Sơn rất bận rộn. Đi đi, về về, Sài Gòn, Đà Lạt liên tục. Thường xuyên bỏ trường, lớp hơn trước. Nhưng thời gian đi không lâu. Có khi hai ngày. Có lúc ba ngày. Ông già Thống từ ngày được ông trưởng giáo hào phóng cho 100 điểm, há miệng mắc quai, không còn biết than thở với ai, đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Sơn cho tôi biết là đang chuẩn bị in tập "Ca khúc da vàng" và khoe với tôi là giới sinh viên thích lắm. Họ đang yêu cầu có những buổi hát ngoài trời gọi là "du ca". Và Sơn cũng hé cho tôi biết một vài sinh viên có nhiệt tâm đấu tranh như Huỳnh Tấn Mẫm, Nguyễn Văn Toại... sẵn sàng giúp Sơn thực hiện những buổi trình diễn ấy.
 
Những điều Sơn kể và những cái tên xa lạ không ăn nhập gì đến đời sống đang tươi đẹp của tôi nên nó từ tai này qua tai kia trôi tuột đi, chốc lát tôi quên hết. Khi Sơn đi vắng, tôi còn vô khối bạn bè để vui chơi. Nào Tín, nào Bạch, Đạo, Lãng, Tâm mập, Tâm lùn, Hinh, Sang, Hiện, Thao, Rầm, Nhượng... Tuần này xuống Tân Hà, đến nhà ông Hiệu trưởng Ngọc hạ cờ tây. Tuần sau kéo nhau vào ấp Lam Sơn. Hai bên đường vào ấp trồng toàn hoa anh đào, nên còn có tên gọi rất thơ mộng là Đào Hoa thôn. Chúng tôi vào đây để đến nhà ông Tề ngắm phong lan. Ông Tề tuy là nhà nông nhưng có tâm hồn nghệ sĩ. Trên gác Nghinh Phong của ông có đủ loại phong lan mà ông sưu tầm được. Trăm màu, trăm vẻ. Tuần khác lại cùng các cô giáo trẻ Nghiên, Châu, Hải, Trang... đi dạo suối Đại Bình, cách Bảo Lộc chừng vài cây số.
 
Vợ chồng Đỗ Danh Đạo từ Đức về thăm lại chốn xưa.
Đỗ Danh Đạo, Nguyễn Văn Ngọc (vẫn còn ở lại xứ đạo Tân Hà) thăm gia đình anh
Nguyễn Văn Thành, phát ngân viên (người già ốm nhất).  - Ảnh chụp năm 2003
 
Cứ thế, ngoài việc dạy dỗ các em học sinh, tuổi trẻ của tôi đã trải qua những ngày tháng tươi vui, đáng sống trong cái quận lỵ bé nhỏ, mà mới ngày nào tôi gặp Sơn ở bến xe đò một buổi chiều cuối tuần đìu hiu có mưa rả rích. Buồn thúi ruột.
 
                                                                              Nguyễn Thanh Ty

*
Nguồn:
http://www.ninh-hoa.com/NguyenThanhTy-VeMotQuangDoiTCS-09F.htm

(Đón đọc tiếp kỳ 10)

Không có nhận xét nào: