Tác
giả bài viết Sông Thao
Mỗi khi đi chợ Á đông, tôi thường la cà vào quầy nước mắm. Thấy có nhãn nước mắm mới là đứng… nghiên cứu. Dân nước mắm mà lỵ! Dân Mít ta vẫn cừ đùa giỡn với nhau là dân nước mắm nhưng thực ra dùng nước mắm không phải là chỉ dấu của người Việt. Trên thế giới có tới 500 triệu người sử dụng nước mắm trong nấu nướng. Toàn vùng Đông Nam Á là dân nước mắm. Thái Lan có nam-pla, Malaysia có budu, Indonesia có ketjap-ikem, Hàn Quốc có aek jeot, Kampuchia có toeuk trey, Philippine có patis. Tôi đã có thời gian gần một năm phải dùng patis của Philippine khi ngụ tại Quezon City vào năm 1973. Dở ẹc. Cũng phải thôi vì patis chỉ là phụ phẩm của mắm nêm bagoong. Nhưng nói đi cũng phải nói lại. Thời gian đó có patis cũng đỡ khổ cho cái miệng đã quen với nước mắm. Mới đây, khi vào một chợ Á đông ở Montreal, tôi chợt nhìn thấy patis. Nhớ lại một thời, cũng bồi hồi ra gì!
Trung Quốc, Nhật và Hàn Quốc cũng dùng nước mắm nhưng
ít hơn. Hai nước đậm mùi nước mắm là Việt Nam và Thái Lan. Nhưng có một chút
khác biệt. Không biết các nước khác ra sao nhưng dân Thái chỉ dùng nước mắm để
nấu nướng chứ không dùng để chấm trên bàn ăn. Nếu dân các nước khác cũng chỉ để
chai nước mắm trong bếp như Thái Lan thì chỉ có dân Việt ta thượng nước mắm
trên bàn ăn. Vậy thì dân Mít tự cho là dân nước mắm là đúng chỉ số!
Trong các chợ Á đông tại Montreal, nhìn đâu cũng chỉ
thấy nước mắm Thái Lan. Thiệt chán mớ đời! Nhớ lại vào thập niên 90 của thế kỷ
trước, nước mắm làm tại Canada của người Việt mang tên Atlantic nằm đầy trên quầy.
Nhìn đã con mắt biết bao. Thời vàng son đó nay còn đâu. Nước mắm Atlantic, còn
được gọi thân mật là nước mắm “Captain Ngô”, do cựu thuyền trưởng Ngô Sanh lập
nhà máy sản xuất tại tỉnh bang Newfoundland của Canada. Chai nước mắm có dung
lượng 750 mL, có hình con cá ngoi lên khỏi mặt nước với hàng chữ “seafood
sauce”. Phía trên là hàng chữ Việt : “Nước mắm cá thu” là thứ hồi đó mỗi khi cần
nước mắm là xách cổ lên liền khỏi suy nghĩ. Nước mắm của “hải tặc” không lọt
vào mắt dân Canada. Nước mắm Atlantic hồi đó có tìm được đường sang Mỹ không,
tôi không rõ. Nếu không, đó là một thiệt thòi cho dân Việt bên xứ Cờ Hoa. Bởi
vì cá capelin, thứ cá đầy dẫy ở Canada, tươi rói từ dưới biển lên, được làm
thành nước mắm trong một nhà máy hiện đại, sạch sẽ, vệ sinh hết biết, là thứ
vàng màu hổ phách của dân Việt ở Canada.
Nhưng chỉ được vài năm, nhà máy phải
đóng cửa. Quầy nước mắm ở Canada thiếu chai nước mắm có con cá quẫy trên biển.
Nguyên do tại sao? Có người cho rằng tại vì khi đó, các siêu thị do người Việt làm chủ tại Canada còn thưa thớt, giới nhập cảng nước mắm Thái Lan bị mất nguồn lợi nên chèn ép khiến nước mắm Atlantic mất thị trường. Nhưng mới đây, tôi đọc được bài báo “Vats of Seafood Sauce Left to Rot in Small Newfoundland Town” của hai ký giả của hãng tin CBC Rob Antle và Jen White thì câu chuyện phẹc-mê-bu-tích của công ty Atlantic Seafood Co. lại khác. Ông Ngô Sanh tới Canada vào năm 1975 và là cựu thuyền trưởng của chiếc tàu nghiên cứu Sir Wilfred Templeman thuộc Canadian Coast Guard (Lực Lượng Bảo Vệ Ven Biển Canada) thấy loại cá nhỏ capelin có đầy dẫy trên biển vùng St Mary. Cá quá nhỏ nên ngư phủ bỏ không thèm ngó ngàng tới. Ông nghĩ tới việc dùng cá capelin đực để làm nước mắm. Ông bèn xây nhà máy với vốn khởi đầu do ông bỏ ra 400 ngàn đô, tỉnh bang Newfounland góp vào 400 ngàn đô và cơ quan Atlantic Canada Opportunities Agency đóng vô 500 ngàn đô. Năm 1990, nhà máy chính thức hoạt động sau khi Bộ Trưởng John Crosbie cắt băng khánh thành. Chỉ bốn năm sau, năm 1994, ông Ngô Sanh cho đài CBC News biết nhà máy bị các luật lệ ràng buộc của Liên Bang có thể giết chết nhà máy. Vài năm sau cơ quan kiểm soát thực phẩm Canadian Food Inspection Agency tới thanh tra và đưa ra kết luận việc sản xuất và tồn trữ nước mắm thiếu vệ sinh. Nhà máy phải đóng cửa ngưng sản xuất.
Nguyên do tại sao? Có người cho rằng tại vì khi đó, các siêu thị do người Việt làm chủ tại Canada còn thưa thớt, giới nhập cảng nước mắm Thái Lan bị mất nguồn lợi nên chèn ép khiến nước mắm Atlantic mất thị trường. Nhưng mới đây, tôi đọc được bài báo “Vats of Seafood Sauce Left to Rot in Small Newfoundland Town” của hai ký giả của hãng tin CBC Rob Antle và Jen White thì câu chuyện phẹc-mê-bu-tích của công ty Atlantic Seafood Co. lại khác. Ông Ngô Sanh tới Canada vào năm 1975 và là cựu thuyền trưởng của chiếc tàu nghiên cứu Sir Wilfred Templeman thuộc Canadian Coast Guard (Lực Lượng Bảo Vệ Ven Biển Canada) thấy loại cá nhỏ capelin có đầy dẫy trên biển vùng St Mary. Cá quá nhỏ nên ngư phủ bỏ không thèm ngó ngàng tới. Ông nghĩ tới việc dùng cá capelin đực để làm nước mắm. Ông bèn xây nhà máy với vốn khởi đầu do ông bỏ ra 400 ngàn đô, tỉnh bang Newfounland góp vào 400 ngàn đô và cơ quan Atlantic Canada Opportunities Agency đóng vô 500 ngàn đô. Năm 1990, nhà máy chính thức hoạt động sau khi Bộ Trưởng John Crosbie cắt băng khánh thành. Chỉ bốn năm sau, năm 1994, ông Ngô Sanh cho đài CBC News biết nhà máy bị các luật lệ ràng buộc của Liên Bang có thể giết chết nhà máy. Vài năm sau cơ quan kiểm soát thực phẩm Canadian Food Inspection Agency tới thanh tra và đưa ra kết luận việc sản xuất và tồn trữ nước mắm thiếu vệ sinh. Nhà máy phải đóng cửa ngưng sản xuất.
Vậy là phải quay lại với nampla Thái Lan. Miệng là miệng
Việt, đã quen với nước mắm từ ngày còn thơ, mà phải chấm nampla Thái Lan nghe
ra có phần khiên cưỡng. Bởi vì, tuy cùng là nước mắm nhưng hai nước có hai lối
chế biến khác nhau. Tài liệu chính thức của Bộ Nông Nghiệp và Hợp Tác Thái Lan
cho biết như sau về cách chế biến nampla:
“Cá được trộn đều với muối theo tỷ lệ
2:1 đến 5:1 (theo trọng lượng) và sau đó được nhồi chặt vào các chum-vại làm bằng
đất nung. Trước khi nhồi vào vại, một lớp muối được đổ vào đáy vại và một lớp
muối khác dùng phủ trên mặt. Vại được phủ lưới nylon trước khi đậy kín bằng nắp
(đất nung). Trong thời gian lên men, để gia tăng tốc độ lên men, nắp được mở ra
mỗi tháng hai lần và để vại ra ngoài nắng. Sau 12-18 tháng, dịch chiết dược lấy
ra và lọc bã bằng một dụng cụ lọc bằng tre đan hình ống: dụng cụ này được lót vải
mùng bên trong, được đẩy vào sát đến đáy vại nhưng phần trên của ống tre lọc được
dẫn đến một bình chứa. Chỉ lấy phần dịch lọc qua vải và dịch này được giữ trong
chum-vại sạch khác có nắp đậy trong 2-4 tuần. Muối do nồng độ cao có thể kết tụ
nên dịch phải lọc lại nếu cần qua hệ thống lọc máy. Dịch chiết này được gọi là
nampla hạng nhất (first grade nampla). Sau khi lấy nước đầu, phần còn lại trong
vại, khoảng 1/2 đến 1/3 lượng ban đầu được trộn với các vại khác (đã lấy xong
nước đầu); dụng cụ lọc vẫn giữ nguyên trong vại. Một dung dịch nước muối bão
hòa đã lược sạch được đổ vào chum-vại (còn bã sau khi lấy nước thứ nhất). Nước
muối phải ngập trên bã 15 cm và để lên men đợt nhì trong 3-6 tháng, tương tự
như lần lên men đầu. Dịch lấy được sẽ là Nampla hạng nhì. Nước hạng nhì này tùy
nhà sản xuất có thể dùng pha trộn cùng nước cốt nguyên sơ. Sau khi chiết lấy
nampla hạng nhì, bã còn lại được trộn thêm nước muối bão hòa, đun sôi và lọc,
thêm đường caramel và các phụ gia để thành nampla hạng ba. Chính phủ Thái còn
quy định là nước mắm Thái truyền thống
(Traditional fish sauce) có thể thêm các phụ gia trong giai đoạn lên men như dứa
(thơm), đường mía hoặc mía cây để giúp lên men nhanh hơn”.
Nước mắm Việt Nam được làm bằng cá cơm. Mùa cá cơm rơi
vào tháng 11 đến tháng 4 âm lịch năm kế. Cá cơm than là loại số một để làm nước
mắm. Sau khi thu mua cá, nhà sản xuất sẽ loại bỏ những con cá hư, cá tạp. Chỉ
chọn những con cá còn tươi, mắt cá trong, thân cá còn đàn hồi. Muối ướp cá là
loại muối hạt to, đều, có trắng đục ở giữa, viền hơi trong. Khi nếm thử, muối
phải có vị mặn đượm, không quá chát. Muối thu mua sau đó sẽ giữ trong vòng 12
tháng để muối rút hết vị chát và đắng. Cá tươi được trộn với muối theo tỷ lệ
3:1, cứ 3 tấn cá sẽ được trộn đều với 1 tấn muối trong thùng gỗ và mang đi ủ
chượp. Đây là giai đoạn quan trọng trong việc chế biến nước mắm. Chượp là những
thùng cỡ lớn có ba loại: chượp gỗ, chượp xi măng và chượp lu hoặc chum sành. Mỗi
loại chượp lại có đặc điểm riêng và mang lại chất lượng nước mắm khác nhau. Thời
gian ủ chượp từ 6 đến 24 tháng. Thời gian này càng lâu thì chất lượng nước mắm
càng cao. Phơi chượp, đảo chượp và kéo rút là các phương pháp chính trong quá
trình ủ chượp. Nước mắm sẽ mau chín và cho màu đẹp hơn khi được phơi dưới ánh nắng
mặt trời tự nhiên. Thời điểm phơi chượp tốt nhất là trước 10 giờ sáng vì lúc
này nắng dịu nhẹ sẽ không làm chín mắm quá nhanh dẫn đến chất lượng không cao.
Thợ cũng phải đảo chượp trong thời gian này để thu ngắn thời gian chín của mắm.
Trong lúc phơi và đảo chượp, thỉnh thoảng thợ phải kéo rút nước mắm để kiểm
tra.
Sau thời gian ủ chượp, khi nước mắm đã chín và dậy mùi thơm thì người ta sẽ rút nước mắm nhỉ qua vòi ở đáy thùng ủ. Chúng ta thường gọi thứ nước mắm xịn này là nước mắm nhĩ, nhưng đúng ra phải gọi là nhỉ. Nhỉ là nhỏ ra. Nước mắm nhỉ sẽ được rút ra vào khoảng từ 50% đến 70% lượng nước mắm có trong chượp. Phần còn lại sẽ tiếp tục được ủ với nước muối hòa tan cho ra nước mắm loại 1. Nước mắm nhỉ thu được sẽ được đưa vào bể lọc để lọc sạch những tạp chất, giảm lượng đạm thô và lọc váng mắm nếu có. Sau khi lọc, nước mắm sẽ được kiểm phẩm, đóng chai bán ra thị trường.
Bà Phạm thị Mười, 84 tuổi, là người có kinh nghiệm làm nước mắm trong nhiều năm, nói với các ký giả:
“Nè, bây xem, vầy là nước mắm đủ
độ chín rồi đó. Trong vắt hà, mới nếm vào thì thấy mặn ở đầu lưỡi, nhưng sau đó
sẽ cảm nhận được độ ngọt, độ thơm nơi cổ họng. Ai cũng biết cá chượp với muối sẽ
ra nước mắm. Ừ thì vậy nhưng phải ưu tiên chọn loại cá cơm than, những con còn
tươi, lớn đều cỡ đầu đũa, thân mình bóng mẩy. Nếu là cá mua từ dưới ghe lên phải
nhớ múc luôn nước cá chảy ra, còn đọng trên ghe để đổ vô thùng chượp, đó là chất
dinh dưỡng. Loại cá này bảo đảm nước mắm cốt (mắm nhỉ) thế nào cũng 37- 41 độ đạm.
Với nguyên liệu muối nên chọn muối của Bà Rịa - Vũng Tàu, hạt khô, chắc, đủ mặn;
mua về cất vô kho chừng 2-3 tháng cho bốc hơi hết tạp chất rồi hãy lấy ra dùng.
Ngoài việc chọn từng con cá, hạt muối, điều quan trọng nữa là phải chượp đủ 15
tháng”.
Muốn so sánh phẩm chất nampla Thái Lan với nước mắm Việt
Nam, người ta nhìn vào độ đạm ghi trên chai. Nampla thường có độ đạm 20 trong
khi nước mắm Việt có độ đạm lên tới 40, trung bình là 20. Theo quy định của cơ
quan Lương Nông Quốc Tế FAO của Liên Hiệp Quốc thì fish sauce (nước mắm) phải
có độ đạm trên 10. Dưới 10 thì phải gọi là nước chấm (condiment sauce). Các loại
nước mắm công nghiệp có pha chế các hóa chất thuộc loại “nước chấm”. Phần lớn
nước mắm trên thị trường hiện nay là thứ nước mắm công nghiệp này do Thái Lan,
Hong Kong và ngay cả Việt Nam chế tạo ra. Chu kỳ sản xuất loại nước mắm này chỉ
mất có 6 ngày bằng cách cho một loại acid đặc biệt vào hỗn hợp cá tạp và muối.
Nước lấy ra sẽ được trộn với nước mắm sản xuất theo phương pháp truyền thống rồi
thêm màu cho đậm đà.
Tháng 9/2019, ký giả Victoria Burrows, chuyên gia bình luận ẩm thực của Wall Street Journal, BBC Travel, Harper Bazaar và Tatler đã viết một bài so sánh nước mắm Việt và nampla Thái được đăng tải trên tờ South China Morning Post. Cô phỏng vấn hai đầu bếp Việt Nam và Thái. Đầu bếp Việt Nam Que Vinh Dang (Đặng Vinh Quế?), người có nhà hàng “Nhau” tại Hong Kong, cho biết:
“Nước mắm là một phần quan trọng của ẩm thực Việt Nam: nó có thể nâng cao hoặc
phá hủy một món ăn. Có một sự khác biệt lớn giữa nước mắm của người Việt và người
Thái. Nước mắm của người Việt thực sự vượt trội hơn. Tôi chưa từng thử qua một
loại nước mắm Thái nào ngon được như vậy”. Theo ông Quế, không nên nấu ăn với
loại nước mắm nhỉ. Thứ thượng hạng này chỉ dùng để chấm. Sau đó có các mẻ nước
mắm dần dần ít mặn hơn, và “mẻ thứ tư chính là thứ mà nhiều người nghĩ là nước
mắm”.
Vẫn theo bài báo của ký giả Victoria Burrows thì nampla của Thái Lan thiếu sự tinh túy như nước mắm Việt. Nhưng ông bếp trưởng Thái Lan Num, chủ nhà hàng Thái Samuay&Sons ở Udon Thani, Thái Lan, góp ý: “Sự tinh tế trong hương vị nước mắm Việt Nam rất hợp để chấm các món ăn, còn vị nồng của nampla lại làm nổi bật các loại rau thơm và nguyên liệu trong món Thái”. Vậy là Việt khen nước mắm Việt, Thái khen nampla Thái. Huề cả làng! Nếu hiểu nồi nào úp vung đó thì nampla hợp với khẩu vị người Thái, nước mắm hợp với cái miệng Việt Nam. Thôi thì anh nào theo phe anh ấy cho…hòa bình.
Nước mắm Việt Nam, qua tay các đầu bếp danh tiếng, đã
chinh phục được những cái miệng có gang có thép trên thế giới. Đầu bếp thượng
thặng người Pháp Didier Corlou, thành viên Viện Hàn Lâm Nấu Ăn Pháp (Academie
Culinaire de France), cho biết: “Khi nấu ăn cho các nguyên thủ quốc gia, tôi
thường sử dụng những giọt nước mắm thượng hạng trong thức ăn của mình vào những
công đoạn cuối cùng và hầu như mọi người đều rất thích”. Thành quả vui nhất của
ông là đã cho nước mắm vào món gan ngỗng của Pháp. Đầu bếp trứ danh Mỹ Dylan
Fultineer, chuyên trị món hàu, đã cho nước mắm vào món sauce ăn với hàu sống
làm điên đảo thực khách. Đầu bếp Stéphanie Izard, chủ hai nhà hàng thịt nướng nổi
tiếng ở Chicago, Mỹ, đã cho nước mắm vào nước sốt rau trộn ăn kèm với thịt nướng.
Công thức của cô gồm hành, sa tế, giấm và nước mắm. Vị mặn của nước mắm, vị
chua của giấm, vị ngọt của hành, vị đắng của bông cải xanh đã tạo thành một món
sà lách ăn kèm với thịt nướng một cách tuyệt hảo. Nhưng tuyệt hảo nhất phải kể
tới chef cook Jack Lee. Nghe tên tưởng anh là người Hoa nhưng anh là người Việt
chính gốc, đầu bếp nổi tiếng tại Hollywood. Anh đã nhiều lần nấu ăn tại các lễ
lạc cho các ngôi sao tại Hồ Ly Vọng. Anh cũng đã từng làm chef cook riêng cho
các ngôi sao hạng A của Hollywood như Jackie Chan, Chow Yun-Fat, Quincy Jones,
Jacqueline Bisset, David Foster, Michael Jackson. Anh cũng đã nấu ăn riêng cho
nhiều gia đình hoàng gia và tỷ phú trên khắp thế giới. Món anh làm điên đảo giới
thượng lưu của kinh đô điện ảnh là món chả giò 100 đô. Cái độc đáo của món chả
giò…vàng này là nước mắm. Anh ca tụng:
“Nói thật nhé, với tôi nước mắm là tinh
hoa độc đáo không gì thay thế được. Có lần tôi thắng giải nấu ăn cũng nhờ nước
mắm. Rồi các minh tinh, những tỷ phú, những giới siêu giàu mà tôi nấu ăn cho họ
cũng không ngại gia vị nặng mùi này. Ai chê chứ với tôi thì nước mắm là số một,
vừa làm tăng độ mặn và độ ngọt của món ăn, vừa làm món ăn dậy mùi thơm rất quyến
rũ”.
Nước mắm của ta number one như vậy nhưng cớ sao dân Việt hải ngoại chúng ta vẫn cứ phải rước nampla Thái về bếp nhà mình. Đó là do sự yếu kém về xuất khẩu của Việt Nam. Theo các bậc cao niên trong nghề nước mắm ở Phú Quốc thì từ trước năm 1975, nước mắm Phú Quốc đã có mặt trên thị trường Pháp, Mỹ và một số nước khác. Nhưng ngày nay, dù số người Việt sống ở ngoại quốc đông đảo gấp nhiều lần xưa, nước mắm Việt vẫn đi sau Thái Lan nhiều bước.
Nguyên nhân vì
đâu, chắc mọi người đều suy đoán ra. May mắn là mới đây một người Mỹ gốc Việt
là kỹ sư Phạm Thế Cường đã trở về Phú Quốc sản xuất ra nước mắm Red Boat có 30
và 40 độ đạm. Red Boat đã được siêu thị Costco tại Mỹ và Canada nhận phân phối.
Tại Costco Canada, giá bán mỗi chai 500 mL là 12 Gia kim. Hơi đắt hơn nước mắm
thường thường bậc trung tại các siêu thị. Nhưng ai lại so sánh một tiểu thư lá
ngọc cành vàng với một em gái chân quê!
Chuyện chi cũng nên nghe các nhà chuyên môn. Trong nhà
tôi, và tôi nghĩ tại nhiều gia đình Việt Nam khác, bi chừ đều có nước mắm trong
bếp dùng để nấu và Red Boat trên bàn dùng để chấm. Đã tự hào là có máu nước mắm
trong người thì phải chơi đúp như vậy mới đúng điệu công tử… Phú Quốc!
Sông Thao
Nguồn:
https://www.facebook.com/profile.php?id=100007265208765
Sông Thao
Nguồn:
https://www.facebook.com/profile.php?id=100007265208765
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét