Đoạn
văn dưới đây được trích từ chương “Văn Hóa” của cuốn “Hồi Ký Nguyễn Hiến Lê” Tập
III, từ trang 74 đến trang 80, Văn Nghệ xuất bản.
VĂN HÓA
Một trong những công việc đầu tiên của chính quyền là
hủy tất cả các ấn phẩm (sách, báo) của bộ Văn hóa ngụy, kể cả các bản dịch tác
phẩm của Lê Quí Đôn, thơ Cao Bá Quát, Nguyễn Du; tự điển Pháp, Hoa, Anh cũng bị
đốt. Năm 1976 một ông thứ trưởng Văn hóa ở Bắc vào thấy vậy, tỏ ý tiếc.
Nhưng ông thứ trưởng đó có biết rõ đường lối của chính
quyền không, vì năm 1978, chính quyền Bắc chẳng những tán thành công việc hủy
sách đó mà còn cho là nó chưa được triệt để, ra lệnh hủy hết các sách ở trong
Nam, trừ những sách về khoa học tự nhiên, về kĩ thuật, các tự điển thôi; như vậy
chẳng những tiểu thuyết, sử, địa lí, luật, kinh tế, mà cả những thơ văn của cha
ông mình viết bằng chữ Hán, sau dịch ra tiếng Việt, cả những bộ Kiều, Chinh phụ
ngâm… in ở trong Nam đều phải hủy hết ráo.
Năm 1975, sở Thông tin văn hóa thành phố Hồ Chí Minh
đã bắt các nhà xuất bản hễ sách nào còn giữ trong kho thì phải nạp hai hay ba bản
để kiểm duyệt: sau mấy tháng làm việc, họ lập xong một danh sách mấy chục tác
giả phản động hay đồi trụy và mấy trăm tác phẩm bị cấm, còn những cuốn khác được
phép lưu hành.
Nhưng đó chỉ là những sách còn ở nhà xuất bản, những
sách tuyệt bản còn ở nhà tư nhân thì nhiều lắm, làm sao kiểm duyệt được? Cho
nên sở Thông tin văn hóa ra chỉ thị cho mỗi quận phái thanh niên đi xét sách phản
động, đồi trụy trong mỗi nhà để đem về đốt. Bọn thanh niên đó đa số không biết
ngoại ngữ, sách Việt cũng ít đọc, mà bảo họ kiểm duyệt như vậy thì tất nhiên phải
làm bậy. Họ vào mỗi nhà, thấy sách Pháp, Anh là lượm, bất kì loại gì; sách Việt
thì cứ tiểu thuyết là thu hết, chẳng kể nội dung ra sao. Họ không thể vào hết từng
nhà được, ghét nhà nào, hoặc công an chỉ nhà nào là vô nhà đó.
Một nhóm ba thanh niên cũng xin vào xét tủ sách của
tôi. Nhà tôi tiếp họ, hỏi:
– Các cháu học ở đâu? Có đọc sách ông Nguyễn Hiến Lê
không?
Một người học Đại học, đáp có đọc sách tôi. Nhà tôi bảo:
– Nhà này là nhà ông Nguyễn Hiến Lê đấy.
Họ vội vàng xin lỗi rồi rút lui.
Lần đó sách ở Sài gòn bị đốt kha khá. Nghe nói các loại
đồi trụy và kiếm hiệp chất đầy phòng một ông chủ thông tin quận, và mấy năm sau
ông ấy kêu người lại bán với giá cao.
Lần thứ nhì năm 1978 mới làm xôn xao dư luận. Cứ theo
đúng chỉ thị “ba hủy”, chỉ được giữ
những sách khoa học tự nhiên, còn bao nhiêu phải hủy hết, vì nếu không phải là
loại phản động (một hủy), thì cũng là đồi trụy (hai hủy), không phải phản động,
đồi trụy thì cũng là lạc hậu (ba hủy), và mỗi nhà chỉ còn giữ được vài cuốn,
nhiều lắm là vài mươi cuốn tự điển, toán, vật lí… Mọi người hoang mang, gặp
nhau ai cũng hỏi phải làm sao. Có ngày tôi phải tiếp năm sáu bạn lại vấn kế.
Mấy bạn tôi luôn nửa tháng trời, ngày nào cũng xem lại
sách báo, thứ nào muốn giữ lại thì gói riêng, lập danh sách, chở lại gởi nhà một
cán bộ cao cấp (sau đòi lại thì mất già nửa); còn lại đem bán kí lô cho “ve chai” một mớ, giữ lại một mớ cầu
may, nhờ trời.
Một luật sư tủ sách có độ 2.000 cuốn, đem đốt ở trước
cửa nhà, chủ ý cho công an phường biết. Rồi kêu ve chai lại cân sách cũng ngay
dưới mắt công an.
Ông bạn Vương Hồng Sển có nhiều sách cổ, quí, lo lắng
lắm mà cũng uất ức lắm, viết thư cho sở Thông tin văn hóa, giọng chua xót xin
được giữ tủ sách, nếu không thì ông sẽ chết theo sách.
Một độc giả lập một danh sách các tác phẩm của tôi mà
ông ta có trong nhà, đem lại sở Thông tin hỏi thứ nào được phép giữ lại, nhân
viên Thông tin chẳng cần ngó tên sách, khoát tay bảo: Hủy hết, hủy hết.
Bà Đông Hồ quen ông Giám đốc thư viện thành phố, bán
được một số sách cho thư viện, tặng thư viện một số khác với điều kiện được mượn
đem về nhà mỗi khi cần dùng tới.
Tôi nghe lời khuyên của một cán bộ Văn hóa, làm đơn
xin sở Thông tin văn hóa cho tôi giữ tủ sách để tiếp tục làm việc biên khảo,
đơn đó ông bạn cán bộ đem thẳng vô ông chủ sở, ông này chỉ đáp miệng rằng tôi
là nhân sĩ thành phố, cứ yên tâm. Họ có thói việc lớn, việc nhỏ gì cũng không
trả lời bằng thư, sợ lưu lại bút tích mà chịu trách nhiệm.
Ít tháng sau tình hình dịu lần rồi yên, không nhà nào
bị kiểm kê, Chính quyền bảo để xét lại và một năm sau, nạn “phần thư” kể như qua hẳn (*).
Tủ sách của tôi không mất mát gì cả, nhưng từ đó tôi không ham giữ sách nữa, ai
xin tôi cũng cho.
Ngành báo chí và ngành xuất bản, chính quyền nắm hết
vì coi đó là những công cụ giáo dục quần chúng, ở Sài gòn chỉ thấy bán vài tạp
chí Nga, Ba lan, tư nhân muốn mua dài hạn phải đăng kí trước ở sở Bưu điện. Một
người cháu tôi từ Pháp gởi về cho tôi một tờ Nouvel Oservateur (của khối cộng),
số đó bị chặn lại. Nghe nói tờ Humanité của đảng cộng sản Pháp cũng không được
bán trong nước. Tôi chưa thấy một cuốn sách Nga hay Trung hoa nào bán ở Sài
gòn, trừ mấy cuốn về Lénine, về khoa học đã được dịch ra tiếng Việt, ở các thư
viện Hà Nội có thể có sách bằng Nga văn hay Hoa văn nhưng chỉ cán bộ mới được
phép coi, mà cán bộ trong ngành nào chỉ được coi về ngành đó thôi. Cũng có người
đọc lén được.
Sau ngày 30-4-75, tôi muốn tìm hiểu cách mạng Nga từ
1917 đến 1945, nhờ mấy bạn cách mạng tìm sách cho, họ bảo chính họ cũng không
được đọc vì không thấy một cuốn nào cả. Sau tôi mới biết rằng loại đó ngay ở
Nga cũng không ai được phép viết. Như vậy kiến thức hạng trí thức ngoài đó ra
sao, ta có thể đoán được. Một nhà văn hợp tác với viện khoa học xã hội lại nhờ
tôi giới thiệu cho mươi nhà văn, học giả giỏi tiếng Anh và tiếng Việt để dịch
cho viện bộ Bách khoa tự điển Anh gồm 25 cuốn, mà phải dịch gấp vì đó là chỉ thị
của một ông “bự”. Tôi bảo có 50 nhà dịch cũng không nổi vì phải tạo hằng ức
danh từ mới (riêng ngành Informatique trong 30 năm nay đã có một vạn thuật ngữ
rồi); mà ví dụ có dịch nổi thì cũng phải mất ít nhất mười năm mới xong; xong rồi
lại phải dịch lại hoặc bổ túc rất nhiều vì lỗi thời mất rồi: ở Anh, mỗi năm người
ta sửa chữa, bổ túc, in lại một lần; rồi lại phải bỏ cả chục năm nữa, không biết
có in xong được không. Xong rồi, bán cho ai, ai đủ tiền mua? Cán bộ Văn hóa vào
hàng chỉ huy mà dốt tới mức đó!
Tháng 4-1980, có một thông cáo cấm kiều bào hải ngoại
gởi một số đồ nào đó về cho thân nhân trong nước, như quần áo cũ, các thực phẩm
đóng hộp, các thuốc tây không có prospecties cho biết cách dùng, trị bệnh gì…,
mà chỉ cho người ta một thời hạn không đầy một tháng để thi hành. Kẻ nào thảo
thông cáo ra quyết định đó không hề biết rằng những gia đình có thân nhân là kiều
bào ở những nơi xa xôi, hẻo lánh khắp thế giới, phải viết thư cho họ thì họ mới
biết mà thi hành chỉ thị được; và ở thời này, thư máy bay từ Sài gòn ra Hà nội
mất có khi một tháng (trường hợp của tôi), từ Sài gòn qua Pháp, Gia nã đại mất
hai tháng, có khi bốn tháng. Báo chí vạch điểm đó ra cho chính quyền thấy, họ mới
gia hạn cho thêm 5 tháng nữa. Trị dân mà không biết một chút gì về tình cảnh của
dân cả. Họ có vận dụng trí óc của họ không?
Còn hạng nông dân ngoài Bắc thì khờ khạo, ngớ ngẩn so
với nông dân trong này không khác gì một người ở rừng núi với một người ở tỉnh.
Mấy anh bộ đội bị nhồi sọ, trước 1975 cứ tin rằng miền Nam này nghèo đói không
có bát ăn, sau 30-4-75, vô Sài gòn, lóa mắt lên, mới thấy thượng cấp các anh
nói láo hết hoặc cũng chẳng biết gì hơn các anh.
Một anh bộ đội đi xe đò từ Long xuyên lên Sài gòn nghe
hai chị bình dân miền Nam nói với nhau lên Sài gòn sẽ mua xe tăng, máy bay, tàu
chiến… mỗi thứ vài chục cái; anh ta hoảng hồn, tới trại kiểm soát vội báo cho
kiểm soát viên hay có gián điệp trên xe. Chiếc xe phải đậu lại ba bốn giờ để kiểm
soát, điều tra rất kĩ, sau cùng mới hay rằng hai chị hành khách đó đi mua máy
bay, xe tăng, tàu chiến bằng mủ về bán cho trẻ em chơi. Hành khách trên xe nổi
dóa, chửi thậm tệ anh bộ đội; khi xe tới bến Phú lâm, họ còn đánh anh ta tơi bời
nữa. Kết quả của nền giáo dục miền Bắc như vậy. Chính một cán bộ nói với tôi:
“Càng học càng ngu. Thầy ngu thì làm sao trò
không ngu? Nhồi sọ quá thì làm sao không ngu? Có được đọc sách báo gì ngoài
sách báo của chính quyền đâu thì còn biết chút gì về thế giới nữa?”
Một cán bộ khác cho tôi hay ở Hà nội người nào có được
50 cuốn sách là nhiều rồi. Anh ta mới thấy ba trong số 9 tủ sách của tôi đã bảo
nhà tôi nhiều sách như một thư viện. Nhà bác học Sakharov trong một bài báo tôi
đã dẫn, bảo ở Nga không có đời sống tinh thần (vie intellectuelle). Chúng ta có
thể tin lời đó được.
Trước 1975, thấy cuốn nào in ở Bắc cũng từ 10.000 bản
trở lên, có thứ 30.000, 100.000 bản, tôi và các bạn tôi phục đồng bào ngoài đó
ham đọc sách. Bây giờ tôi hiểu lí do. Hà nội mỗi năm xuất bản không biết được
100 nhan đề không (trong này,thời
trước được khoảng 1.000 nhan đề); sách được gởi đi khắp nơi không có sự cạnh
tranh, mà ai cũng “đói sách”; lại thêm nhiều sách có mục đích bổ túc cho sách
giáo khoa, nhất là loại dạy chính trị, như vậy in nhiều là lẽ dĩ nhiên. Sách
bán rất rẻ, nên cuốn nào viết về văn học, sử học mới ra cũng bán hết liền. Mấy
năm nay, giấy khan, in ít, sách vừa phát hành đã bán chợ đen ở Hà nội, không
vào được tới miền Nam; những cuốn như lịch sử tỉnh Vĩnh phú, ngay cả bộ Hồ Chí
Minh toàn tập, ở Long xuyên không làm sao kiếm được một bản, các cơ quan giáo dục
cũng không mua được. Trái lại bộ Lê Nin toàn tập giấy rất tốt, thì ở khắp miền
Nam bán chạy veo veo; người ta mua về để bán kí lô.
Tóm lại, chính sách là chỉ cho dân được nói theo một
chiều, trông thấy một hướng; nên chỉ một số rất ít giữ được tinh thần phê phán,
nhưng chẳng thi thố được gì, sống nghèo khổ, bất mãn.
Nguyễn Hiến Lê
(*)
Tôi lầm. Giữa năm 1981 vì ở khắp các thành phố, thị xã, các sách đồi trụy, băng
nhạc ngụy, cả phim đồi trụy nữa lại lưu hành, nên có vụ kiểm kê các quán cà
phê, sách cũ, nhưng lần này các sách khảo cứu Việt miền Nam và các sách Anh
Pháp không bị hốt.
Nguồn:
https://nghiathuc.com/2019/06/25/nguyen-hien-le-1975-an-tuong-dau-tien-cua-dan-mien-nam-ve-che-do-moi-dot-sach/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét