BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Tư, 22 tháng 7, 2020

CHẠY LOẠN NĂM 1975 - Nguyễn Thị Thu Sương


     
                    Tác giả Nguyễn Thị Thu Sương


         CHẠY LOẠN NĂM 1975

Trong chiến tranh loạn lạc, con người chạy theo đám đông, thấy người này chạy, mình cũng chạy, người này sợ giặc chạy, người thì né tránh những vùng bom đạn. Tuy nhiên, trong đó vẫn có nguời chạy về sum họp với gia đình. Gia đình tôi thuộc trong nhóm người đó.

Thật vậy, gia đình chúng tôi đang ở Bình Tuy, trong lúc đó ông bà ngoại và các dì của tôi ở Nha Trang. Gia đình của bác tôi cũng vậy, bên ngoại đang ở Nha Trang. Cả nhà chúng tôi thống nhất chạy về Nha Trang, có chuyện gì xảy ra thì đành chấp nhận và sống cùng nhau.

Lúc này có nhiều luồng nhận định về tính hình chính trị khác nhau, kẻ nói này người nói nọ, không biết phải tin ai. Ngày 19 tháng 3 năm 1975, Quảng Trị thất thủ, tình hình thấy thật căn thẳng. Dòng người chạy vào Huế nhiều như hồi mùa hè năm 1972. Một tuần sau, ngày 26 tháng 3 năm 1975, Huế lại thất thủ, dân chúng và lính thoái chạy vào Đà Nẵng.


Vì nghe tin có khả năng sẽ chia cắt, lấy đèo Cả làm ranh giới. Cả đại gia đình gồm gia đình bác ruột, cô ruột và gia đình tôi thuê xe chạy ra Nha Trang. Khi cả nhà đến Nha Trang, ngày 29 tháng 3 năm 1975, nghe tin Đà Nẵng thất thủ, quân đội và dân chúng leo lên máy bay và xà lan di tản vào miền Nam.

Chiều ngày 30 tháng 3 năm 1975, nghe nói có nhiều xà lan chở người chạy loạn từ Đà Nẵng cập cảng Nha Trang, mọi người nhốn nháo chuẩn bị chạy tiếp vào Miền Nam. Gia đình tôi thuyết phục ông ngoại và các dì theo gia đình về Miền Nam, nhưng ông ngoại tôi không đồng ý, bảo sẽ về Cam Ranh lánh nạn ít ngày rồi trở lại Nha Trang. Ông ngoại bảo gia đình tôi về lại Bình Tuy đi, tình hình này coi bộ không ổn rồi.

Ngày 01 tháng 4 năm 1975, gia đình tôi quay trở lại Bình Tuy, cả đại gia đình chúng tôi đi trên ba chiếc xe nhỏ trong đó có chiếc xe của anh con bác tôi đi từ nhà máy Thủy điện Đa Nhim về. Xe chạy về Cam Ranh, trên đường quốc lộ 1 một đoàn dài xe nối đuôi nhau chạy về Miền Nam. Xe chạy nhít chậm chạp từ từ, xe đi suốt cả đêm, cả nhà có chuẩn bị thức ăn nhanh để ăn trên xe, nhưng cũng gần cạn rồi.

Chiều ngày 2 tháng 4 năm 1975, xe đến Phan Rang, định nghỉ lại bên đường nấu cơm, nghe tin Nha Trang thất thủ, mẹ tôi phải mang nồi cơm đang sôi, dập tắt củi lửa, rồi vội vã lên xe đi tiếp. Lúc này mọi người thấy bụng đói cồn cào, nhưng không thể làm được gì cả, thức ăn dự trữ đã hết, cả nhà phải ăn cơm sống qua bữa. May thay, sáng hôm sau có chiếc xe chở rau quả từ trên Đà Lạt về, chạy qua cho một vài nắm củ cà rốt, mọi người chùi đại đưa lên miệng nhai cho đỡ đói.


Nước mang theo đã cạn, trời tháng 4 nắng rất gắt, vào địa phận Phan Rang lại càng nắng hơn. Anh tôi lấy những chai nước lấy từ rừng sâu ở Đa Nhim về nghiên cứu, lúc đầu anh còn cho một vài viên thuốc bỏ vào khử trùng để mọi người uống. Nhưng rồi, thuốc khử trùng cũng cạn, mọi người uống luôn, chẳng sợ sốt rét gì nửa. Sau khi tiêu thụ hết mấy két nước suối của rừng sâu, cả nhà khát quá mà chẳng có cách nào xin ai. Không thể chạy vào nhà dân hai bên đường để xin nước, đoàn xe đang đi không thể dừng lại được!

Dọc hai bên đường, người ta ném đồ gia dụng và điện tử rất nhiều như Tivi, tủ lạnh, quạt máy, gường tủ, bàn ghế… đồ đạc của người dân di tản mang theo, không ai đoái hoài cả, có biết còn sống không mà tham lam! Đến một đoạn gần Phan Thiết, coi bộ kẹt xe lâu, ba tôi chạy xuống lỗ chân trâu múc hai bidong nước cho con cái uống đỡ, nước đục ngầu nhưng cả nhà đành phải nhắm mắt uống cho đỡ cơn khát hành hạ.

Đi qua Phan Thiết bắt đầu vào khu rừng tre và lá buông, trời cũng chìm dần vào đêm, gió cũng mát dễ chịu hẳn đi. Các xe đi trước thông tin truyền lại, đường quốc lộ 1 đoạn gần Bình Tuy bị đắp mô (tức có đặt mìn trên đường). Các xe đi trước đã mở một con đường mới trong rừng để đi qua đoạn đường đó. Nhưng họ thông báo đoạn đường đó bị phục kích bằng pháo canon bắn vào, cứ khoảng hai mươi phút hoặc một tiếng “phía bên kia” bắn vào một lần. Mọi người biết thế, nhưng đành phải đi qua thôi, không còn lựa chọn nào nữa. Khi đến đoạn đường đó, tôi thấy hai bên đường nhiều xe đổ ngả nghiêng, đồ đạc lăn lóc, xác người nằm la liệt, cảnh tượng thật kinh hoàng! Xe gia đình tôi lầm lũi đi qua, mọi người chỉ biết cầu nguyện ơn trên che chở. Đoàn xe không thể dừng lại, xe nào bị pháo, thì được xe sau xô hất qua một bên đường để xe tiến lên. Sau những phút giây căng thẳng, xe của gia đình tôi vượt qua được đoạn đường tử thần đó. Đoàn xe tiến vào khu vực tỉnh Bình Tuy, có những xe rẽ vào ngã ba Bốn sáu của tỉnh Bình Tuy cùng gia đình tôi, có xe đi tiếp vào Long Khánh để về Sài Gòn.


Gia đình tôi về đến Bình Tuy bình yên thật mừng. Nhà tôi cũng chưa về lại Động Đền, còn ở lại nhà thầy Trương Sĩ Lộc ở Bình Tuy để nghe ngóng tình hình. Mẹ tôi sợ quá rồi, nói thôi không chạy nữa, phía bên kia có vào thì đành chịu vậy. Nhà tôi ở lại Bình Tuy khoảng gần hai tuần.

Ngày 17 tháng 4 năm 1975 nghe tin Khmer đỏ chiếm đóng Campuchia, bọn Khmer đỏ đuổi những người trí thức, công chức, nghệ sĩ ra khỏi thành phố và tiến hành thảm sát. Máu đã nhuộm đỏ Campuchia! Rùng mình sợ hải, cả nhà tôi quyết định đi vào Vũng Tàu. Cả nhà thuê một chiếc ghe bầu to đưa cả đại gia đình vào Vũng Tàu. Lần đầu tiên tôi đi ghe bầu trên biển, tàu đi cặp ven bờ. Những con sóng nhấp nhô, tôi say sóng, ói đến mật xanh, nằm la liệt không ngóc đầu dậy nổi. Tôi không còn tâm trạng nào để ngắm biển, chỉ cầu nguyện cho tàu mau đến Vũng Tàu.


Chiều ngày 18 tháng 4 năm 1975, tàu cập bến ở làng Long Hương, Bà Rịa thuộc thành phố Vũng Tàu. Cả gia đình tôi về tạm trú tại một trường tiểu học của làng Long Hương, Bà Rịa. Hôm sau ba tôi đi Sài Gòn nhận những tháng lương giáo viên mà chính phủ còn nợ chưa trả, ba tôi đi về tay không, ngân hàng không chi trả, hẹn ngày khác. Khi ở Sài Gòn, ông Đại tá Quân cụ, anh chồng của cô tôi, bảo ba tôi có đi di tản qua Mỹ không?, ông cho đi. Nhưng ba tôi từ chối vì cả gia đình tôi hiện đang kẹt ở Bà Rịa, làm sao ông thể bỏ vợ con ở lại mà ra đi một mình. Ba tôi quay về và muốn đưa gia đình đi Sài Gòn. Nhưng đường đi Sài gòn đã đắp mô một đoạn nào đó gần Biên Hòa, cả nhà đành bỏ ý định đó.


Ngày 21 tháng 4 năm 1975, khi tôi đang ở ngoài cánh đồng của làng Long Hương, tôi nghe từ Radio, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đọc những lời thống thiết trong nước mắt, ông chưởi Hoa Kỳ, tôi nhận thấy tình hình không còn gì tốt đẹp nữa rồi.
Ngày hôm sau, 22 tháng 4 năm 1975 cả nhà tôi về Vũng Tàu được vào ở nhà nghỉ mát của giáo chức Vũng Tàu. Mọi giáo viên các nơi tập trung về ở đây rất đông. Mọi người vẫn chờ đợi, nghe ngóng tình hình.

Tôi gặp lại cậu tôi, một đại úy bị kẹt lại ở Vũng Tàu, cậu dẫn cả nhà đi xem phim. Cậu nói đi xem phim lần cuối, chứ sau này biết bao giờ được xem lại. Hôm đó chúng tôi xem phim Đài Loan “Tình yêu và bóng tối” do tài tử Chân Trân và Đặng Quang Vinh đóng, đó cũng là lần đầu tiên tôi được xem một phim tình cảm tại rạp chiếu bóng.

Những ngày cuối cùng mọi người mệt mỏi, tuyệt vọng và lo sợ. Tôi không biết tương lai sẽ thế nào, những ngày tới sẽ ra sao?
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Tổng thống Dương Văn Minh đã đọc diễn văn đầu hàng, đất nước đã nằm dưới sự kiểm soát của Quân đội Giải Phóng Miền Nam. Quân Giải phóng đã đến tiếp quản, họ vào nơi chúng tôi tạm trú hỏi:
- Mọi người từ đâu đến, gốc gác ở đâu?
Chúng tôi trả lời:
- Chúng tôi từ Bình Tuy tới và quê ở Quảng Trị.
Chú Giải phóng nói:
- Chạy trời không khỏi nắng!
Chú ấy nói đúng thật: “Chạy trời không khỏi nắng!”. Trốn chạy từ năm 1972, rồi đến năm 1975 vẫn gặp lại. Gia đình tôi thuê xe trở về Bình Tuy, kết thúc những ngày chạy loạn. Cầu Cỏ May đã bị giật sập, các xe phải đi tàu phà qua sông, đến khuya xe cũng chở gia đình tôi trở lại Động Đền.

Về nhà, chỉ còn cái nhà trống không, các nhà chung quanh đã dọn sạch đồ đạc của gia đình tôi. Sau đó, ba mạ tôi phải đi từng nhà xin lại đồ đạc của gia đình mình như cái gường, cái tủ, bàn ghế, soong nồi, thau xô, và các thùng phi. Cuộc sống thiếu thốn khổ cực bắt đầu.

                                                                           12/4/2020
                                                                 Nguyễn Thị Thu Sương

1 nhận xét:

Vu Khoa nói...

Chạy từ 72 đến 75, rồi trở lại gặp mấy ông VC để nghe lời mĩa: Chạy trời không khỏi nắng. Chưa bằng Có hàng triệu người chạy từ Bắc vô Nam năm 54, rồi chạy từ nam sang Hoa kỳ sau năm 75. Đến già về lại quê để gởi nắm xương tàn, gặp lại anh công an TSN nhìn nhìn rồi phán một câu : Chạy trời không khỏi nắng. Buồn tủi quá chỉ muốn nhảy xuống đất tự tử chết đi cho rồi.