“VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH”
CỦA ĐẠI THI HÀO NGUYỄN DU
Tháng bảy âm lịch - mùa Vu Lan báo hiếu, cũng là mùa
xá tội vong nhân. Và theo tục lệ tiết tháng 7, người sống sắm lễ vật để cúng tế,
đọc văn khấn kêu gọi các vong hồn “Sống
đã chịu một đời phiền não/ Thác lại nhờ hớp cháo lá đa…” đến dự lễ cúng thí
thực và đọc văn khấn chiêu hồn để các cô hồn đến hưởng lễ vật cúng tế, rồi tới
các chùa để nghe tụng kinh niệm Phật Bài, cầu nguyện cho các cô hồn được giải
thoát trong dịp lễ Vu lan để có thể giải thoát đi đầu thai, hay thoát khỏi kiếp
luân hồi. Bài văn khấn lễ cúng thí thực được sư thầy, thầy cúng đọc là bài “Văn
tế thập loại chúng sanh” của đại thi hào Nguyễn Du.
Bài “Văn tế thập loại chúng sanh” của đại thi hào Nguyễn
Du là một áng thơ hay. Nó còn có những cái tên khác như “Chiêu hồn thập loại
chúng sanh”, “Văn chiêu hồn”, “Chiêu hồn ca”, “Kinh chiêu hồn”…
Văn tế khác điếu văn. Điếu văn - là bài văn đọc khi đến
viếng người vừa chết, chưa mai táng, để an ủi người thân của người vừa chết, gởi
lời thương xót cùng kỷ niệm với người chết.
Văn tế có thể là văn vần, văn xuôi, hay một bài văn biền
ngẫu (có nhiều câu đối nhau thành từng cặp) là bài văn tụng khi cúng tế người
đã chết nhằm tỏ lòng kính trọng, thương tiếc người quá cố
Bài “Văn tế thập loại chúng sanh” có 184 câu thơ, viết
bằng chữ Nôm, theo thể thơ song thất lục bát (hai câu 7 chữ, một câu 6 chữ và một
câu 8 chữ). Bài khấn rất dài mà nhiều thầy cúng đọc thuộc lòng khoảng 15-20
phút.
VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG
SINH
Văn
Tế Thập Loại Chúng Sinh
Tác
giả: Nguyễn Du Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát
hơi may lạnh buốt xương khô
Não
ngườI thay buổi chiều thu,
Ngàn
lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng...
Đường
bạch dương bóng chiều man mác,
Dịp
đường lê lác đác mưa sa
Lòng
nào lòng chẳng thiết tha
Cõi
dương còn thế nữa là cõi âm.
Trong
trường dạ tối tăm trời đất,
Có
khôn thiêng phảng phất u minh...
Thương
thay thập loại chúng sing
Hồn
đơn phách chiếc lênh đênh quê người
Hương
lửa đã không nơi nương tựa
Hồn
mồ côi lần lữa bấy niên...
Còn
chi ai khá ai hèn
Còn
chi mà nói ai hèn ai ngu!
Tiết
đầu thu lập đàn giải thoát
Nước
tĩnh đàn sái hạt dương chi
Muôn
nhờ đức Phật từ bi
Giải
oan cứu khổ độ về tây phương.
Cũng
có kẻ tính đường kiêu hãnh
Chí
những lăm cất gámh non sông
Nói
chi những buổi tranh hùng
Tưởngn
khi thế khuất vận cùng mà đau!
Bỗng
phút đâu mưă sa ngói lở
Khôn
đem mình làm đứa thất phu
Giàu
sang càng nặng oán thù
Máu
tươi lai láng xương khô rụng rời
Đoàn
vô tự lạc loài nheo nhóc,
Quỷ
không đầu đứng khóc đêm mưa
Cho
hay thành bại là cơ
Mà
cô hồn biết bao giờ cho tan.
Cũng
có kẻ màn lan trướng huệ
Những
cậy mình cung quế Hằng Nga,
Một
phen thay đổi sơn hà,
Mảnh
thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên
lầu cao dưới dòng nườc chảy
Phận
đã đành trâm gãy bìng rơi
Khi
sao đông đúc vui cười
Mà
khi nhắm mắt không người nhặt xương.
Đau
đớn nhẽ không hương không khói
Hồn
ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.
Thương
thay chân yếu tay mềm
Càngnăm
càng héo một đêm một dài.
Kìa
những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn
bút son thác sống ở tay
Kinh
luân găm một túi đầy
Đã
đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh
mãn lắm, oán thù càng lắm,
Trăm
loài ma mồ nấm chung quanh
Ngàn
vàn khôn đổi được mình
Lầu
ca viện hát tan tành còn đâu?
Kẻ
thân thích vắng sau vắng trước
Biết
lấy ai bát nước nén nhang?
Cô
hồn thất thểu dọc ngang
Nặng
oan khôn nh9e tìm đường hóa sinh?
Kìa
những kẻ bài binh bố trận
Đổi
mình vào cướp ấn nguyên nhung
Gió
mưa sấm sét đùng đùng
Phơi
thây trăm họ nên công một người.
Khi
thất thế tên rơi đạn lạc
Bãi
sa trường thịt nát máu rơi
Mênh
mông góc bể chân trời
Nắm
xương vô chủ biết rơi chốn nào?
Trời
thăm thẳm mưa gào gió thét
Khí
âm huyền mờ mịt trước sau
Ngàn
mây nội cỏ rầu rầu,
Nào
đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?
Cũng
có kẻ tính đường trí phú
Mình
làm mình nhịn ngủ kém ăn
Ruột
rà khôngkẻ chí thân
Dẫu
làm nên để dành phần cho ai?
Khi
nằm xuống không người nhắn nhủ
Của
phù vân dẫu có như không
Sống
thời tiền chảy bạc ròng
Thác
không đem được một đồng nào đi.
Khóc
ma mướn, thương gì hàng xóm
Hòm
gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn
ngơ trong quảng đồng chiêm
Nén
hương giọt nước biết tìm vào đâu?
Cũng
có kẻ rắp cầu chữ qúy
Dẫn
mình vào thành thị lân la
Mấy
thu lìa cửa lìa nhà
Văn
chương đã chắc đâu mà trí thân.
Dọc
hàng qúan gặp tuần mưa nắng
Vợ
con nào nuôi nấng khem kiêng
Vội
vàng liệm sấp chôn nghiêng
Anh
em thiên hạ láng giềng người dưng
Bóng
phần tử xa chừng hương khúc
Bãi
tha ma kẻ dọc người ngang
Cô
hồn nhờ gửi tha phương
Gió
trăng hiu hắt lửa huơng lạnh lùng.
Cũng
có kẻ vào sông ra bể,
Cánh
buồm mây chạy xế gió đông
Gặp
cơn giông tố giữa dòng
Đem
thân chôn rấp vào lòng kình nghê.
Cũng
có kẻ đi về buôn bán
Đòn
gánh tre chín dạn hai vai
Gặp
cơn mưa nắng giữa trời
Hồn
đường phách sá lạc loài nơi nao?
Cũng
có kẻ mắc vào khóa lính
Bỏ
cửa nhà gồng gánh việc quan
Nước
khe cơm vắt gian nan
Dãi
dầu nghìn dặm lầm than một đời
Buổi
chiến trận mạng người như rác
Phận
đã đành đạn lạc tên rơi
Lập
lòe ngọn lửa ma trơi
Tiếng
oan văng vẳng tối trời càng thương!
Cũng
có kẻ lỡ làng một kiếp
Liều
tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa
Ngẩn
ngơ khi trở về già
Ai
chồng con tá biết là cậy ai?
Sống
đã chịu một đời phiền não
Thác
lại nhờ hớp cháo lá đạ
Đau
đớn thay phận đàn bà,
Kiếp
sinh ra thế biết là tại đâu?
Cũng
có kẻ nằm cầu gối đất
Dõi
tháng ngày hành khất ngược xuôi
Thương
thay cũng một kiếp người
Sống
nhờ hàng xứ chết vùi đường quan.
Cũng
có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi
mình vào chiếu rách một manh
Nắm
xương chôn rấp góc thành
Kiếp
nào cỡi được oan tình ấy đi?
Kìa
những kẻ tiểu nhi tấm bé
Lỗi
giờ sinh lìa mẹ lìa cha
Lấy
ai bồng bế xót xa
U
ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
Kìa
những kẻ chìm sông lạc suối
Cũng
có người sẩy cối sa cây
Có
người leo giếng đứt dây
Người
trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người
thì mắc sơn tinh thủy quái
Người
thì sa nanh sói ngà voi
Có
người hay đẻ không nuôi
Có
người sa sẩy có người khốn thương.
Gặp
phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu
Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi
người một nghiệp khác nhau
Hồn
xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?
Hoặc
là ẩn ngang bờ dọc bụi
Hoặc
là nương ngọn suối chân mây
Hoặc
là điếm cỏ bóng cây
Hoặc
là quán nọ cầu này bơ vơ
Hoặc
là nương thần từ Phật tự
Hoặc
là nhờ đầu chợ cuối sông
Hoặc
là trong quãng đồng không
Hoặc
nơi gò đống hoặc vùng lau tre
Sống
đã chịu một bề thảm thiết
Ruột
héo khô dạ rét căm căm
Dãi
dầu trong mấy mươi năm
Thở
than dưới đất ăn nằm trên sương
Nghe
gà gáy tìm đường lánh ẩn
Tắt
mặt trời lẩn thẩn tìm ra
Lôi
thôi bồng trẻ dắt già
Có
khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.
Nhờ
phép Phật siêu sinh tịnh độ
Phóng
hào quang cứu khổ độ u
Rắp
hòa tứ hải quần chu
Não
phiền trút sạch oán thù rửa không.
Nhờ
đức Phật thần thông quảng đại
Chuyển
pháp luân tam giới thập phương
Nhơn
nhơn Tiêu Diện đại vương
Linh
kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
Nhờ
phép Phật uy linh dũng mãnh
Trong
giấc mê khua tỉnh chiêm bao
Mười
loài là những loài nào?
Gái
trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp
phù sinh như hình như ảnh
Có
chữ rằng:"Vạn cảnh giai không"
Ai
ơi lấy Phật làm lòng
Tự
nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn
chẩn tế vâng lời Phật giáo
Của
có khi bát cháo nén nhang
Gọi
là manh áo thoi vàng
Giúp
cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai
đến đây dưới trên ngồi lại
Của
làm duyên chớ ngại bao nhiêụ
Phép
thiên biến ít thành nhiều
Trên
nhờ Tôn Giả chia đều chúng sanh.
Phật
hữu tình từ bi phổ độ
Chớ
ngại rằng có có không không.
Nam
mô chư Phật, Pháp, Tăng
Độ
cho nhất thiết siêu thăng thượng đài
NGUYỄN DU
Theo quan niệm dân gian Việt Nam thì cái “chết” có 2
hình thức là chết bình thường và chết không bình thường.
Cái chết bình thường là chết do tuổi già, bệnh tật -
có người hương khói, thờ cúng.
Cái chết không bình thường là chết bất đắc kỳ tử do
tai nạn, gươm đao, bão lũ… khiến linh hồn bị trở thành cô hồn (do không được
chôn cất, hoặc được chôn nhưng không có thân nhân biết để chăm sóc thờ cúng, bảo
quản mộ phần…), hoặc những linh hồn tội lỗi khi chết bị giữ lại địa ngục, không
được đi đầu thai.
Tới dịp Rằm tháng 7 âm lịch các cô hồn mới được thả khỏi
địa ngục để được tự do, ăn uống no nê… gọi là ngày xá tội vong nhân, và lễ Vu
lan được coi như ngày giỗ chung của mọi loại chúng sinh.
Lễ Vu lan, rằm tháng 7 âm lịch là lễ trọng thể của Phật
giáo, lòng đại từ, đại bi của chư Phật là tình thương bao la cả người sống và
người ở cõi âm, và bài “Văn tế thập loại chúng sinh” của đại thi hào Nguyễn Du
đã truyền từ đời này sang đời khác, trở thành văn khấn cô hồn tuyệt hay được tụng
trong các mùa Vu lan đại lễ.
La Thụy sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét