Nhà thơ Lang Trương
NÚT
ẤN LỊCH SỬ
Tổ quốc lâm nguy !
Sơn Hà nguy biến !
Sóng ba đào trào ngược
khí hờn căm.
Cắt thịt da mình nuôi hổ
đói 99 năm
Ngày dân tộc bị diệt
vong đang tới
Là kẻ sĩ, không lẽ
khoanh tay ngồi đợi
Con cháu mình lầm lũi
kiếp vong nô ?
Gương ông cha, áo vải cờ
đào
20 vạn quân Thanh, chỉ
5 ngày quét sạch
Bản tuyên ngôn rành
rành lưu sử sách
“ Nam quốc sơn hà nam đế
cư ”.
Máu xương nào còn đỏ bản
địa dư
Từng mảnh giang san xuống
tay tùng xẻo
Những khuôn mặt mỡ
màng, những tâm hồn dặt dẹo
Chẳng máu xương nào thỏa
mãn dạ sài lang.
Hồn ta bay khắp đất Việt
trời Nam
Đâu cũng thấy giống sài
lang phương Bắc
Từng tấc đất xéo quằn
trong tay giặc
Từng tấc đất tủi hờn thấm
đỏ máu cha ông.
Mục Nam Quan đâu hỡi,
có còn không ?
Lũ phản quốc muôn đời
bia miệng thế
Hoàng Sa, Gạc Ma máu
tràn dâng ngập bể
Sóng ba đào trào ngược
khí hờn căm.
Có lẽ nào dâng đất mẹ
100 năm
Mở rộng cửa đón loài quỷ
dữ
Có kẻ rắp ranh thành tội
đồ lịch sử
Nỗi nhục này muôn kiếp
chẳng phôi pha.
Hồn ta bay trên khắp nẻo
sơn hà
Đâu cũng thấy những vết
thương rỉ máu
Những mảnh đời tang
thương, những ánh nhìn đau đáu
Về đâu ?
Hồn Lạc Việt về đâu ?
Cắt thịt mình sao lại
không đau
Máu đã chảy, cả tấm
thân quằn quại
Cá chết trắng bờ, xác
trôi kín bãi
Giang sơn gấm vóc, còn
không ?
Hồn ta bay theo tiếng gọi
non sông
Tiếng gào thét không
cam đời nô lệ
Một trăm năm, một ngàn
năm sau hoặc lâu hơn thế
Nỗi nhục ngày này, muôn
kiếp chẳng phôi pha.
Lang Trương