BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Sáu, 8 tháng 6, 2018

TA NÉN CẢ HỜN CĂM ĐẦU NGỌN BÚT - Thơ Lang Trương

       
          
                  Nhà thơ Lang Trương

TA NÉN CẢ HỜN CĂM ĐẦU NGỌN BÚT
(Vô cùng khinh bỉ gửi bọn bồi bút, văn nô)

Hãy nghe đây, hỡi giống nòi phản quốc !
Tiếng oan khiên đã dậy khắp sơn hà
Tiếng ai oán của những oan hồn trong tiềm thức
Tiếng thảm thiết kêu gào của thịt nấu nồi da.

Lũ các ngươi không ngớt lời phỉ báng
Nào Quý Ly, nào Chiêu Thống đê hèn
Lũ các ngươi cũng hùa nhau chửi mắng :
“Rước voi về, giày mồ mả ông cha”

Hãy rửa tai nghe đây,
nghe thật rõ lời ta :
Chẳng đấng quân vương nào dâng giang sơn cho giặc
Đã xông trận là vươn mình đứng thẳng
Chưa từng cúi đầu nhận tiếng: “Đứa con hoang”.

Trả lại cho ta chứng tích Mục Nam Quan
Nơi Nguyên Trãi tiễn cha về đất Bắc
Nguyễn Phi Khanh dạy con chớ cúi đầu thờ giặc
Hãy nuốt lệ vào lòng, rửa quốc hận thiên thu.

Máu anh hùng rải khắp biên khu
Từng tấc đất giữ gìn cho hậu thế
“Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ”
Máu quân thù đỏ nước Bạch Đằng Giang.

Bốn ngàn năm: “Vạn cổ thử giang san”
Gương trung liệt đời đời soi sáng
Bom Sa Diện nổ tung lòng Lưỡng Quảng
Mộ người anh hùng lấp lánh giữa Hoàng Hoa Cương.

Hãy nghe thật rõ lời ta, lũ điếm bút văn chương
Bóp méo sử là dìm dân tộc ta trong biển máu
Lũ các ngươi mặt mũi nào nhìn con cháu
Khi cơ đồ phút chốc tan hoang.

Hãy mở mắt mà xem, dưới biển, trên ngàn
Đâu cũng thấy một màu chết chóc
Rợ phương Bắc ngàn đời gieo tang tóc
Sao nỡ cúi đầu thờ giặc như cha ?

Có biết nhục không, khi gấm vóc sơn hà
Bị xâu xé bởi loài đã thú
Hay chỉ thoả thuê, một đời no đủ
Hải vị, sơn hào chan nước mắt dân đen.

Ta biết các ngươi nhiều giải thưởng, lắm bằng khen
Nhà nọ, nhà kia vễnh râu vênh váo
Tự ngươi biết, mình chỉ là loài cầy cáo
Theo đóm ăn tàn, tìm chút thịt vãi xương rơi

Hãy sống trung can, lẫm liệt một đời
Để khi chết không miệng đời phỉ nhổ
Đừng làm con bọ hung suốt ngày lo giông tố
Cứ mãi vùi mình dưới đống phân đen.

Chớ làm bẩn văn chương, hỡi lũ đê hèn
Tổ quốc lâm nguy, các ngươi câm miệng hến
Chút hôi tanh, cả bầy xô đến
Bán thánh buôn thần, đổi trắng thay đen.

Hồn thiêng sông núi hỡi, có linh chăng ?
Xin nén cả hờn căm đầu ngọn bút
Chỉ thẳng các ngươi: Lũ văn nô phản quốc
(Loài phản quốc còn biết đâu vinh nhục)
Chẳng đáng làm người, chỉ là giống sài lang.

                                           Lang Trương

ĐÁNH THỨC CON - Thơ Nguyễn Trung Hiếu


          


ĐÁNH THỨC CON

Dậy đi con, Dậy ba dắt con đi
Đến Vân đồn. Đến Bắc Vân phong , Phú quốc.
Nhanh lên con kẻo không còn kịp
Ngày hôm nay người ta bấm nút
Quyết định cho thuê đất của tổ quốc mình
Con tôi vẫn ngái ngủ trong giường
"Người ta thuê chứ có phải mua đâu cha
Thuê rồi trả lại! "

99 năm sau ơi con khờ dại
Lúc đó con và cha xanh cỏ mấy đời.
Nhanh lên con sắp tới giờ bấm nút rồi.


Có thể những đặc khu kia láng giềng người ta đến ở
Và cư dân nói chuyện bằng hoa ngữ
Cha con mình đến đấy có được ko?
Con tôi vẫn uể oải trong màn

"Đặc khu là gì cha?"

Là nơi mà người ta đến đầu tư nhận nhiều ưu đãi
Là nơi mà tiền mọc ra chúng ta chỉ thò tay là hái.
Là chốn người ta cày để chia lãi cho mình.

Con tôi bật dậy thật nhanh
"Thật không cha. Có quốc gia nào mà ngu như rứa.
Mà làm ra tiền chia ta nhiều rứa ????"
"Sao người ta không làm đặc khu cho dân mình cha nhỉ??? "
Chỉ cho dân mình thuê thôi!???

Dậy đi con trời tảng sáng rồi.
Dậy để cha nói với con những điều cha suốt đêm cha không tài nào chợp mắt
Người ta dậy cha nền kinh tế việt nam nên bước lên bằng nội lực
Bằng mũi nhọn xoáy vào công nghiệp nặng con ơi
Bao nhiêu năm mà vẫn thế thôi
Ngành luyện kim ì ạch.
Bán dầu thô cho nước khác
Mua về xăng dầu đã lọc
Buồn ơi.

Dậy đi con. Mở bản đồ tổ quốc ra cha nói con này
Tổ quốc mình một dải
Bờ biển xanh xanh nối tiếp chân trời
Những quần đảo hoàng sa trường sa ở giữa biển khơi
Nước lạ ngang nhiên cướp của mình hơn phân nửa.
Người ta ngang nhiên kéo giàn khoan thăm dò dầu khí
Người ta dùng tàu đánh đuổi ngư dân
Người ta xây cả đường băng
Nếu Nối Trên bản đồ vào ba đặc khu
Như hình chân vạc

Tim cha như có ai bóp nghẹt
Đi thôi con đến thăm những mảnh đất
99 năm cho thuê
Rất có thể
Thành chỗ di dân
Người nước ngoài đông hơn cả việt nam
" sao không là một trăm năm hả cha"
Một trăm là số có ba chữ số
Nghe thấy kinh rồi
99 thôi con ơi

Cái này cha sẽ chỉ cho con thấy ở chiêu bài định giá
Của những nhà marketing
Dậy mà xem những chuyện nực cười
ông giáo dục nước mình vẫn luẩn quẩn trong vòng cải cách
Ông giao thông trưng tấm biển "thu giá" cho trạm bot
Ông giáo dục cũng chẳng vừa
Thay "học phí" bằng học giá liền sau
Cha một đời cúi cổ cày sâu
Con chữ cắn đôi chưa rành mà vẫn thấy gai con mắt
Mà thấy tim mình đau thắt
Người ta ngang nhiên nhân danh cho thế hệ hậu sinh mình.

                                                    Nguyễn Trung Hiếu

Thứ Năm, 7 tháng 6, 2018

VÂN ĐỒN TRẦN KHÁNH DƯ BI CA - Thơ Trần Mạnh Hảo


          
                 Nhà thơ Trần Mạnh Hảo

VÂN ĐỒN TRẦN KHÁNH DƯ BI CA

Các ngươi bán Vân Đồn cho giặc ?
Coi như xóa sổ nhà Đông A ( * )
Hưng Đạo đại vương bị làm nhục ?
Vân Đồn Trần Khánh Dư bi ca…

Nhớ bảy trăm ba mươi năm trước
Ta từng chặn giặc ở Vân Đồn
Đánh đoàn tàu quân lương tan tác
Chôn vùi mười bảy vạn thạch lương

Đại tướng Thoát Hoan sợ vỡ mật
Không còn lương thực phải lui quân
Quân ta diệt giặc ở Vạn Kiếp
Hoàng thượng Nhân Tông kế xuất thần

Nhượng đảo Vân Đồn là kế chết
Giang sơn nỡ đổi lấy kim tiền ?
Các ngươi có phải loài bọ chét ?
Mãi quốc muôn đời nhục tổ tiên …

Ta – Trần Khánh Dư bảo cho biết :
Các người không được bán Vân Đồn
Hồn ta buồn quá thành bi khúc
Chết rồi ngươi chẳng đất nào chôn …

Sài Gòn 4-6-2018
Trần Mạnh Hảo

( * ) Chú thích : “Đông A” : nhà Trần.

  Bản đồ Vân Đồn


Chú thích ảnh : bản đồ quần đảo Vân Đồn – chìa khóa vịnh Bắc Bộ và chìa khóa mở vào Bắc Việt Nam . Ai chiếm được Vân Đồn sẽ khống chế, làm chủ được nước Việt Nam.

TÌNH XƯA, NHỚ - Thơ Tịnh Đàm


         
                   Nhà thơ Tịnh Đàm


TÌNH XƯA

Tôi về,
Chiếc bóng cùng đêm.
Chân quen bước chậm...
Nghe mềm lối trăng.
Tình xưa,
Người biết cho chăng ?
Trải bao tan hợp...
Cầm bằng như không !


NHỚ
(Gởi H.để nhớ miền sông nước)

Trà suông,
Một chén tôi dùng
Chén không tay rót...
Vui cùng bạn xưa.
Giờ này,
Bạn đã về chưa ?
Bến sông,
Đã rộn người đưa ...
Sang bờ !

TỊNH ĐÀM
(Hóc Môn, TP. HCM)

Thứ Tư, 6 tháng 6, 2018

EM LẠI TỰ DO – Video clip La Thụy ngâm thơ Chu Vương Miện


       

                         Thơ: Chu Vương Miện.
                         Giọng ngâm: La Thụy.
                         Video clip: Phú Đoàn





EM LẠI TỰ DO – CHU VƯƠNG MIỆN

Năm trăm anh đốt cho nàng
Còn năm trăm nữa giải oan lời thề
                                       (ca dao)

từ nay yên phận yên bề
nguyền xưa đã giải bùa mê đã trừ
đốt xong vàng mã khật khừ
đò ngang đò dọc tạ từ mấy nơi
năm trăm nữa trả cho người
thề nhăng hứa cuội cũng xuôi một đò
tổ cha câu hẹn câu hò
cây đa bến cộ con thò lò quay
một ngàn chẵn nắm trong tay
nửa này mang đốt nửa này mang cho
mai thì em lại tự do

                             Chu Vương Miện

Thứ Hai, 4 tháng 6, 2018

LỜI MẸ TỔ QUỐC VIỆT NAM - Thơ Trần Mạnh Hảo


      

LỜI MẸ TỔ QUỐC VIỆT NAM

Mẹ khóc van các con đừng bán từng phần thân thể mẹ
Nhượng địa ngoại bang chín mươi chín năm trời
Máu thịt mẹ đây sao các con nỡ xẻ
Để chia phần như chia thịt chia xôi…

Mẹ bị xẻ từng phần bán cho Trung Quốc
Bốn nghìn năm xương máu mẹ ròng ròng
Mẹ đau cắt lòng, sông núi khóc
Bán từng phần đất mẹ thế là xong…

Sao nỡ bán mẹ mình lấy tiền xây biệt phủ ?
Lấy tỉ đô la gửi Thụy Sĩ ngân hàng
Mỗi cọng cỏ nhành cây đất này đều máu mủ
Nỡ lòng nào bán mẹ để giàu sang…

Miệng các con thề bồi yêu Tổ Quốc
Ôi những Vân Phong, Phú Quốc, Vân Đồn…
Thiếu tiền quá đành cho thuê đất nước
Sợ con cháu sau này không còn đất mà chôn

Đừng mượn mẹ Việt Nam để yêu ngoại tệ
Sao lại đi cầm cố cả cha ông ?
Mẹ Việt Nam đã khóc bầm máu bể
Đừng bắt mẹ chít khăn tang đưa đám Tiên Rồng…

                                                 Trần Mạnh Hảo
                                              Sài Gòn,30-5-2018

MÙA THI, VIẾT CHO EM - Thơ La Thụy


          


MÙA THI – VIẾT CHO EM

Nhành phượng thắm chào em: mùa thi đến
Tiếng ve ran rộn rã gọi hè về
Các em yêu, vườn hồng đang chớm nụ
Ngoan chăm lên, hương dậy ngát trăm bề

Em yêu ạ! Ngày xanh đang dịu sáng
Sự biếng lười sẽ hủy lá nhành non
Dù vất vả, sách bài như đá tảng
Cứ kiên trì dần nhẹ chuyển mây bông

Gạo trắng đẹp chính nhờ xay xát kỹ
Sắt thép kia mài riết cũng thành kim
Này em hỡi! Chớ nản lòng em nhé
Ước mơ hồng rồi tung cánh như chim

Từng mái đầu nghiêng nghiêng trên  giấy trắng
Mắt xoe tròn ngời sáng tuổi thơ ngây
Nét mực tím trải đều đang múa lượn
Trán thiên thần nhíu khẽ- Dáng thơ bay

Ơi em yêu, chồi xanh ươm hy vọng
Thầy mải lặng chèo đẩy nhịp đò đưa
Dù buồn vui nhấp nhô từng vỗ sóng
Vẫn dịu lòng chở khách cập bờ mơ

                                   LA THỤY
                                  (23/3/1999)

CHẠY - Thơ Linh Đàn



                  Tác giả Linh Đàn

CHẠY

Mạ ơi chạy xuống hầm, tai mạ điếc u ơ rồi quờ quạng,
Ngồi dưới hầm thấy lổm nhổm rắn bò quanh,
Tiếng súng xa rồi tiếng súng gần,
Kéo mạ lên vừa khỏi miệng hầm thì pháo rớt ngay nóc nhà may thay không nổ,
Kéo mạ xuống hầm, rắn lại phùng mang, cóc thì lố nhố, hét lên rồi kéo mạ chạy lên thôi,
Ngó ngoài sân có mấy người bò la bò lết, vừa chạy vào ôm trẻ nhỏ khóc van.
Ngó sau vườn heo nhảy chuồng chạy râm ran, mấy con lớn đã chạy ra ngoài ngõ,
Ra đón đầu kẻo sợ mất heo, từng tia đạn từ cửa chùa bắn xuống
Rồi khiếp vía úp đầu bên bờ ruộng, đạn bay vèo vèo, tre cũng gảy ngang lưng
Khiếp vía chạy vào nhà, bò nó chạy lung tung, không người giữ bò ra ăn lúa vừa mới trổ

VONG QUỐC HÀNH - Thơ Kha Tiệm Ly


         
                              Nhà thơ Kha Tiệm Ly


VONG QUỐC HÀNH

Tháp cổ ngàn năm đứng gục đầu,
Lá rừng nhỏ lệ ngậm ngùi đau.
Oán than nhạc suối sầu vong quốc
Sông núi tang thương phủ một màu!

Mòn mỏi bước chân tìm quá khứ,
Hoàng thành đâu, cung điện nơi đâu?
Đâu chiến mã, đâu thớt voi xung trận,
Đâu giáo gươm loang loáng áp tinh cầu?
Đâu tiếng quân reo, lá rừng ào ào rụng,
Đâu trường giang voi uống nước đục ngầu?
Đâu minh chúa làm rụng rời quân Đại Việt,
Đâu hùng binh, đâu dũng tướng anh hào?

Tại vì đâu? Tại vì đâu?
Có phải Chế Củ đớn hèn đã dâng Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính,
Có phải Chế Mân mê mảnh yếm hồng mà đành nạp hết hai châu?
Hay tại các hôn quân hoang dâm vô độ,
Với những trận cười bên rượu ngon, gái đẹp suốt đêm thâu?
Để Đồ Bàn tan tành dưới vó câu Đại Việt,
Cho máu anh linh pha sông suối đỏ ngầu?
Để bốn vạn chiến binh thi hài không thủ cấp,
Cho mười vạn dân lành xương chất non cao?

Chiêm vương hỡi! Người ở đâu? Người ở đâu?
Bao cung phi, bao trận cười nghiêng ngã,
Còn có chăng ở dưới nấm mộ sầu?
Chế Bồng Nga, vị anh hùng dân tộc,
Nơi suối vàng người có ngậm hờn đau?
Bao dũng tướng, bao hùng binh oanh liệt,
Ngày ban sư máu giặc nhuộm nhung bào!
Thương Mỵ Ê vương phi tròn khí tiết,
Thà chết vinh nên mượn đáy sông sâu!

Dân Chiêm hỡi! Người về đâu? Người về đâu?
Thành quách huy hoàng thành bãi vắng,
Núi rừng hùng vĩ hóa hoang vu!
Lê bước mỏi mòn không định hướng,
Cỏ cây sau trước vẫn dàu dàu!
Chỉ một chốc mang thân người mất nước,
Mà ngàn thu tổ quốc, giống nòi đau!

                                       Kha Tiệm Ly

Chủ Nhật, 3 tháng 6, 2018

ĐẶC TRƯNG TÍNH CÁCH CON NGƯỜI LA GI, BÌNH THUẬN - Phan Chính

   
           

           ĐẶC TRƯNG TÍNH CÁCH CON NGƯỜI LA GI

           Ở một đô thị nhỏ như La Gi, quanh quẩn chỉ mấy con đường không khó để gặp mặt nhau tình cờ rồi trở thành thân thiết. Con Sông Dinh từ tiền kiếp là một phần đời sống thiên nhiên của thị xã này, nay khép nép giữa đôi bờ vườn cây xanh, những chòm dừa luống tuổi rồi trườn mình ra đến biển. Đâu đó, bóng chiều phai nắng làm mơ màng màu nước sông trôi để thức tiếng chim bìm bịp gọi cơn nước lên. Như một yếu tố quyết định của người xưa khi tụ hội quần cư, mở đất lập nghiệp là dựa vào một dòng sông để trên bến dưới thuyền và trải đất đón phù sa bồi đắp. Nghề biển cũng thuận, làm nông cũng trù phú. 

ĐẤT NƯỚC - ANH VÀ EM / Thơ Trần Mai Ngân



ĐẤT NƯỚC - ANH VÀ EM

Có những ngày Đất và Nước thật buồn...như hôm nay, như bây giờ...

Đất cằn khô không còn mầu mỡ
Những vạt rừng cây chết hoang vu
Thay màu xanh bằng vàng úa thiên thu
Để mất dấu hẹn hò nhau thăm thẳm

Con sông cạn lặng lờ mệt nhọc
Chảy về đâu, nguồn cội ai tìm
Biển chết rồi, không tiếng - lặng im
Và hò hẹn đã cong nỗi nhớ

Đất và Nước của ta muôn thuở
Cho mọi người, cho cả em- anh
Một tình yêu bất tận màu xanh
Của trời đất, của sông, của biển...

Xin nguyện cầu, ước xin linh hiển
Đất nước vui- đôi lứa lại kề
Để cùng nhau nối lại lời thề
Em và anh - Tình yêu đất nước.

                        Trần Mai Ngân

NÚT ẤN LỊCH SỬ - Thơ Lang Trương


         
                Nhà thơ Lang Trương


NÚT ẤN LỊCH SỬ

Tổ quốc lâm nguy !
Sơn Hà nguy biến !
Sóng ba đào trào ngược khí hờn căm.

Cắt thịt da mình nuôi hổ đói 99 năm
Ngày dân tộc bị diệt vong đang tới
Là kẻ sĩ, không lẽ khoanh tay ngồi đợi
Con cháu mình lầm lũi kiếp vong nô ?

Gương ông cha, áo vải cờ đào
20 vạn quân Thanh, chỉ 5 ngày quét sạch
Bản tuyên ngôn rành rành lưu sử sách
“ Nam quốc sơn hà nam đế cư ”.

Máu xương nào còn đỏ bản địa dư
Từng mảnh giang san xuống tay tùng xẻo
Những khuôn mặt mỡ màng, những tâm hồn dặt dẹo
Chẳng máu xương nào thỏa mãn dạ sài lang.

Hồn ta bay khắp đất Việt trời Nam
Đâu cũng thấy giống sài lang phương Bắc
Từng tấc đất xéo quằn trong tay giặc
Từng tấc đất tủi hờn thấm đỏ máu cha ông.

Mục Nam Quan đâu hỡi, có còn không ?
Lũ phản quốc muôn đời bia miệng thế
Hoàng Sa, Gạc Ma máu tràn dâng ngập bể
Sóng ba đào trào ngược khí hờn căm.

Có lẽ nào dâng đất mẹ 100 năm
Mở rộng cửa đón loài quỷ dữ
Có kẻ rắp ranh thành tội đồ lịch sử
Nỗi nhục này muôn kiếp chẳng phôi pha.

Hồn ta bay trên khắp nẻo sơn hà
Đâu cũng thấy những vết thương rỉ máu
Những mảnh đời tang thương, những ánh nhìn đau đáu
Về đâu ?
Hồn Lạc Việt về đâu ?

Cắt thịt mình sao lại không đau
Máu đã chảy, cả tấm thân quằn quại
Cá chết trắng bờ, xác trôi kín bãi
Giang sơn gấm vóc, còn không ?

Hồn ta bay theo tiếng gọi non sông
Tiếng gào thét không cam đời nô lệ
Một trăm năm, một ngàn năm sau hoặc lâu hơn thế
Nỗi nhục ngày này, muôn kiếp chẳng phôi pha.

                                                    Lang Trương

LỜI RIÊNG…TRONG TẬP SÁCH "ĐOÀN ĐỨC VÀ NHỮNG HOÀI NIỆM VỀ THẦY CÔ CŨ" - Đoàn Đức, Lê Mậu Minh, Đào Văn Nhẫn, Đỗ Tư Nhơn, Tống Văn Thụy, Đỗ Tư Nghĩa, Nguyễn Thắng, Nguyễn Đình Hạnh, Hồ Trị, Trần Phong Dũng,Ngô Thị Hương Thủy,Nguyễn Lương Tuấn, Trần Quang Chu, Nguyễn Văn Trị, Võ Thị Quỳnh, Huỳnh Bá Huy, Trần Ngọc Hợp, Lê Mậu Trúc, Nguyễn Phụng Lương Nhi, Lê Duy Đoàn, Hoàng Văn Thắng, thầy Hồ Si ̃Châm


       

LỜI RIÊNG…TRONG TẬP SÁCH 
"ĐOÀN ĐỨC VÀ NHỮNG HOÀI NIỆM VỀ THẦY CÔ CŨ"

Thoạt đầu Lê Mậu Minh khởi xướng và yêu cầu tất cả các bạn viết bài cho đặc san về khối lớp 1960-1967 của trường Trung học Nguyễn Hoàng Quảng Trị và lấy tên là Hoa Bất Tử. Tôi lúng túng làm một bài thơ gởi cho Mậu Minh đăng, thì vợ tôi chê dở. Hai tháng vẫn không viết được một chữ nào, trong khi đó các bạn tôi đều viết xong để gởi đăng, tôi lo lắng vì đến hạn mà vẫn chưa xong. Bạn Nguyễn Thắng ở Huế cá với Nguyễn Đình Hạnh ở Đông Hà 10 triệu đồng rằng tôi viết không tới hai trang giấy A4. Đình Hạnh điện thoại nói với tôi: “Hồi xưa bạn học ban C văn chương, sinh ngữ mà nay không viết được chữ nào để Thắng cười à. Hãy giúp mình thắng cá độ đi”. Tôi liền ngồi viết một mạch về thầy Trần Thương Bá, được 34 trang viết tay A4. Ban biên tập gồm Lê Mậu Minh, Nguyễn Văn Quang… khi duyệt bài thì bảo rằng: “Không đăng được vì quá dài, mà cắt ngắn thì không nỡ”. Hơn nữa, đã có anh Đỗ Tư Nhơn viết về thầy Bá nên Ban Biên tập đề nghị tôi nên viết về thầy cô cấp II. Tôi tự ái trả lời: “Thế thì tôi sẽ viết luôn một loạt bài về quý thầy cô, các bạn muốn đăng sao thì đăng”. Nói là làm, tôi viết liên tục về bảy thầy cô. Sau khi đọc xong các bạn khuyên tôi không nên đăng vào tập san chung nữa mà in riêng thành một tập dành tặng cho quý thầy cô, các bạn cùng lớp và cho cả chính tôi. Trong quá trình viết, tôi nhận được rất nhiều niềm vui trong đó có sự động viên của hiền nội tôi - Cao Thị Thanh Nhàn, công đánh máy của con gái và con dâu tôi (dù tôi biết các cháu đôi lúc cũng thấy phiền vì sự lẩm cẩm của ba chúng), cũng không quên ơn cô Thoa – một người bạn vui tính – đã đánh máy cho tôi khi các con tôi bận. Tôi chắc sẽ không quên vẻ mặt nhăn nhó của Đào Văn Nhẫn khi phải đọc và sửa lỗi các trang viết qua email, tranh cãi về trích dịch tiếng Pháp từ nguyên tác dù đây là ký ức chứ không phải tôi dịch hay sáng tác. Còn Nguyễn Đình Hạnh thì hứa mà chỉ sửa sơ lược phần thi ca trong bài. Đỗ Tư Nghĩa thì lười. Nguyễn Văn Quang, Tống Văn Thụy thì tế nhị, cả nể. Nguyễn Thắng thì bận rộn khám bệnh, Nguyễn Văn Hóa chịu khó đọc lại các bản nguyên tác Hán - Nôm để sửa, không những về từ ngữ, dấu chấm phẩy mà còn lo cả phần kiểm duyệt (Đúng là nguyên thầy giáo chuyên văn kiêm giám đốc nhà in!). Riêng cảm ơn Nguyễn Trường Thi, học trò cũ của tôi, đã giúp đính chính những thiếu sót, thêm vào một số nguồn có liên quan đến Anh ngữ và về thầy Gary Carkin, trình bày vi tính, dàn trang và đề nghị khổ sách… trước khi gởi bản thảo cho nhà xuất bản. Cũng không quên cảm ơn nhà tài trợ chuyến đi Đà Lạt - Nguyễn Thắng, do thua cá cược 10 triệu đồng nên tháng 3/2017 đã cùng vợ vào Sài Gòn đưa Đình Hạnh, Mậu Minh, vợ chồng tôi, Võ Cẩm, cô Thoa đi Đà Lạt thăm Đỗ Tư Nghĩa để tiêu cho hết tiền thua độ. Tiếc là Mậu Minh không đi được.
Ôi qua bao nhiêu năm mà tôi vẫn còn được trở về “tuổi thơ chí chóe cùng chúng bạn”. Thật diễm phúc biết bao!