Nhà thơ Lê Giao Văn, bạn tôi, vừa xuất bản tập thơ lấy
tựa đề “Trầm Tích Ca”.
Viết cho bạn là đương nhiên nhưng dầu là bạn mà thơ
không hay thì cũng không viết, bởi viết như thế thì hại mình trước tiên chớ
chưa nói là hại bạn. Thế nhưng “Trầm Tích
Ca” đã được một nhà phê bình văn học có uy tín Nguyễn Công Lý khen là “Những lời thơ lắng đọng qua một giọng thơ hào sảng của thi sĩ lãng du”,
thì sao tôi lại không viết cho bạn tôi
được.
Châu
Thạch và Lê Giao Văn
Quả thật vậy, thơ trong “Trầm Tich Ca” được nhận xét “Lục
bát thì mượt mà tình cảm, Đường Luật chuẩn niêm, chuẩn luật, không bệnh, thơ tự
do thì phóng khoáng, ý tưởng tràn trề, câu chữ nhảy múa, viết về bạn bè đậm
tình tương ngộ tương giao, viết về vợ thì dạt dào sâu đậm tình nghĩa thuỷ
chung. ‘Trầm Tích Ca’ có ngôn ngữ giản dị, diễn đạt trong sáng, tất cả ăm ắp, sâu đậm nỗi niềm…”
Vậy thì tôi xin bình một bài thơ tiêu biểu để xem nó
có thật như nhận xét trên không. Bài thơ “Trầm
Tích Ca” đăng ở trang 19 được dùng làm tựa đề cho cả tập thơ:
Khổ 1 của bài
thơ như sau:
Đời
dấu trong anh vài hớp rượu
Anh
dấu trong anh cái khốn cùng
Mai
– nếu em làm viên đá cuội
Anh
làm khe nước để bao dung
Chỉ đọc hai câu thơ đầu của khổ đầu, ta cũng có thể hiểu
khái quát tâm trạng của nhà thơ đang sống giữa cuộc đời nầy. “Đời giấu trong anh vài hớp rượu/ Anh giấu
trong anh cái khốn cùng”: “Giấu”
là để một vật vào nơi kín đáo không ai thấy hay không cho ai biết một điều mình
đã biết. Trong nền văn hoá nước ta rượu tượng trưng cho lễ, rượu thể hiện cho
niềm vui, rượu còn là phần thưởng để ban cho người khác. Đời giấu trong nhà thơ
Lê Giao Văn vài hớp rượu nghĩa là đời keo kiết với anh. Đời chỉ cho anh vài hớp
rượu hay suy ra đời chỉ cho nhà thơ một vài niềm vui nhỏ, những niềm vui đó
cũng chỉ có anh âm thầm tự biết trong lòng mình mà thôi.
Từ câu thơ
thứ nhất đọc qua câu thứ hai, ta hiểu cuộc đời của thi nhân niềm vui thì
ít nhưng khốn cùng thì nhiều. Ngược lại
với đời, Lê Giao Văn không giấu niềm vui đến với mình mà lại giấu sự khốn cùng
nhiều lần đến với đời anh: “Anh giấu
trong anh cái khốn cùng”. Qua câu thơ ta hiểu Lê Giao Văn là con người luôn
luôn lạc quan yêu đời, anh nuốt vào lòng những đắng cay mà đời đem đến, giấu đi
những phiền muộn ưu tư để cất tiếng cười sảng khoái, nâng ly, ngâm thơ ca hát
trả lễ cho đời, vui cùng bạn hữu, cho, hay làm quà tặng tha nhân.
Ai chơi với Lê Giao Văn thì biết rằng hai câu thơ trên
nói lên điều rất thật.
Hai câu thơ tiếp theo “Mai - nếu em làm viên đá cuội/
Anh làm khe nước để bao dung” cho ta hiểu được tấm lòng trong veo mát rượi
của nhà thơ. Lê Giao Văn dùng đá cuội là loại đá đa dạng màu sắc, có tính thẩm
mỹ cao đem làm hình tượng em như là phát
hiện một tứ thơ mới độc đáo trong thi ca. Em là viên đá cuội còn anh là khe nước
cho ta hình dung được cảnh đẹp thiên nhiên. Đem cảnh đẹp thiên nhiên đó làm bức
tranh thể hiện cuộc tình chung thuỷ, lặng lờ, âu yếm, bao dung đã nói hết được
tấm lòng quảng đại, tình yêu trường tồn, vị tha của tác giả.
Đọc qua khổ thơ thứ hai, ta biết Lê Giao văn là con
người bốc lửa, chơi là chơi đến cùng, yêu là yêu đến tận, nhà thơ bị tù túng
trong cuộc đời nầy bởi những ràng buộc trần gian:
Đời
dạy làn hơi chừng mực quá
Làm
sao tim phổi ngực… căng hơi
Anh
thương những giọt nồng men lửa
Như
đã thương em đốt nỗi sầu
Ai chơi với Lê Giao Văn thì biết nhà thơ uống như hủ
chìm nghĩa là như chiếc hủ chìm xuống đáy dòng sông, bất cần nổi lên hay chẳng
nổi lên. Ai chơi với Lê Giao Văn thì biết nhà thơ uống như Lưu Linh, nghĩa là uống
như một trong Trúc Lâm Thất Hiền thời xưa, là những danh sĩ uống rượu làm thơ
mà người đời ca tụng. Ai chơi với Lê Giao Văn thì biết nhà thơ làm thơ trên bàn
rượu lưu loát như gió như trăng, đọc thơ trên bàn rượu có khi như tiếng sóng gầm,
có khi như tiếng suối reo, quả là Hồ Trường “Rót
về Đông phương, nước biển Đông chảy xiết sinh cuồng loạn / Rót về Tây phương, mưa phương Tây từng trận chứa chan.. .” Bởi thế khi đọc khổ thơ trên ta hiểu nhà thơ
như con Hổ của Thế Lữ đau lòng nằm nơi “tầm
thường giả tạo” chịu sự gò bó của “Hoa
chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng”. Với tấm lòng “bao dung” Lê Giao Văn yêu, nhưng đã yêu thì nóng như “giọt nồng
men lửa” để “đốt nỗi sầu” cho cháy bùng
lên.
Khổ thơ thứ ba:
Rượu
và em - hiện thể bình thường
Như
trăng với nước mãi hoài thương
Chờ
qua khỏi dốc cơn tình mộng
Anh
lại thương anh cái dị thường
Nhà thơ yêu rượu và yêu em ngang nhau. Tình yêu đó
trong trẻo vô biên và quyến luyến vô cùng, như trăng và nước muôn đời tồn tại
trong thi ca. Tình yêu đó của Lê Giao Văn “nồng
men lửa”, “đốt nỗi sầu” nhưng nó
không phải là những con đường bằng phẳng
có trăng và nước để “mãi hoài thương”. Rượu và em trong Lê Giao
Văn có khi là những “cái khốn cùng”
mà nhà thơ phải giấu đi, để một mình vượt “qua
khỏi dốc cơn tình mộng” của mình.
Là thi sĩ nghĩa là phải mộng, phải “Ru với gió, mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”. Lê Giao Văn là thi sĩ, còn là
thi sĩ có con “tim phổi ngực… căng hơi”,
nhưng ngược lại “đời chừng mực”, tình
yêu em cho cũng “chừng mực quá”, rượu uống vì yêu cũng “chừng mực”, không giãi được thành sầu, cho nên tâm tư phải vượt
qua bao con dốc là chuyện bình thường. Khi vượt qua con dốc rồi, nhà thơ nhìn lại
chỉ thấy mình cô đơn, chỉ thấy mình dị thường, chỉ thấy mình phải yên lặng để “Anh dấu trong anh cái khốn cùng”. Từ đó
Lê Giao Văn thốt lên câu thơ tán thán: “Anh
lại thương anh cái dị thường”, dị thường vì đã yêu rực lửa, dị thường vì đã
uống lưu linh, dị thường vì đã đối đãi với đời trung thực, mà bây giờ qua con dốc
tình mộng thấy mình tay trắng, lạc lỏng, bơ vơ! Khổ thơ diễn đạt sự hụt hẫng của
một con người năng động, của một tình yêu đam mê và của một linh hồn thật thà cả
tin và phóng khoáng.
Khổ thơ thứ bốn và cũng là khổ thơ cuối cùng của bài
thơ:
Rượu
rót cho đời vài chất độc
Anh
rót cho anh cái mỏi mòn
Đời
hóa thân em ly rượu đắng
Anh
hoá vần thơ chết… khỏi chôn.
Lê Giao Văn tắm mình trong rượu, tắm mình trong tình để
cuối cùng ngộ ra rượu và tình hay rượu và em đều là chất độc. Biết thế nhưng
không có rượu, không có em thì không thể có vần thơ. Nhà thơ tự nguyện hiến
dâng mình cho rượu và em, nghĩa là nhà thơ tự nguyện hóa thành vần thơ, cho dầu
vần thơ đó một ngày kia có chết đi cũng “khỏi chôn”, bởi vì thơ thì không có thể
xác, nó sẽ bay vào thời gian, tồn tại trong không gian vĩnh viễn đến muôn đời.
Bài thơ “Trầm Tích Ca” nói đến rượu, nói đến
tình, nói đến đời nhưng cuối cùng mục đích của nó là gì? Mục đích là tôn vinh
thơ. Thơ hiện hữu trong rượu, thơ hiện hữu trong tình, thơ căng đầy buồng tim lồng
ngực để cuối cùng tất cả cái đó ở trong anh để “Anh hoá thành vần thơ chết…khỏi chôn”.
“Trầm Tích Ca” của Lê Giao Văn là bài ca của sự lắng đọng,
nhưng không phải là sự lắng đọng của đất đá xuống đáy dòng nước mà là sự chắt lọc
tinh tuý của tinh thần trong sự sống. Tinh tuý ấy chìm xuống đáy dòng đời, hiện
nguyên hình thành thơ trong con người thơ. Con người thơ đó là Lê Giao Văn vì
Lê Giao Văn đã hoá thành vần thơ trong cả cuộc đời anh!
Châu Thạch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét