SÔNG HIẾU QUÊ TÔI
Quê tôi là Đông Hà, tỉnh Quảng Trị - nơi có dòng Hiếu
Giang chảy qua. Sông Hiếu bắt nguồn từ trên núi rừng Trường Sơn, nơi
các đồng bào dân tộc ít người: Pa-Kô và Vân Kiều sinh sống, rồi chảy qua vùng đồng
bằng, tưới mát cho ruộng vườn làng mạc của đồng bào Kinh, cuối cùng đổ ra biển
Đông. Con sông là dòng kết nối Kinh -Thượng một nhà.
Sông không tự mình đổ ra biển Đông. Sông chảy khoảng
70 km thì hợp lưu với sông Thạch Hãn ở ngã ba Gia Độ; sông biến thành sông
nhánh của sông Thạch Hãn. Nhìn trên bản đồ, dòng chảy của Hiếu Giang và dòng chảy
từ nơi hợp lưu về cửa Việt tương đối nằm trên một đường thẳng, còn dòng chảy
sông Thạch Hãn vào hợp lưu tạo một nhánh “giằng xay” (gấp khuỷu); đáng lẽ sông
Hiếu là sông chính, còn sông Thạch Hãn là sông nhánh. Sông Thạch Hãn được tôn
lên làm sông cái vì ngoài bề rộng lớn hơn, sông Thạch Hãn trước đây chảy qua tỉnh
lỵ Quảng Trị, nơi ở của quan chức. Ở đời, cái gì nhỏ phải phụ thuộc vào cái to
rộng hơn, cái có uy quyền hơn.
Ngày xưa, con đường thiên lý Bắc - Nam đi ngang giữa
làng này, đến mép sông, hành khách phải qua đò ngang tại bến đò Điếu; vì vậy từ
“sông Đò Điếu” cũng khá thông dụng. Một con sông nhỏ mang những 4 tên; ba tên
ghi dấu các địa danh dòng sông đi qua; còn tên “Hiếu Giang” thì sao? Có nguồn
cho rằng sông được đặt tên như thế để ghi nhận tấm lòng của công chúa Huyền
Trân đã vâng mệnh cha (Trần Nhân Tông) anh (Trần Anh Tông) vượt sông vào Nam
làm vợ vua Chế Mân, nước Champa đổi lấy hai châu Ô, Lý vào năm 1306. Vào thời
điểm đó, sông là biên giới giữa nước ta và nước Champa. Chính cái tên Hiếu Giang khiến, mỗi lần nhắc
đến, người ta rạo rực trong lòng cái thông điệp đạo lý: dù đi đâu, ở đâu, làm
gì cũng phải nghĩ về nguồn cội – nơi mình sinh ra, nơi làm điểm tựa cho mình
bay cao, bay xa. Có lẽ ít tên con sông nào trên thế giới mang nội hàm có tính
giáo dục đến thế.
Ngày xưa, việc di chuyển, vận tải chủ yếu bằng đường
thủy. Đường bộ không bằng phẳng, lầy lội về mùa mưa, bụi bặm về mùa nắng, khi
lên đèo khi xuống dốc, qua những khu vực hoang vắng có thể gặp trộm cướp, thú dữ
– nguy hiểm; phương tiện quá thô sơ, mất nhiều thời gian và nhọc xác.
Sông
Hiếu là một thủy lộ địa phương quan trọng.
Cụ Trần Minh Tiết (1918 – 1990), người làng Cam Lộ Hạ,
huyện Cam Lộ, một học giả uyên thâm về các vấn đề thế giới, viện sĩ viện Hàn
Lâm Khoa Học Hải Ngoại nước Pháp, đã từng đưa ra đề án đào một con kênh từ sông
Mê-kông cắt ngang lãnh thổ Lào đi qua Savanakhet vào sông Hiếu qua Đông Hà ra cửa
Việt (Un canal dans l’isthme de Kra et un canal Mékong-Océan Pacifique par
Savanakhet - Đông Hà - Cửa Việt – Nouvelles Éditions Latines, 1966, Paris). Đề
án ấy nếu như được thực hiện, sông Hiếu đã trở thành một thủy lộ quốc tế. Thôi
... hãy chờ tương lai, biết đâu!
Xưa kia, thủy lộ Hiếu Giang đã từng nhộn nhịp. Chợ
phiên Cam Lộ cứ 5 ngày họp một lần vào các ngày 03, 08, 13, 18, 23 và 28 Âm Lịch
mỗi tháng; chợ phiên là nơi trao đổi hàng hóa giữa miền xuôi và miền ngược;
trong những ngày ấy, thuyền buôn lên xuống không ngớt trên sông, kể cả ban đêm.
Thuyền buồm nương theo chiều gió; vào những lúc lặng gió, thuyền lướt theo nhịp
đẩy của các mái chèo. Để tránh mệt mỏi và buồn ngủ, các chị các o buôn đò dọc,
hò hát, trêu ghẹo nhau rồi cười đùa khúc khích xé tan cái im lặng của màn
đêm. Một cô gái nào đó trên thuyền cất
tiếng hò thánh thót lơ lửng giữa dòng sông:
“Eng
ngồi mần chi côi bờ, nhìn ai mà con mắt ngơ ngác.
Lắng
tai nghe em đây hát để liệu mà trả lời:
Cực
lòng em lắm eng ơi!
Hãy
tìm một nơi mô vắng vẻ cho đôi ta ngồi hàn huyên ...”
Một chàng trai nào đó trên bờ thấm tình thấm ý đáp lại:
“Em
cực lòng thì eng cũng khổ tâm,
Hỏi:
em mà thiệt chưa ai ngỏ ý thì cho eng bỏ
mâm cau trầu ...”
Nhiều trường hợp, hai bên đã đi tìm nhau theo sự thúc
giục của con tim – tình yêu - rồi nên vợ nên chồng.
Hòa trong tiếng hò của thuyền buôn xuôi ngược là tiếng
gõ “lòng còng” của thuyền chài đuổi
cá vào lưới, tiếng ngoắt đuôi “sộp soạp”
xua ruồi nhặng của đàn trâu đã no cỏ “mẹp”
tắm buổi trưa hay buổi xế chiều, tiếng “rào
rào” khoát nước thi đấu vào mặt nhau của lũ trẻ trần truồng giữa các bến tắm
hai bên bờ sông.
Thời ấy, dân cư còn thưa thớt, nước sông trong xanh,
người ta dùng nước sông để sinh hoạt : uống nước sông, nấu ăn bằng nước sông,
giặt rửa bằng nước sông ... Sông cung cấp tôm cá cải thiện chất lượng bữa ăn
cho dân nghèo. Chỉ cần một cái rổ, bỏ ra khoảng nửa giờ sau buổi làm cỏ khoai,
cỏ bắp ... là có thể xúc được một mớ hến hay “chắt chắt” làm ngọt nồi canh
trưa; chỉ cần cái dũi, khi nước ròng, lội xuống đẩy dọc mép sông vài vòng là kiếm
được nhúm tôm, nhúm cá kho mặn để ngon cơm.
Vào mùa hè, mặt sông xao sóng khi gió Nam Lào thổi mạnh;
vào mùa đông, mặt sông gợn sóng lăn tăn khi gió đông bắc rít từng luồng. Sông
hiền như người mẹ. Sông chỉ hung dữ vào mùa lũ lụt. Mưa tuôn xối xả, nước chảy
mạnh bào mòn đất đá trên núi đồi và hai bên bờ, cuốn cuộn phù sa màu hồng bạc về lắng đọng tăng độ phì
nhiêu cho vườn tược ruộng đồng. Dòng nước lũ còn cuốn theo các cây gỗ trốc gốc,
các loại rều rác. Dân đứng hai bờ chờ vớt, kéo về làm củi đốt quanh năm. Nhiều lúc,
sông cũng gây ra tai họa: phá hủy mùa màng, cuốn trôi nhà cửa, dận đuối người
và vật.
Chiến tranh bùng phát. Các chuyến đò lên về chợ phiên
thưa dần, những mối tình do dòng sông đan dệt chấm dứt, thuyền chài giăng câu bủa
lưới vắng đi; ngư dân lần lượt lên bờ định cư.
Sông đã trở thành chiến trường, nơi mà ai cũng có thể
bị thương vong nếu rủi ro kẹt giữa hai lằn đạn.
Ban đêm sông im lìm trong không khí ngột ngạt, thỉnh
thoảng, những chiếc thuyền nan của những chiến sĩ vượt sông, lướt vội, qua lại
hoạt động bí mật; những tràng đạn tiểu liên bắn vu vơ trong màn đêm đen để hù dọa
găm vào dòng sông - sông đau quằn quại, rên la. Sông hứng chịu những loạt lựu đạn
nổ ì ầm đều đặn quanh các chân cầu để cản người nhái. Chiếc cầu bắc qua sông nối
hai bờ trên quốc lộ I, không còn hình ảnh thơ mộng “chiếc cầu là nơi hò hẹn của
đôi ta”. Bên giải phóng muốn phá cầu đi để cắt đứt giao thông cho tiềm lực đối
phương suy giảm, bên quốc gia muốn giữ cầu lại, dựng cầu lên để kiểm soát đất
giành dân. Trong chiến dịch năm 1972, bên giải phóng định dùng cầu vượt sông
nhanh thì bên quốc gia giật cầu đi để cản bước. Hóa ra người ta mặn mà với chiếc
cầu chỉ vì lợi ích của phe phía mình. Cầu đã sập đi và xây lại nhiều lần. Máu
bên này, máu bên kia ít nhiều đã đổ hòa vào dòng sông chảy về lòng mẹ biển Đông
bao dung.
Chiến trường mỗi lúc mỗi sôi động. Sông oằn mình hứng
đạn bom ... xơ xác. Tàu vận tải quân sự của Mỹ lên xuống Đông Hà - Cửa Việt rầm rì, những con tàu gắn động cơ cỡ
lớn xô những ngọn sóng cao vỗ vào hai bờ; đất chuồi lỡ, nước vẩn đục. Dân giảm
dần dùng nước sông làm nước sinh hoạt. Những trận bom B52 rải thảm trên thượng
nguồn, những trận pháo vào giữa đội hình vượt sông của quân đội bên này bên kia
và những trận đánh bằng thủy lôi của bộ đội đặc công giải phóng vào tàu Mỹ. Giấy
bút đâu mà ghi chép cho hết! Chỉ có một trận đánh trên sông được báo chí nhắc
đi nhắc lại nhiều lần; người ta gọi đó là “trận Bạch Đằng trên sông Hiếu” để gợi
nhớ lại trận Ngô Quyền tập kích quân Nam Hán năm 938 và trận Hưng Đạo Vương Trần
Quốc Tuấn phá tan quân Nguyên Mông vào năm 1288 trên sông Bạch Đằng ở ngoài Bắc.
Giữa đoạn Đông Hà và ngã ba Gia Độ, để ngăn chận tàu Mỹ
vận tải vũ khí đạn dược lương thực cho chiến trường, vào một đêm đầu tháng 3
năm 1968, quân giải phóng, lợi dụng màn đêm và tàu tuần tiễu của quân Mỹ vắng
bóng, đã huy động lực lượng cắm cọc tre, cọc cây, giăng dây kẽm gai bùng nhùng,
gài mìn và thủy lôi chận ngang sông; cùng lúc, các lực lượng vũ trang phục kích
ở trên bờ sông; sáng ngày sau, như thường lệ, đoàn tàu Mỹ tiến từ cửa Việt lên
Đông Hà; phát hiện có bãi cọc và bị quân giải phóng phục kích nổ súng tấn công;
quân đội Mỹ huy động máy bay quần thảo, dội bom xuống dòng nước phá hủy vật cản
để thông sông; cá to cá nhỏ chết nổi tấp trắng bờ; trớ trêu là người quê tôi gặp
may, có dịp đi thu nhặt cá đến mấy ngày. Chiến tranh đã làm cho con người trơ
lì vô cảm, nhiều khi nhìn chiến tranh như “một
trò đùa”.
Đất nước thống nhất, hòa bình lập lại. Con sông quê
tôi tưởng có cuộc sống êm đềm. Vậy mà không! Rừng đầu nguồn bị thu hẹp; người
ta chặt cây vì nhu cầu xây dựng, người ta khai hoang để lập các khu kinh tế mới;
vào mùa mưa, nước lũ “hỗn” hơn, xói lở
đất 2 bên bờ từng mảng diện tích lớn, một số xóm làng phải thiên cư. Ai mà quên
được những trận lụt 1983, 1999, 2009, 2010, nước ngập đến mái nhà; tần số lũ lụt
lớn dày hơn xưa nhiều; mấy chục năm trước đó, chỉ trận lụt lớn năm 1953 là còn
được nhắc đến.
Rừng đầu nguồn giảm, lượng nước ngọt giảm theo; lại
thêm, các đập thủy lợi, đập thủy điện chận nguồn lại; sông bị nhiễm mặn nhiều
tháng trong năm. Dân các nơi tập trung đến Đông Hà đông lên; chất thải, nước thải
đổ vào dòng sông quá nhiều. Sông không còn cung cấp nước sinh hoạt nữa. Tôm cá
và các nguồn thủy sản tự nhiên khác khó sống ở môi trường ô nhiễm; ngư dân đổi
nghề, tất bật ngược xuôi kiếm sống trên bộ. Nước sông ô nhiễm đến nỗi dân làm
giá đỗ ở 2 làng ven sông: Thanh Lương và Nghĩa An (phường Đông Thanh) bây giờ
không thể ủ giá bằng nước sông như trước đây. Nước sông ô nhiễm đến nỗi các hồ
nuôi tôm ở làng Điếu Ngao, làng Đông Lai, làng Lạng Phước, thành phố Đông Hà
cũng thất bại – tôm chậm phát triển và chết. Cả một vùng hồ đào lên rồi bỏ
không; đất lúa, đất khoai nuôi dân trở thành đất vô dụng; người ta từng lập luận:
trồng lúa đất sinh lợi ít, phải nuôi tôm xuất khẩu kiếm ngoại tệ để nước mau
giàu !
Nước sông có màu xanh lá cây không rõ nét, trông mà rờn
rợn. Thuyền gắn động cơ lên về chợ Đông Hà ồn ào, khuấy động dòng nước. Sông chỉ
dành cho thuyền chở khách và phà chở cát – hình ảnh quá khô khốc, cứng đờ.
Chính con người làm mất vẻ hoang sơ và nên thơ của con sông.
Tuy nhiên, cuộc sống thay đổi không ngừng; ai mà cản
được. Giờ thì con người chỉ còn có việc: phải tạo cho con sông một vẻ đẹp hiện
đại. Như một phụ nữ thời nay phải thường xuyên vào thẩm mỹ viện tắm gội, nắn
mũi, sửa tóc, xóa sẹo, tàn nhang, trang điểm một chút phấn son, sông muốn đẹp
thì con người phải giữ sạch dòng sông; không đổ rác xuống sông, không thải nước
khi chưa xử lý xuống sông; phải thiết kế xây dựng làm sao tạo cho bờ sông vẻ mỹ quan: kè đá 2 bên bờ để chống
xói lở, xây dựng các công trình dân sinh xa sông một khoảng cách hợp lý, trồng
cây tạo bóng mát rồi lập vườn hoa hai bờ, biến cái cù lao giữa sông phía trên cầu
thành một công viên hay một một khu ẩm thực cao cấp.
Mọi người tự giác bảo vệ môi trường để nước sông quê
ta không trở qua màu đen ngòm, bốc mùi hôi nồng nặc, mặt sông không lềnh bềnh
những bao nylon, bao lác, bên trong chẳng ai biết chứa những gì.
Mừng là chính quyền đã và đang ra tay. Bờ bắc sông
đang được kè và những việc còn lại hy vọng
sẽ tiếp tục, nhưng khốn nỗi: một số không nhỏ người dân còn xem con sông như
bãi rác hay nơi phóng uế. Thay đổi nếp nghĩ của người dân mới là chuyện khó!
Để kết thúc bài viết, xin có lời mách, nhắn với những
người xa quê để an tâm:
Ở
tận xứ người em có biết?
Quê
hương ta có một dòng sông.
Anh
mãi gọi với lòng tha thiết:
Hiếu
Giang ơi hãy mãi sạch trong ...
Hoàng Đằng - TP. Đông Hà
1 nhận xét:
Bài cảm nhận rất hay. Chúng ta cần phải biết yêu quê hương, đất nước, yêu từng con sông, bến đò, cây đa, ngọn cỏ vì không nơi nào có thể sánh bằng nhà mình - nơi chôn rau cắt rốn. Vì vậy, mỗi người chúng ta hãy biết quý trọng nó dù là những thứ nhỏ nhặt nhất. Ngoài ra, với một xâ hội hiện đại như ngày nay thì cái đẹp luôn được chú trọng. Nếu không may sở hữu đôi mắt một mí gây cản trở đường công danh sự nghiệp mà ngại dao kéo thì đã có nâng mí mắt không cần phẫu thuật cho mắt đẹp rạng ngời.
Đăng nhận xét