KỶ
NIỆM 230 NĂM CHIẾN THẮNG NGỌC HỒI – ĐỐNG ĐA
Trịnh Sinh
Trưa
mồng 5 Tết Nguyên đán Kỷ Dậu (1789), trong tiếng khải hoàn, vua Quang Trung
mang đại quân vào thành Thăng Long với chiếc áo chiến bào đen sạm khói súng của
những ngày đêm chiến đấu ác liệt. Nhân dân kinh thành tràn ngập trong niềm vui
chiến thắng, đổ ra chật phố phường đón chào người anh hùng vừa lập nên chiến
công thần kỳ. Quân Tây Sơn hân hoan ăn Tết khai hạ tại thành Thăng Long, đúng
như lời Quang Trung đã hứa với quân sỹ trước đó tại Tam Điệp.
Thắng
lợi của cuộc kháng chiến chống quân Thanh xâm lược mà tiêu biểu và quyết định
là chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa là một trong những chiến công hiển hách nhất
trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc
Việt Nam. Tự hào về người anh hùng áo vải cờ đào bách chiến bách thắng, nhà
quân sự thiên tài Quang Trung - Nguyễn Huệ.
*
Hoàng đế Quang Trung thân chinh dẫn đại quân từ Phú
Xuân ra Tam Điệp hội quân để chuẩn bị đánh đuổi quân Thanh. Quang Trung dùng mẹo
sai người đưa thư đến Tôn Sĩ Nghị để xin đầu hàng, gây cho chủ tướng quân Thanh
càng thêm chủ quan. Tôn Sĩ Nghị bố trí các đạo quân để bảo vệ Thăng Long, trong
đó có đạo quân Điền Châu, Triều Châu do Sầm Nghi Đống chỉ huy đóng ở Đống Đa, bảo
vệ mặt Tây thành Thăng Long. Đạo quân chủ lực đặc biệt do Đề đốc Hứa Thế Hanh
chỉ huy, lo bảo vệ phía Nam Thăng Long và chuẩn bị tấn công phòng tuyến Tam Điệp-Biện
Sơn của quân Tây Sơn.
Gươm và súng của quân đội nhà Tây Sơn.
Bối cảnh cuối năm Mậu Thân (1788) cũng là sát Tết Kỷ Dậu
(1789), quân Thanh đã bày binh bố trận chặt chẽ, vừa mang tính phòng thủ, vừa
mang tính chuẩn bị tấn công trong tư thế sẵn sàng chấp nhận sự... “đầu hàng” của
quân Tây Sơn. Với nhiều ưu thế về quân số vượt trội, lại dễ dàng chiếm được
Thăng Long, nên Tôn Sĩ Nghĩ đã mắc phải sai lầm chiến lược: chủ quan tự mãn. Vì
thế, mặc cho vua Lê Chiêu Thống thỉnh cầu xuất quân ngay, nhưng Tôn Sĩ Nghị chủ
quan thể hiện trong câu nói: “Năm đã gần hết, việc gì phải vội vàng, không cần
đánh vội, giặc còn gầy, ta nên nuôi cho nó béo, để nó tự dẫn xác đến để làm thịt”
(Đại Nam liệt truyện). Tôn Sĩ Nghị không phải là tướng bất tài. Vốn là Tổng đốc
Lưỡng Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây), lại được giao thêm quân của Vân Nam, Quý
Châu, nên trong tay Tôn Sĩ Nghị quân đông, tướng tài.
Đối đầu với Tôn Sĩ Nghị là Hoàng đế Quang Trung. Cái
giỏi của ông là có tầm nhìn chiến lược. Khi còn ở Tam Điệp, chưa đánh trận nào,
thế giặc vẫn hùng mạnh mà ông đã tiên đoán: “Nay hãy tạm ăn Tết Nguyên đán trước,
đợi ngày mùng 7 vào thành Thăng Long lại mở yến tiệc” (Đại Nam liệt truyện). Quả
là như vậy, thậm chí giải phóng Thăng Long còn sớm hơn 2 ngày.
Mở màn cho trận quyết chiến giải phóng Thăng Long là
đêm 30 tháng Chạp năm Mậu Thân, đạo Trung quân là đạo chủ lực dưới sự chỉ huy
trực tiếp của Hoàng đế Quang Trung đã vượt qua sông Gián Khẩu, tiêu diệt một loạt
các đồn tiền tiêu của quân Thanh, bắt gọn tàn quân và lính do thám của giặc. Vì
vậy, khi quân Tây Sơn tiến sát đồn Hà Hồi mà địch không hề biết gì. Tôn Sĩ Nghị
và Lê Chiêu Thống ở Thăng Long vẫn chìm trong tiệc rượu liên hoan mừng xuân “thắng
lợi”.
Đêm mùng 3 Tết Kỷ Dậu, quân Tây Sơn bất ngờ tiến đánh
đồn Hà Hồi. Đồn này là cứ điểm quan trọng, chỉ cách thành Thăng Long có 20km.
Quân Tây Sơn bao vây gọi hàng. Quân Tây Sơn thu được nhiều vũ khí, lương thực
mà vẫn bảo toàn lực lượng.
Sau khi tiêu diệt đồn Hà Hồi, Quang Trung cho dừng lại
đóng quân và củng cố lực lượng, chuẩn bị trận quyết chiến, đánh đồn Ngọc Hồi
(xã Ngọc Hồi, huyện Thanh Trì, Hà Nội). Đây là một cứ điểm quan trọng nhất
trong tuyến phòng thủ Nam Thăng Long của quân Thanh. Phía ngoài lũy, quân Thanh
cắm chông sắt, đặt cạm bẫy, địa lôi thành một bãi chướng ngại vật cực kỳ lợi hại,
khó vượt qua.
Mờ sáng ngày mùng 5 Tết Kỷ Dậu, Quang Trung chỉ huy
quân chủ lực tiến công vào mặt Nam của đồn Ngọc Hồi. Tham chiến gồm 100 voi chiến,
trên mình voi có chiến binh cầm giáo mác, mũi tên, súng tay, hỏa hổ. Còn có cả
đại bác đặt trên lưng voi. Quân Thanh từ trên mặt lũy đã dùng đại bác, cung nỏ
bắn ra. Các lính xung kích Tây Sơn đã dùng ván gỗ ghép lại, quấn rơm ướt để tạo
thành cái mộc lớn chống đại bác và cung tên của quân Thanh. Cuối cùng, quân Tây
Sơn đã vào được đồn và tiêu diệt phần lớn quân trong đồn Ngọc Hồi với những vũ
khí lợi hại như hỏa hồ, còn gọi là “Hỏa cầu lưu hoàng” đốt cháy giặc Thanh. Đô
đốc Hứa Thế Hanh, Tổng binh Thượng Duy Thăng đều bỏ mạng.
Tàn quân ở Ngọc Hồi chạy về phía Bắc theo đường thiên
lý hay dọc đê sông Hồng lại gặp quân nghi binh ở vùng Yên Duyên đành chạy tạt
ra phía Tây, bị dồn đến Đầm Mực thì bị quân của Đô đốc Bảo cùng với quân truy
kích từ Ngọc Hồi sang tiêu diệt. Tổng số quân địch bị tiêu diệt trong trận Ngọc
Hồi - Đầm Mực lên tới vài ba vạn quân.
Cánh quân “thượng đạo” do Đô đốc Đặng Tiến Đông cũng
tiến đánh đồn Đống Đa vào đêm mùng 4, rạng ngày mùng 5 Tết Kỷ Hợi. Đồn Đống Đa
còn được gọi là đồn Khương Thượng, sát phía Tây của thành Thăng Long. Đồn này
do tướng Sầm Nghi Đống, vốn là thổ ty của vùng Điền Châu cai quản, đóng trên một
gò đất cao gọi là gò Đống Đa. Xung quanh đó còn có đồn Yên Quyết bên bờ sông Tô
Lịch và đồn Nam Đồng để bảo vệ đồn Đống Đa. Số lượng quân Thanh tinh nhuệ ở đồn
Đống Đa không nhiều, còn lại là những thổ binh mới chiêu mộ ở vùng biên giới,
dân phu mỏ ở các mỏ ở vùng miền núi phía Bắc, rất ô hợp.
Quân Tây Sơn đã bí mật vừa hành quân, vừa dọn đường
“thượng đạo”, đã tiến về đồn Đống Đa và đốt phá các doanh trại xung quanh vào
sáng sớm ngày mùng 5 Tết. Dân 9 xã xung quanh đã dùng rơm bện thành hình rồng,
tẩm dầu đốt lửa bao vây giết giặc. Trong chốc lát, quân Thanh bị chết và bị
thương đến 5.000 người. Tướng giặc phải rút lên Loa Sơn để cố thủ. Sầm Nghi Đống
sợ hãi phải thắt cổ tự tử. Vài trăm người trong đội thân binh cũng tự sát theo
chủ tướng. Sau khi tiêu diệt đồn Đống Đa, Đô đốc Đặng Tiến Đông chỉ huy kỵ binh
vượt qua cửa ô Thịnh Quang tiến thẳng vào thành Thăng Long.
Tượng
đài Hoàng đế Quang Trung
Trận Đống Đa thể hiện sự phối hợp giữa quân và dân ta
chặt chẽ. Trong trận công đồn, có sự tham gia của dân 9 xã xung quanh, dùng rơm
rạ bện thành hình rồng, tẩm dầu đốt lửa thành những con rồng lửa bao vây và uy
hiếp giặc, làm cho giặc kinh sợ và bị tiêu diệt đến 5.000 tên trong chốc lát.
Đây cũng là thế trận của lòng dân, vốn bị quân Thanh đàn áp, bóc lột thậm tệ
nên người dân sẵn sàng cùng tham gia đánh giặc Thanh.
Theo giáo sư Trịnh Sinh
1 nhận xét:
Đọc lại trang sử hào hùng của dân tộc với bao máu xương ông cha đã đổ.
Kẻ hậu sinh quyết noi gương tiền nhân.
Đăng nhận xét