BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Năm, 7 tháng 11, 2024

NHẠC SĨ NGUYỄN ÁNH 9 PHÊ BÌNH THẲNG THẮN CÁC CA SĨ…HÉT GÀO.

 

Việt Nam hiện tại chỉ có giải trí, không có nghệ thuật. Bây giờ, nhạc để xem nhiều hơn là để nghe. Người ta làm giải trí kiếm tiền, coi qua rồi bỏ chứ hiếm người tâm huyết làm nghệ thuật. Điều này khiến tôi buồn lắm vì con đường nghệ thuật của mình không có những người chung chí hướng để làm tốt vai trò nghệ sĩ

Hồi xưa, người nhạc sĩ viết ca khúc từ những cảm xúc thật của họ, họ viết ra để chia sẻ niềm vui, nỗi buồn cho mọi người chứ họ không viết nhạc để bán. Còn bây giờ, nhạc sĩ viết nhạc theo yêu cầu đơn đặt hàng nên âm nhạc không có hồn, không có cảm xúc thật của người sáng tác.

Ca sĩ bây giờ đa số chỉ chú trọng ăn mặc, make-up cho đẹp và lên sân khấu hát thì sau lưng có một đám múa. Nhưng ít chú trọng đến xúc cảm âm nhạc, không để tâm hồn vào bài hát.

Thứ Tư, 6 tháng 11, 2024

NHỮNG GIỌNG HÁT TIÊN PHONG CỦA NHẠC VÀNG BOLERO VIỆT NAM - nhacxua.vn



* Thanh Thúy: Tiếng Hát Liêu Trai
Thanh Thúy là một trong những ca sĩ tiên phong đưa nhạc vàng đến với công chúng Việt Nam. Khởi đầu từ giữa thập niên 50, nhưng phải đến đầu thập niên 60, Thanh Thúy mới thực sự khẳng định tên tuổi của mình. Với giọng hát chậm buồn, đầy chất liêu trai, Thanh Thúy đã thổi một luồng gió mới vào nhạc vàng. Nhạc phẩm “Nửa Đêm Ngoài Phố” của Trúc Phương, qua giọng hát của Thanh Thúy, đã trở thành một hiện tượng, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển của Boléro Việt Nam.
Thanh Thúy không chỉ nổi bật với giọng hát truyền cảm, mà còn với phong cách biểu diễn đặc trưng. Cô xuất hiện trên sân khấu với tà áo dài thanh nhã, mái tóc dài phủ kín đôi bờ vai, và nét mặt kiều diễm. Tiếng hát của cô trầm trầm, ngọt ngào và u hoài, như len lỏi vào tâm can của người nghe, đặc biệt là những người lính tiền phương, các văn nghệ sĩ và người dân Saigon cũ đang tìm kiếm chút bình yên giữa những năm tháng chiến tranh.
 

VÌ SAO GỌI LÀ “BÒ BÍA" MÀ KHÔNG CÓ THỊT BÒ?



Bò bía là món ăn khá quen thuộc với chúng ta. Vậy tên gọi của món ăn này bắt nguồn từ đâu? Có phải chữ “bò” trong “bò bía” là thịt bò? Hãy cùng Tiếng Việt giàu đẹp khám phá nhé!
 
Bò bía là món ăn ngọt xuất phát từ Triều Châu. Vì thế, cái tên “bò bía” cũng có nguồn gốc từ tiếng Triều Châu 薄餠 (boh8 bian2), âm Hán Việt là “bạc bỉnh”. Điều này cũng được ghi nhận trong Tầm nguyên tự điển Việt Nam của GS. Lê Ngọc Trụ.
 
Ở đây, (“bạc”) có nghĩa là mỏng, còn (“bỉnh”) là bánh. “Bạc bỉnh" hiểu thuần là “bánh mỏng". Cách đặt tên này được đặt dựa trên đặc trưng của bánh: lớp bên ngoài khá mỏng.
 
Tóm lại, “bò bía" bắt nguồn từ tiếng Triều Châu “boh bian" (薄餠, âm Hán Việt là “bạc bỉnh") và “bò" ở đây không liên quan gì đến thịt bò cả.
 
                                                SAIGON 1966 - XE BÒ BÍA XƯA.
                                                            IG:SAIGONVIVU

TỰ LỰC VĂN ĐOÀN LÀ... GÁNH HÁT CẢI LƯƠNG!… - Ba Cong



Trong trò chơi “Ai là triệu phú” trên đài Truyền hình VTV3 Hà Nội, do MC Lại Văn Sâm điều khiển, người được mời lên chiếc “ghế nóng”.
Tham dự chương trình là cô Nguyễn Thị Tâm, 27 tuổi, giảng viên trường Đại học Sư phạm thành phố Thái Bình.
Câu hỏi nguyên văn như sau:
“Trong tứ trụ của Tự Lực Văn Đoàn: Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng; ai là người không phải anh em ruột với ba người kia?”
Cô giảng viên Đại học Sư phạm suy nghĩ một lát rồi nói:
- Tự Lực Văn Đoàn, tôi chưa nghe nói đến bao giờ cả.
Hình như đó là một gánh cải lương.
Còn Nhất Linh chắc chắn là một nghệ sĩ cải lương.
Riêng Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng… tôi không biết ba ông này có phải nghệ sĩ cải lương như Nhất Linh không.
- Vậy chị kết luận ai không phải anh em ruột với ba người kia?
- Tôi đề nghị cho tôi được hưởng quyền trợ giúp, gọi điện thoại cho người thân.
- Chị muốn gọi cho ai?
- Cho anh Nam, một bạn đồng nghiệp cũng dạy trong trường.
Anh Nam là người đọc rất nhiều sách, kiến thức rất rộng, chắc chắn anh ấy biết.
Phòng máy liên lạc với người tên Nam đang chờ sẵn ở nhà để trợ giúp, “cứu bồ” cho cô Tâm.

SÀI GÒN CHỈ MỘT NỬA GIỜ MƯA – Trần Vấn Lệ



Chỉ một nửa giờ mưa mà Sài Gòn ngập lụt!  Người muốn mưa vài phút, mát đó, được bao lâu? (*)
 
Những gì mình mong cầu, đất trời thường ngoảnh mặt Nhà Thờ, Chùa cao ngất... không đụng tới trời xanh!
 
Có lẽ những bức tranh họa cảnh đời là đúng?  Sống, lẽ Tự Nhiên là sống.  Sống, nào ai cảm động cảnh thương tâm ở đời...
 
Dĩ nhiên thấy khóc, cười, Trời kêu ai nấy chịu!  Người ta sống đủ kiểu... rồi cũng chỉ một đời!
 
Nhìn đất nước đổi dời, nhìn cảnh đời tang hải, bao nhiêu trang giấy trải chì là bài Diễu Văn!
 
Phải chi... biết ăn năn, cầu, đường đừng ăn bớt... trời chỉ mưa trớt qướt, dân không phải lầm than!

*
Một Sài Gòn hiên ngang, hễ mưa là xuống cấp.  Không chỗ nào không ngập... cả bên Phú Mỹ Hưng.
 
Mở đường về phía Nam, nước không có đường thoát. Ngô Viết Thụ dặn trước, người sau không thèm nghe!
 
Thương Bác Hồ đỏ hoe hai con mắt pho tượng.  Thành phố càng to lớn...nỗi niềm càng bao la!
 
Con lội nước kêu Cha!  Vợ lội sình... Anh hỡi!  Người tứ phương đổ tới, kiếm cái ăn, nghẹn lòng...
 
Có hôm trời mưa giông, bà vé số ngả quỵ...  xe bus còi cứ hí... nước bật nắp cống, trôi!
 
Nắng - hồ con rùa, nước sôi!  Mưa, cầu chữ Y muốn lé.  Một thành phố hoa lệ, Sài Gòn ơi Sài Gòn!
 
                                                                                       Trần Vấn Lệ

NHÀ THƠ NGUYỄN VĂN SONG VIẾT VỀ MẸ - Đặng Xuân Xuyến



Nhà thơ Nguyễn Văn Song sinh năm 1974, tại Vân Điềm, Vân Hà, Đông Anh, Hà Nội. Hiện là giáo viên Trường Trung học Phổ thông Phù Cừ, Hưng Yên. Anh đã xuất bản 2 tập thơ: Đi từ phía cổng làng, Mẹ và sen. Đoạt giải B (không có giải A, đồng hạng với nhà thơ Tòng Văn Hân (Điện Biên) với tác phẩm MẸ TÔI CHỬI KẺ TRỘM) cuộc thi thơ của Báo Văn Nghệ - Hội Nhà văn Việt Nam 2019 - 2020.
----
 
Đọc thơ Nguyễn Văn Song viết về Mẹ, người đọc thấy sự cần cù, kiên nhẫn và trung thành của anh trong việc chọn hướng đi, chọn cách viết. Hình ảnh Mẹ trong thơ Nguyễn Văn Song luôn là hình ảnh người mẹ của làng quê nghèo khó, lam lũ, tảo tần với gam màu tối, với những hình ảnh xưa cũ quen thuộc đã được nhiều nhà thơ, nhiều thế hệ nhà thơ tiếp cận khai thác.
 

VẦNG TRĂNG NÀO CÓ LỖI - Thơ Quách Như Nguyệt, Lê Quốc Thắng phổ nhạc


       


VẦNG TRĂNG NÀO CÓ LỖI
 
Tự dưng ghét tự dưng thương ai bắt
Thi sĩ buồn thi sĩ ném thơ đi
Thi sĩ ơi, thơ có tội tình gì?
Tại sao chứ, ai nỡ làm anh giận?

Anh làm thơ mỗi ngày cho em đọc
Anh bảo là làm thơ cho em vui
Anh ca tụng ánh trăng vàng lủi thủi
Em đọc thơ thấy cảm động bùi ngùi

Mỗi tối tối anh ra ngoài hiên ngắm...
...sao trên trời và kiếm mảnh trăng trôi
Anh thấy gì vầng trăng rất lẻ đôi
Nghìn vì sao chỉ một nàng trăng lẻ
 
Tối hôm nay mây hững hờ buồn tẻ
Thương hoa vàng, thương tiếng lá xôn xao
Thương cả gió lòng em quá xuyến xao   
Sao lại ghét? Vầng trăng nào có lỗi?!
 
                             Quách Như Nguyệt

CHẠM MỘT BAN MAI, TRONG NẮNG CHIỀU THƠM, TIẾC THU – Thơ Tịnh Bình


   


CHẠM MỘT BAN MAI
 
Thôi quay lại trở về chốn cũ
Cánh đồng xanh găm nỗi nhớ cỏ may
Ôm vai núi bóng mây chiều trôi chậm
Ngửa mặt nhìn trời diều giấy có còn bay?
 
Thôi quay lại...ừ thì trở lại
Cơn mưa xưa nụ cười cũ ướt nhòa
Con châu chấu ẩn mình trong cỏ biếc
Xao động gì ngơ ngác giọt sương sa
 
Thì trở lại... bao năm xuôi ngược mãi
Tìm bình yên trong khói bếp mẹ ta
Chiều vương vãi đàn gà tranh hạt nắng
Bối rối cánh cò chấp chới phía xa xa
 
Nghe lắng đọng giữa nhịp đời hối hả
Cánh chim trời hun hút phía xa xăm
Dòng sông cũ có già cùng năm tháng
Người lặng yên hồi tưởng những thăng trầm
 
Chầm chậm thôi buổi hoàng hôn dần tắt
Đêm hoang vu le lói ánh sao gầy
Chẳng thể níu giọt thời gian cùng cạn
Vén ngày tàn chạm gặp một ban mai...

XIN VỀ LẠI – Thơ Lê Văn Trung


   

 
XIN VỀ LẠI
 
Ta về lại xin làm người hành khất
Được chạm vào rêu biếc mái hiên xưa
Được cúi nhặt chiếc lá mùa quên lãng
Sợi tóc người bay rối những cơn mơ
 
Xin được ngắm áo vàng bay cánh bướm
Bóng mây chiều ai nhuộm mắt mù sương
Xin được chạm vào tấm lòng nhung gấm
Để nghe mùa ân ái dậy mùi hương
 
Xin được gọi tên niềm quên nỗi nhớ
Những con đường xuôi ngược của đời nhau
Những cánh đồng mùa thu vàng hoa nở
Những bến bờ xưa hò hẹn buổi ban đầu
 
Xin được tắm trong dòng sông trẻ thơ
Lòng xanh biếc buổi trăng vừa hàm tiếu
Ta về lại xin chút lòng niên thiếu
Ươm lấy mầm hy vọng của tương lai.
 
                                      Lê văn Trung
                                  Tháng Mười 2024

Thứ Bảy, 2 tháng 11, 2024

TỔ QUỐC NÓI THẾ NÀO CŨNG RƯNG RƯNG – Trần Vấn Lệ



Máy bay mình đang bay ngang qua thành phố cũ... Đà Lạt kìa, thương nhớ, phấn thông vàng hay mây?
 
Em!  Cho anh bàn tay!  Chỉ anh đi, ngón út. Cho anh đi, hương mật của thành phố ngàn hoa...
 
Em!  Cho anh hôn nha thành phố ngàn thông mướt mái tóc em dài thượt con suối vòng Cam Ly...
 
*
Tôi không biết nói chi về một thành phố cũ nơi mà tôi từng ở... bây giờ tôi bỏ đi!
 
Nó còn lại những gì?  Lăng Nguyễn Hữu Hào khiêm nhượng những bậc cấp đơn sơ? 
 
Những bậc cấp trong mưa nước đổ về Tùng Nghĩa.  Quê em là Liên Nghĩa một thị trấn giữa rừng...
 
Những xe ngựa chạy không những tấm lòng đói khổ.  Những người Thượng đóng khố chống gậy đi lên non...
 
Thác Gougha dễ thương cứ đổ hoài nước mắt.  Tiếng cắc bùm thật chát xé rừng thông tan hoang...
 
Núi cao nhất, Langbian.  Núi Bà đó, em ạ.  Nghĩ người mình thật lạ, đặt tên núi:  Núi Bà...
 
Hồi xưa anh đi qua, núi nào cũng tên đó, nghe nó sao ngồ ngộ, nhớ em - một mình Em?
 
Anh đứng ở K' Loon ngó xa về Tà Cú, những đám mây quần tụ...em đang múa Rừng Ơi!
 
Những cánh rừng nằm phơi xương tàn thời hủy hoại... Anh biết sao mà nói... dưới kia:  rừng Lâm Viên?
 
Em ơi em!  Em!  M.  Dưới kia thành phố cũ... tất cả chắc đang ngủ chờ em về nâng niu?
 
Em, anh rất quý yêu... lá thông cài trên tóc.  Tự nhiên tình Tổ Quốc trong anh cũng bằng em...
 
                                                                                      Trần Vấn Lệ

BỤI TRÚC LA ĐÀ, TRĂNG TÀ - Thơ M.loanhoasử


   
                Nhà thơ M.loanhoasử

 
BỤI TRÚC LA ĐÀ
 
em phơi hết tuổi hồng cầu Bạch Thổ
mắt biếng lười nhìn hờ hững sông Hương
anh chiếc ghe bầu trôi vừa ngái ngủ
thêm giọng hò mái đẩy nữa thân thương
trôi đi đâu chiếc ghe tội nghiệp
tuần mấy lần ghé mé Thuận An
em có qua cầu ghé về Đập Đá
nhìn xung quanh bụi trúc la đà
tháp Thiên Mụ hồì hồng chung thoang thoảng
chả lẽ dài đời em mãi tránh ta
con đê đó nằm soi mình bóng nước
cầu Tràng Tiền 12 nhịp thiết tha
kinh thành cổ bên bờ tả ngạn
chuyến tàu trưa chẳng bõ vượt Hương Trà
đi chút nữa ghé tạm ga Văn Xá
giòng Thúy Ái lừ đừ chẩy mỏi đôi ta
dẫy đồi cỏ Phong Điền chia 2 miệt
phủ Hải lăng bụi chuối sứ sa đà
ta như bèo hợp cuả Phạm Duy
(nhạc Con Đường Cái Quan)
theo bước chông gai vội vã lên đuờng
vượt Châu Ô Cận Lục vào Thuận Hoá
núi ngăn đường chồm ra biển Hải Vân
ải sừng sững nhìn thông Nam Hải
đường nối đường quá rộng đạo Quảng Nam
ta chiêm ngưỡng từng gốc cây hốc đá
tạ ơn trời tạ Công Chúa Huyền Trân
 

Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2024

VÌ SAO CON RỂ VUA LẠI GỌI LÀ "PHÒ MÃ" 駙馬?, BIỀN NGẪU 駢偶



VÌ SAO CON RỂ VUA LẠI GỌI LÀ "PHÒ MÃ"?

     Chồng của công chúa, tức là con rể vua, người ta gọi là Phò mã. Nhiều người giải thích rằng: Phò là giúp, mã là ngựa; Phò mã là người đi bên ngựa vua để giúp đỡ ngài, nghĩa là người rất thân cận với nhà vua
     Thật ra, PHÒ ở đây nghĩa là con ngựa để đóng vào xe. Chữ hán PHÒ viết là "" (fù), còn đọc với âm PHỤ. Ngựa đóng vào xe phụ, đi theo xe chính của vua gọi là PHÒ .
     Còn hai chữ PHÒ MÃ nguyên là một chức quan đời nhà Hán. Chức quan này chuyên về trông coi xe ngựa tùy tòng của vua, được gọi là “Phụ mã đô úy” 駙馬都尉. Từ đời nhà Ngụy, Tấn trở về sau, các đời vua lập ra cái lệ rằng hễ ai lấy công chúa tất được phong vào chức ấy, vì thế nên chàng rể của vua gọi là Phụ mã 駙馬. Ta vẫn thường đọc từ này là Phò mã.
     Lâu dần, người ta chỉ hiểu Phò mã là con rể vua, mà không nhớ danh từ đó nguyên là một chức quan.

CA SĨ THÁI HIỀN - Câu Chuyện Âm Nhạc



Thái Hiền (tên đầy đủ là Phạm Thị Thái Hiền, sinh ngày 24 tháng 4 năm 1958) là một nữ ca sĩ Việt Nam tại hải ngoại, là người con thứ năm - đồng thời là trưởng nữ của nhạc sĩ Phạm Duy và ca sĩ Thái Hằng. Thái Hiền bước chập chững bước vào con đường nghệ thuật từ đầu những năm 70 dưới sự dìu dắt của bố.

Ca sĩ Thái Hiền người gốc Hà Nội nhưng lại sinh ra và lớn lên ở TP. HCM, cô bắt đầu con đường ca hát từ năm 13 tuổi với những bài Bé Ca mà nhạc sĩ Phạm Duy viết dành riêng cho con gái của mình.
Đến năm 1974, khi Julie rời The Dreamers sang Pháp thì Thái Hiền trở thành giọng nữ chính của ban nhạc. Và cô nhanh chóng trở thành một ngôi sao ở độ tuổi thiếu niên nhờ những bài Bé Ca, Nữ Ca và sau này là Thiền Ca, Đạo Ca được bố là nhạc sĩ Phạm Duy viết riêng cho giọng hát của mình.
Khi bắt đầu được yêu mến với Nữ ca, những bài hát cho tuổi mới lớn, là lúc cô rời Việt Nam theo cha.

THÂN PHẬN CA – Thơ Khê Kinh Kha

 
 


tôi là người Việt Nam
mang giòng máu Tiên Rồng
quê quán đất Hà Tĩnh
 
đất nghèo như cỏ rơm
sinh ra chưa kịp khóc
đã cất bước lên đường
mẹ cha đùm chiếu rách
sông núi dựng hồn thiêng
 
Trường Sơn xanh lá biếc
sông Hương chảy vào lòng
tiếng chuông vang tuổi mộng
sóng vỗ tình non sông
 
bãi cát dài Đà Nẳng
trăng sáng giữa Nha Trang
mộng reo thông Đà-Lạt
tình thấm nước Cửu Long
 
tôi lớn lên vội vã
lớn lên trong đạn bom
từng tuổi đời héo úa
hồn đầy bao vết thương
 
bạn bè bao nhiêu đứa
tình nồng chưa dám tỏ
mộng đời chưa đầy tay
sách vở buồn khép lại
bao thằng đã ra đi
máu xương lạnh lòng đất
bao đứa còn nơi đây
tương lai như lá bay
 
tôi lớn lên vội vã
nhìn quê hương sụp đổ
nhìn quê hương điêu tàn
dân tôi nấc từng cơn
nuốt trôi nghìn gian khổ
lệ nhiều hơn lúa mạ
quê hương buồn ai hay
buồn như tiếng thở dài
mình me trong đêm vắng
trong đêm dài cô quạnh
trong đêm hồn rưng rưng
trong đêm hồn rưng rưng
 
tôi lớn lên vội vã
trong bom đạn chiến tranh
kinh kha hề nuôi chí
kinh kha hề tráng sĩ
từng ngày hề từng ngày
nỗi lòng này ai hay ?
 
tôi lớn lên vội vã
nhìn quê hương tan rã
bao phận người lưu vong
bao phận người lênh đênh
bao nhiêu xác chôn vùi
vào lòng biển mênh mông
em ơi, anh ơi, mẹ ơi
vào lòng biển mênh mông
cha ơi, con ơi, mình ơi
vào lòng biển mênh mông
vào lòng biển mênh mông
 
tôi là người Việt Nam
ngàn năm vẫn Việt Nam
máu tôi vẫn Tiên Rồng
màu lúa chín màu da
mộng ta mộng kinh kha
trôi trong kiếp lưu đày
trên mảnh đất mượn vay
ai tan vỡ mảnh hồn
oà khóc theo tháng năm
 
Việt Nam ơi Việt Nam
sao gọi hoài chưa hết
Việt Nam ơi ! Việt Nam hỡi
xin gọi mãi trong đời
ta còn đây, còn đây
một màu da lúa chín
một trái tim câm nín
một giòng máu Rồng Tiên
 
một trang sử bắt đầu
cho bao triệu con tim
 
           Mass 5/10/75
           khê kinh kha

THƠ HAIKU CỦA TRẦN MAI NGÂN


  

 
HAIKU CHÀO THÁNG 11
 
Gió thổi bay đi
Đám mây màu xám
Hoa Cải trắng cười…
 
Trần Mai Ngân

CẮC CỚ. TÌNH ĐỜI THƯỜNG – Thơ Chu Vương Miện


   


CẮC CỚ
 
có ai? cắc cớ hỏi rằng?
tại sao? cây ngô đồng không trồng mà mọc?
thì cũng có người trả lời
rằng “tại sao con ghế khóc?”
cũng như có nhiều người làm thơ
làm ra không ai đọc?
có người mang đi cất
có người quăng thùng rác?
người ta giả vàng lá [không ai giả bạc?]
đồng giả là đồng thau
người ta hiện diện cõi này
để dối lừa nhau?
cho vui buồn đỡ nhàm đỡ chán?
nói đuờng vòng quanh co rồi nói nhảm?
giống cây ngô đồng
4 mùa dướí nắng?
 

Thứ Năm, 31 tháng 10, 2024

HẾT THÁNG MƯỜI – Trần Vấn Lệ



Còn chỉ ba ngày nữa là chấm dứt tháng Mười.  Cái tháng "bất phùng thời" nên không ai muốn nhắc... Rồi tháng Mười Một chắc sẽ có nhiều tâm tư?  Cuối năm mà ước mơ của nhiều người hóa bọt!...  Biển nào chứa nước ngọt, họa chăng chỉ Biển Hồ của Cambodia, Tàu gọi Cam Phổ Địa!
 
Chế Lan Viên có lý:  "Tôi có chờ đâu, có đợi đâu!  Mang chi Xuân đến gợi thêm sầu?  Với tôi, tất cả đều vô nghĩa, tất cả không ngoài nghĩa Khổ Đau!".  Tất cả là chiêm bao...Nửa Thế Kỷ bèo bọt!  Tháng Mười coi trớt qướt!  Một hay Chạp... vậy thôi.  Mây trắng ngàn năm trôi, hạc vàng bay là biệt! (*)
 
Những "đồng bào" người Việt gặp nhau hết thấy mừng... Tất cả thành người dưng.  Năm mươi năm gió thoảng... Đời sống chỉ một thoáng!  Một thoáng là đời người!  Phúc-Lộc-Thọ câu chúc của Tàu họ viết ra thành chữ treo trước một dãy phố... thành ngôi chợ Viêt Nam!   Ai còn nhớ Quê Hương thì vào đây đứng ngắm cái bình nhang khói đậm bay mờ những cửa gương!  Ai còn nhớ Quê Hương?  Hỏi cháu con, không nói!
 
Tháng Mười bao nhiêu đợi bay qua một cái vèo...  Mùa Xuân ở Cheo Reo, mùa Xuân ở Phú Bổn... Đó có là phương hướng mình ngó về Trường Sơn?  Trại tù sáng chiều sương, tù tàn binh giụi mắt.  Cái gì cũng xa lắc từ lời hứa "anh em".  Mỹ Ngữ dùng nhem thèm:  Độc Lập Tự Do trên hết...
 
Ba ngày nữa, ngơ ngác:  Bao Giờ Tới Tháng Mười?  Hỏi chi để ngậm ngùi?  Tháng Mười... Tháng Ảo Tưởng!   Bão Trà My một hướng, hai câu Ôn Như Hầu:  "Tiếc thay một đóa Trà My, con ong đã thuộc đường đi lối về...". Khổ lắm!  Biết rồi!  Nói mãi! (**)
 
                                                                                       Trần Vấn Lệ
 
(*) Cổ Thi:  Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản, bạch vân thiên tải không du du...
(**) Câu văn bất hủ của Vũ Trọng Phụng, tác giả Số Đỏ, Làm Đĩ... có tên đường ngay tại Hà Nội... từ năm 1975...

NƯỚC MẮT CỦA EM - CaDao



Cúc Hương là một đứa con gái lì lợm!
Tiếng trống trường vang lên báo hiệu giờ truy bài bắt đầu.  Ngập ngừng, Cúc Hương liếc nhìn mẹ. Rồi không chịu nổi ánh mắt như van nài, nó quay người bước nhanh vào sân trường.
Cô Nguyệt đã có mặt trên lớp. Cô đang hướng dẫn cho một số đứa làm mấy bài cảm thụ văn học. Cúc Hương lầm lì đi thẳng vào chỗ ngồi. Mới đến lớp có hai ngày, nó không ưa cô giáo mới cũng như những đứa bạn thành phố đang ngồi học trong lớp này. Nó ghét tất cả mọi điều đang diễn ra. Ghét cả những đổi thay về mặt tâm sinh lý của nó. Cúc Hương chẳng nói gì với mẹ mình.
Nó sợ những giọt nước mắt của bà lắm!
 

Thứ Hai, 28 tháng 10, 2024

TÔ CANH HẸ - Vũ Thế Thành



Một chuyện kể hàng tuần mà tôi học trong sách “Tập đọc lớp Năm” (lớp 1 bây giờ) là truyện “Tô canh hẹ”, đại khái thế này:
Một người bị tội phải giam trong ngục. Lính gác đưa vào cho người tù tô canh hẹ. Anh ta cầm tô canh nức nở khóc. Lính hỏi vì sao, người tù trả lời, ở nhà tôi thích canh hẹ, mẹ tôi thường nấu cho tôi ăn. Nhìn tô canh hẹ này, tôi chắc mẹ tôi lặn lội đường xa nấu canh đến thăm nuôi tôi. Tôi chưa báo hiếu ngày nào, lại để mẹ khổ cực vì tôi thế này, nên tôi khóc.
 

BAO LA, MƯỢN HỒN, QUA ĐƯỜNG, BA MƯƠI NĂM, DỞ DANG – Thơ Chu Vương Miện


   


BAO LA
 
Người bệnh nằm 1 chỗ
trên đầu là chai nước
ngang hông là ấm trà
vợ đi làm mờ sáng
con trai đi học xa
mắt lim dim thiếu ngủ
quay ngang ngửa vật vờ
tuổi già thêm mệt mỏi
bằng hữu cũng giả lơ
như rong bèo vớ vẩn
trôi trôi chả bến bờ
đứng lên rồi ngồi xuống
cũng chỉ mỗi mình ta
nhớ mẹ già em dại
lếch thếch 1 phương nhà
bao chuyến tàu chuyển bánh
để lại mấy sân ga
ta lữ hành tơí trễ
chờ lâu lại trở về
nhìn qua khung cửa sổ
mây hồng vội vã qua
cầm ly nước ngại uống
trùng dương nào bao xa
 

THƠ ĐƯỜNG LUẬT MÙA THU CỦA VŨ HOÀNG CHƯƠNG - Nguyễn Lam Điền



Gặp một loạt tám bài thơ luật của Vũ Hoàng Chương, thơ hay chấn động, lại là thơ của mùa thu. Vì dường như tám bài này chưa được đưa vào sách, nên bèn làm siêng gõ ra đây để xem như là tư liệu.
Nhưng thưởng thức mới là chuyện chính!
Tám bài ngẫu chiếm
 
I.
Lòng còn sương khói tiễn đưa ai
Bỗng một cành khoe hạt ngọc cài
Vườn ấy lạnh đang vào tháng chín
Kiếp nào tu đã tới hoa mai?
Giấc mơ hồ điệp chờ in bóng
Khóm cúc trùng dương hẹn sánh vai
trở gót nghe như vàng hỏi đá
Bạch vương Thanh hữu có là hai?
 
II.
Tận đáy trời Thu vạn trượng sâu
Bóng hoa vượt khói đã lên lầu
Trắng bao đêm những mơ về đó
Thoảng chút hương là nhận được nhau
Chim Thúy vũ bay hồn tưởng dứt
Sáo Giang thành rụng vết còn đau
Ai hay một kiếp hai lần nở
Ngà ngọc như in giấc mộng đầu.
 
III.
Ai còn ai mất ai đi xa
Trùng cửu thơ trao lần thứ ba
Đất mượn trời vay chưa trắng nợ
Quỳnh đơn mai kép vẫn tươi hoa
Cùng đưa cảm hứng này lên vút
Đâu để thời  gian ấy vượt qua
Gió nổi, Thơ đang về tới điểm
Bóng ai soi cũng thấy hình ta.