BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Năm, 17 tháng 10, 2024

HỒ DZẾNH VÀ CHÂN TRỜI CŨ – Vũ Thư Hiên


Hồ Dzếnh - ảnh tư liệu.
 
Nhà văn Thanh Châu có một giang sơn riêng – một gác xép bằng gỗ ghép giống hệt gác xép của hoạ sĩ Bùi Xuân Phái, người mà chúng tôi đặt cho ông một biệt hiệu tếu: “Ông Giê Su khốn khổ ở phố Hàng Thuốc Bắc”. Cao, gầy, xanh, với những nét sắc như vạc bằng rìu trên mặt, nhìn anh tôi gặp một bản sao tượng Chúa Chịu Nạn. 
 
Thời ấy nhiều nhà có thứ gác xép như thế. Nó tăng diện tích ở không nhiều, nhưng tạo ra một mảng riêng tư. Gác xép của Thanh Châu là phòng văn của ông, cũng là chỗ ông tiếp bạn, người nhà không hề lai vãng.
 
Để lên cái gác xép ấy phải leo một cái thang dựng ngược, bám cứng vào hai thành lung lay của nó mà nhích từng bước mà chui lên.
 

ĐAU QUÁ ĐÒN HẰN RÁT HƠN LỬA BỎNG – Thơ Trần Vấn Lệ


 

 
Mạc Đỉnh Chi bực xé bức tranh
vẽ con chim sẻ đậu trên cành
cành tre biểu tượng người quân tử
chim sẻ đời coi đứa tiểu nhân!
 
Câu chuyện ngày xưa bên bữa tiệc
tưởng đùa mà triết lý cao sâu!
người Tàu đã hiểu người dân Việt:
yêu nước tâm can, cả cái đầu!
 
Đọc Sử, chúng TA không để ý,
học chơi và hiểu chỉ sơ sơ!
Văn xuôi, đọc đấy, câu nào nhớ?
đời nối tiếp đời cứ chuộng thơ!
 
Nguyễn Khuyến bực mình nên hạ bút
hai câu đủ giết hết người TA:
"Sách Vở Ích Gì Cho Buổi Ấy?
Xiêm Y Thêm Thẹn Cái Thân Già!"
 
Một ông Quan Bự vừa lên báo:
Lên Xuống Nhịp Nhàng, giỡn mặt chăng?
Uốn lưỡi bảy lần đau cái miệng!
Phát Ngôn Bừa Bãi Mới Là Quan?  (*)
 
                                   Trần Vấn Lệ
 
(*) bài báo đăng trên báo Đảng TA: 
https://thanhnien.vn/co-len-co-xuong-dan-thanh-van-hoa-viec-binh-thuong-trong-cong-tac-can-bo-185240709095333745.htm

THƠ 1-2-3 CỦA TRẦN MAI NGÂN


  

 
Khi em nhìn anh
Là em đang ôm anh bằng đôi mắt
Đôi mắt nồng nàn, đắm say và chìm sâu
Có lẽ tình yêu chân thành là vậy - sẽ bền lâu
Không cần nói, không cần dang đôi tay
Mà em vẫn cảm nhận từ anh - một bờ vai ấm!
 
                                                 Trần Mai Ngân

KHI BÉ ĐẾN - Nhạc Khê Kinh Kha



Bài thơ BÉ Và QUÊ HƯƠNG ANH của Khê Kinh Kha đã được GS Nguyễn Thanh Chí tại Đại Học San Jose State, CA, chọn dạy trong Chương Trình Vietnamese Culture từ hơn 5 năm nay.
Bài thơ cũng được chính tác giả Khê Kinh Kha soạn thành ca khúc KHI BÉ ĐẾN.

             


BÉ VÀ QUÊ HƯƠNG ANH
 
này bé hỡi, chiều nay trời lành lạnh
ở phương này anh nhớ một quê hương
bé đừng quên, chiều nay mình đã hẹn
anh sẽ ngồi kể hết chuyện quê anh
 
khi bé đến, nhớ mặc áo dài xanh
như mầu xanh của lúa mạ lên mầm
như mầu xanh của rừng thông Đà Lạt
áo bay mềm như dòng nước Cửu-Long
 
khi bé đến, nhớ để tóc xoã dài
xõa dịu dàng như liễu rủ ngang vai
xõa trong anh bóng tre già quê ngoại
xoã hương tình bao ruộng lúa Đồng-nai
 
khi bé đến, nhớ đừng thoa son nhé
để nắng chiều ửng đỏ nét môi thơm
để chiều nay mặt trời không ngủ sớm
như những chiều nắng phủ dãy Trường-sơn
 
khi bé đến, nhớ đừng thoa hương phấn
để hương trinh ngào ngạc gập vào hồn
như cúc vàng bên thềm xưa Vỹđạ
ngát hương nồng bên dòng nước sông Hương
 
khi bé đến, nhớ đừng mang kính mát
để trời xanh rơi rớt vào mắt trong
để anh thấy biển Hội-An, Đà-Nẵng
bãi cát dài sóng vỗ đến Nha-trang
 
khi bé đến, nhớ bước đi nhè nhẹ
để lòng anh không xao động nổi hờn
vì anh vẫn thấy hoài trong giấc mộng
phố Sài-gòn, Hà-nội, Huế buồn tênh
 
khi bé đến, đừng hôn anh bé nhé
hãy để dành hôn mẹ Việt Nam ta
mẹ Việt Nam bàn tay còn chai đá
nụ hôn nào sẽ xóa dịu lòng me
 
khi bé đến, nhớ cười vui bé nhé
để lòng anh như pháo nổ đầu xuân
anh sẽ ngắt cánh mai vàng vừa nở
tạ ơn đời và tổ quốc mến thương
 
                    KhêKinhKha
              (Trích tập thơ Tỏ Tình)

Thứ Tư, 16 tháng 10, 2024

CHUYỆN TÌNH ĐIỀN DÃ – Truyện ngắn của Guy de Maupassant, Lê Quang Huy dịch

Tình cờ đọc được một truyện ngắn với nội dung khá lạ của nhà văn Pháp Guy de Maupassant và kết cục hơi bất ngờ, xin tạm dịch thô sang tiếng Việt gửi bạn bè đọc cho vui.
 

Chuyến xe lửa vừa rời thành phố Gênes đi về hướng Marseille và chạy dọc theo bờ biển khúc khuỷu lởm chởm đá, nhẹ lướt giữa biển cả và núi non như con rắn sắt, trườn trên bờ biển cát vàng, nơi những đợt sóng nhấp nhô vỗ bờ trông như mảnh lưới bạc; và rồi đột nhiên chui vào cửa họng đen ngòm của những con đường hầm, như con thú chui vào hang.

Trong toa xe cuối cùng, một phụ nữ to lớn và một thanh niên ngồi đối diện nhau, không nói một câu, và thỉnh thoảng lại nhìn nhau. Chị ta trông độ hai mươi lăm tuổi; và ngồi cạnh cửa ngắm phong cảnh. Chị là một nông dân vùng Piémont, đôi mắt đen láy, bộ ngực đồ sộ, đôi má phúng phính. Chị đã đẩy mớ hành lý của mình vào dưới băng ghế gỗ, và ôm một chiếc giỏ trên gối.

Anh thanh niên khoảng hai mươi tuổi, gầy gò, đen sạm, cái đen đúa của người làm ruộng ngoài trời nắng gắt. Bên cạnh anh, trong chiếc khăn mù-soa là tất cả gia tài của anh: một đôi giày, một áo sơ-mi, một chiếc quần cụt và một áo vét. Dưới băng ghế anh cũng đã cất một vài thứ: một cái xẻng và một cái cuốc buộc lại với nhau bằng một sợi dây. Anh sang Pháp tìm việc làm.

Mặt trời đã lên cao, toả cái nóng gay gắt xuống vùng biển; lúc ấy vào cuối tháng năm, và những hương thơm ngây ngất bay lãng đãng, luồn vào toa xe qua các cửa kính đã hạ xuống. Những cây cam, cây chanh đang độ ra hoa, toả lên không trung êm ả những mùi thơm ngọt ngào dịu dàng, mãnh liệt làm ta ngây ngất, chúng hoà lẫn hương thơm ấy với mùi hoa hồng, những cánh hoa mọc khắp nơi như cỏ dại dọc theo đường, trong những khu vườn trù phú, trước cửa những căn nhà xập xệ, và cả trong cánh đồng.

CÀ CUỐNG, NHỚ CHÚT HƯƠNG XƯA - Vũ Thị Tuyết Nhung, Song Thao


Nhà văn Vũ Thị Tuyết Nhung

Tôi còn nhớ, mẹ tôi thuở sinh thời, cứ vào cữ tháng Bảy mùa thu trở ra đến tháng Mười chớm đông, lúc Người đi chợ Hàng Bè, thi thoảng lại được mấy bà hàng tôm cá quen gọi vào, thầm thì dúi riêng cho mấy con cà cuống mà các bà thường chỉ để dành cho khách ruột sành ăn.

Ngày ấy chưa có tủ lạnh, nên mẹ tôi đem cà cuống về là cho vào nồi cơm hấp chín. Sau đó, bà sai chị Trưởng tôi băm nhỏ, dặn thêm là nhớ băm nhẹ tay kẻo bắn ra thì phí lắm. Chỉ cà cuống đực có bọng tinh dầu thơm, mới băm ra như vậy, còn cà cuống cái thì để ăn trứng. Rồi bà chọn một chai nước mắm thực ngon, cho cà cuống băm vào ngâm. Thời bao cấp gọi là “nước mắm gái đẻ”, vì chỉ có phụ nữ khi sinh nở mới được cấp cho một phiếu mua hàng có ô nước mắm loại A. 

Mỗi lần nhà ăn bún chả hay bún nem, bà cẩn thận mở nút chai nước mắm cà cuống giấu kỹ góc chạn gỗ, dốc ra một chút, pha lẫn vào bát nước chấm cho dậy mùi thơm. Hay là cũng có khi, gặp mớ rau muống đầu mùa non mướt, bà cũng rộng lòng mở nút chai, chấm vào bát nước mắm chanh ớt một đầu đũa nhỏ. Thế mà thơm lừng khắp mâm cơm. Lúc nhà có cỗ bàn hoặc tết nhất, bà hay để ý xem chai nước mắm cà cuống đầy vơi đến đâu để còn liệu. Nhỡ mà quá tay thì đến lúc không có gì mà đãi khách. Đặc biệt là ba món: Bún thang, bánh cuốn, chả cá, mà thiếu một chút hương cà cuống thì thà đừng đụng đũa cho xong. Nhưng mà mẹ tôi thường dạy, hễ đã cho cà cuống thì chớ dùng hạt tiêu, hoặc là gừng, tỏi. Bởi ăn như thế thì thành ra ăn hổ lốn, không phải là cách ăn của người Hà Nội.

Bao năm nay, từ ngày đi lấy chồng, tôi cũng đã nhiều lần đặt bánh chưng ở các cửa hàng nổi tiếng trong thành phố, hay là tự gói lấy bằng các thứ gạo đỗ, thịt thà thơm ngon nhất, mà sao ăn cứ không được nhưhương vị bánh chưng mẹ gói lúc sinh thời. Thì ra, ngày xưa, mẹ tôi khi ướp nhân bánh trước khi gói, bao giờ cũng nhớ rảy vào một chút tinh dầu cà cuống mà bà để trong một chiếc lọ bé xíu, gọi là lọ penixilin nút cao su, quấn mấy lần nilon như một thứ đồ gia bảo, cất trong ngăn trên của chiếc tủ chùa ở gác hai. Nếu không cho vào nhân bánh, thì khi xóc gạo gói bánh, bà cho nhàn nhạt muối đi một chút. Đến lúc bóc bánh ăn, mới chấm thêm chút nước mắm cà cuống, thì cũng hợp giọng khôn tả. 

Con cà cuống vốn là một giống côn trùng có cánh, trông hơi giống con ve sầu, song bộ cánh của nó có vẻ mỏng mảnh hơn, màu nâu nhạt. Nghe các cụ già truyền lại câu được câu chăng, thì hình như cà cuống vốn sống trong vùng rừng quế ở Thanh Hóa (chắc đó là cách các cụ giải thích về nguồn gốc hương thơm của giống cà cuống). Vào mùa hè nắng nóng, nó bay ra sinh sống ở các vùng đồng ruộng ngập nước. Và tối tối, nó hay tìm những nơi có nhiều luồng sáng tập trung thành vầng lớn để theo ra. Ở Hà Nội, trước đây, các nơi như quảng trường Lăng Hồ Chí Minh, hay thành cầu Long Biên, cầu Chương Dương, cà cuống về dày đặc. 

                   

Nhưng có lẽ do bà con nông dân sử dụng quá nhiều thuốc trừ sâu, nên cà cuống theo đó mà mất dần. Bây giờ, nhiều người Hà Nội nghe nói đến cà cuống thì ngớ người chẳng biết là con gì. Chứ thời trước, ở Hà Nội, trong các gia đình, cà cuống được coi như một thứ gia vị không thể thiếu trong các món ăn đặc biệt. Người ta đem con cà cuống về, tách hai bên cánh, khía một đường ở nơi có thể gọi như gáy của con cà cuống, chỉ con đực thôi, rồi rút ra một bọng dầu nhỏ như hạt gạo vàng. Đấy chính là phần tinh tuý nhất trong con cà cuống.

Thứ Hai, 14 tháng 10, 2024

BỚT XÀM LẠI VỚI NHẠC PHẨM “THƯƠNG VỀ MIỀN TRUNG” - Nguyễn Gia Việt



Tự nhiên truyền thông VN trong nước cùng vài ca sĩ a dua khẳng định "Thương về Miền Trung" bấy lâu nay là "nhầm" tên tác giả.
Họ dựa theo lời con gái của cố nhạc sĩ Châu Kỳ là bà Châu Huyền Khanh nào đó nói đây là bài hát của cha cô sáng tác chứ không phải của Minh Kỳ.
Bậy bạ!
 
Bà Khanh nói Châu Kỳ viết bài “Thương Về Miền Trung” và đưa cho Duy Khánh hát rồi đứng tên vào "thập niên 1940" là phi logic.
Thập niên 1940 là năm 1940 hay 1949 thì Duy Khánh (sanh 1936) mới 4 hoặc 13 tuổi thôi.
 
Năm 1952 Duy Khánh lúc đó 16 tuổi khi đoạt giải ca sĩ ở đài Pháp Á Huế mới tham gia văn nghệ và vô Sài Gòn.
Duy Khánh chỉ nổi lên bên viết nhạc ở những năm sau 1960.
Bài “Thương Về Miền Trung” là bài nhạc ra đời năm 1962 và nghe kỹ là theo cái e nhạc quen thuộc kiểu Duy Khánh, không phải kiểu Châu Kỳ.
 
Thành ra báo chí và các nghệ sĩ bớt cái miệng lại khi nói bài hát đó là của Châu Kỳ.
  
                                                                               Nguyễn Gia Việt
*
Phụ lục:

Ca sĩ Duy Khánh trả lời phỏng vấn Đài Truyền hình Văn Nghệ VN quận Cam 1988, ông cho biết THƯƠNG VỀ MIỀN TRUNG là một trong những nhạc phẩm của ông về Huế...

BÀI HỌC YÊU ĐƯƠNG - Thơ Quách Như Nguyệt, Kim Kiểm diễn ngâm

     
      


BÀI HỌC YÊU ĐƯƠNG
 
Chắc anh đau lòng lắm
Bắt gặp em có người yêu khác
Đời sống này bẽ bàng, quái ác
Phụ tình, tình phụ… lẽ thường thôi!
Bao nhiêu năm nổi trôi
Vẫn không thể quên anh
Dẫu giờ đây anh nằm yên nơi huyệt lạnh
 
Sáng nay trời lành lạnh
Bỗng nhớ lại mối tình ngày trước
Ôi nghiệt ngã, một mối tình sa đọa
Em yêu anh, yêu bất chấp, mù lòa
 
Mỗi lần nghĩ đến anh, làm thơ… em khóc
Vết thẹo đời bị cào xới nên đau
Trái tim em tại ai mà nhuốm máu?
Hai mươi năm, vẫn rên rĩ kêu trời
Chẳng thể nào lành lặn lại anh ơi!
 
Một tình yêu thay đổi cả cuộc đời
Bài học yêu đương mà anh là thầy giáo
Em ngây thơ bước vào tình chao đảo
Yêu khạo khờ, yêu mê dại xiết bao!
 
Sáng hôm nay, chẳng biết tại vì sao?
Em nhớ lại, nhớ đến ngày hôm đó
Ngày mà anh đau khổ, …mất em!
Cố quên anh, em có người yêu khác
 
Anh hiểu cho, em không hề tàn ác
Người nhẫn tâm, đào hoa chính là anh
 
Bài học tình, học mãi chẳng nên thân
Vì thầy giáo kinh nghiệm và tàn nhẫn!
 
                                        Như Nguyệt

MỖI NGÀY MỘT BÀI THƠ CHO CON DỐC XƯA – Trần Vấn Lệ



Anh hứa với em:  Ngày một bài.  Thơ anh, anh làm không mượn ai.  Em, anh không mượn, nhưng anh trả cho xanh biếc hoài hoa lá Bồng Lai...
 
Làm một bài thơ không mấy phút, em ngàn Thế Kỷ anh tương tư!  Một câu đó đủ cho em nhíu cái cặp chân mày đã rất thơ!
 
Em chỉ là hoa mới dậy hương, anh đi làm thơ, anh lạc đường...Anh cảm ơn em Duyên rất ngộ, tình là mây bay là sương vương...
 
Có những buổi chiều xanh khói biếc, Mạ đang vần cơm, Mạ nấu canh?  Em vẫn nhảy dây hay cất cặp... hay nhìn xa xa đường Bà Trưng?
 
Ờ nhỉ hồi xưa em dễ ghét, học cho thị đậu Tú Tài thôi, ngày mai kệ nó em không biết mình trôi về đâu như mây trôi...
 
Không biết tại sao yêu lắm vậy, chân mày em chân mây xa xăm... Anh về, đã hết mười năm lính, em vẫn mùa Xuân với tuổi Xuân!
 
Bài thơ hôm nay, em nhìn đi -  em nguyên vẹn nhé thuở Xuân Thì... Em anh hoài nhỏ cho anh nhớ con dốc Nhà Làng anh mải mê...
 
... có mái tóc dài ai nhánh liễu... có chân mày ai như trăng non... có má hồng ai hoa mới nở... và có đôi môi trời ơi thương!
 
*
Đường Bà Trưng vẫn con đường mộng!
Mộng vỡ!  Ai bày cuộc biển dâu?
Con dốc Nhà Làng, tên biển gắn,
Bờ tường tựa núi sạch như lau...
 
                                                                                       Trần Vấn Lệ

BỘ PHẢN NGÀY XƯA - Thơ Châu Thạch


  

 
BỘ PHẢN NGÀY XƯA
     
Tôi có hai người bạn
Quê làng Trường Sanh
Nhà gần cầu Bến đá
Họ anh em một nhà
 
Xứ Quảng Trị mùa hè oi ã
Tôi về quê sống với bạn, vui chơi
Ngày tắm sông hưởng nước mát của trời
Đêm ngồi ngắm vầng trăng bất hủ
 
Bộ phản gỗ ba đứa tôi nằm ngủ
Chiếc gối cao dễ nằm mộng thấy em
Những năm thi cứ vào khoảng hết đêm
Ông cụ rút gối kêu chung tôi dậy học.
 
 
Đời thanh thản những ngày xanh mái tóc
Bộ phản kia như người bạn thứ tư
Ba chúng tôi với phản cứ từ từ
Nằm tâm sự chuyện tình qua năm tháng
 
Rồi một buổi non sông thành ly loạn
Ba chúng tôi xếp sách vở lên đường
Khói lửa về đốt cháy cả quê hương
Tôi không nhớ không thương gì bộ phản
 
Sáu mươi năm đã qua thời khủng hoảng
Bạn tôi về thăm lại từ đường
Báo tin rằng bộ phản thuở thân thương
Còn nguyên vẹn chờ chúng tôi trở lại
 
Tôi cảm thấy lòng đã qua trường trại
Bỗng niềm vui trẻ lại buổi thơ ngây
Ở trong tôi nhớ lại hết những ngày
Phản như bạn, đắm say từ độ ấy.
 
Phản còn giữ hương xưa nhiều biết mấy
Hương tình yêu, tình bạn tình quê
Hương ba thằng ngổ ngáo với đam mê
Còn phảng phất ở trong mùi hương gỗ.
 
Tôi mơ ước được quay về cổ độ
Có một lần ba đứa ngủ cùng nhau
Trên phản xưa nằm kể chuyện vàng thau
Phản ghi nhớ vào trong lòng gỗ quý!
                         
                                      Châu Thạch

THƠ 1-2-3 CỦA TRẦN MAI NGÂN


  

 
THƠ 1-2-3
 
Tờ lịch đắn đo buông ngày hôm qua rơi xuống
Cẩn trọng ngày hôm nay
Nhìn rõ trái tim người qua nụ cười thật ngọt
Chọn ngày mai tử tế
Ân cần và bao dung
Để khi thành ngày hôm qua - không ngại ngùng!
 
                                                    Trần Mai Ngân

MẮC NỢ - Thơ Lê Kim Thượng


  


Mắc Nợ 1 – 2
 
1.
Người đi mắc nợ… “Ngày Xưa”
Người đi mắc nợ nắng mưa… “Quê Nghèo”
Sông buồn tím ngắt cánh bèo
Lời ru xa vắng, gió reo, sóng tràn
Ngân Hà – Chức Nữ - Ngưu Lang
Quạt mo đổi chác, nghênh ngang Thằng Bờm
Được mùa lúa chín vàng ươm
Được mùa, canh cá, bát cơm tràn đầy
Cánh cò bay lạc tầng mây
Đàn trâu nhai cỏ, nằm đầy gốc me
Lành yên những buổi trưa hè
Sông dài in bóng lũy tre gió lồng
Hai sương, một nắng trên đồng
Dù cho mưa nắng vẫn không quản gì
Đất phèn theo bước Cha đi
Chân bùn, tay lấm không gì thở than
Ruộng đồng đâu quản gian nan
Đông về giá rét, chang chang nắng Hè
Tình quê ấm mái tranh che
Nép mình dưới bóng lũy tre xanh ngần…
 
2.
Trăm năm Con Tạo xoay vần
Một đời hạnh phúc cũng ngần ấy thôi
Thơ rơi chén đắng rượu mời
Gió trăng còn đó, cuộc chơi vội tàn
Đọt tre đọng bóng trăng ngàn
Rạ rơm, sương khói quyện tràn âu lo…
Bến sông vọng tiếng gọi đò
Để cho câu hát câu hò mênh mông
Còn tôi đứng với dòng sông
Nhìn câu thơ cũ lạc dòng lênh đênh
Chảy qua bao thác, bao ghềnh
Chỉ là trôi nổi bồng bềnh buông xuôi
Bãi sông của tuổi lên mười
Cho tôi ngụp lặn, nụ cười thân yêu…
Bóng quê… Bóng Mẹ xế chiều
Nhớ quê… Nhớ Mẹ, nhớ nhiều Mẹ ơi!
Con còn nỗi nhớ mù khơi
Mái tranh nghiêng cả một thời trở trăn
Chỉ là hoài niệm băn khoăn
Mắt xưa ghim vết dấu hằn chân chim…
       
                 Nha Trang, tháng 10. 2024
                         Lê Kim Thượng

MÙI CƠM SÔI, Ô CỬA THÁNG MƯỜI – Thơ Tịnh Bình


   


MÙI CƠM SÔI
 
Bâng khuâng miền ký ức
Thương hình bóng quê nhà
Ao quê bông súng nở
Tím hoàng hôn phôi pha
 
Cánh cò bay dẫn lối
Man mác hình quê xa
Áng mây chiều cô lữ
Chợt dừng chân bôn ba
 
Lối cũ về xóm nhỏ
Vang tiếng trẻ nô đùa
Mẹ ngồi tựa hiên vắng
Đăm chiêu nét trầm tư
 
Lặng nghe chiều nắng tắt
Cánh đồng gió ngân nga
Đường đê mòn cỏ dại
Lúa vàng bông thật thà
 
Mùi cơm sôi chái bếp
Lửa hồng bén rạ rơm
Nghe lòng như ấm lại
Khói lam chiều nồng thơm...
 
 
Ô CỬA THÁNG MƯỜI
 
Mở ra khung cửa sớm
Gió ngàn lời trong veo
Ơ giọt sương giấc muộn
Có hay nắng về theo ?
 
Thầm thì lời cỏ rối
Tự tình chi tháng Mười
Thu cuối trời lơ đãng
Mùa đông say giấc vùi
 
Nhặt tờ thu lá mỏng
Trắng trời mây trắng bay
Bình yên trong tĩnh lặng
Ô cửa khép u hoài
 
Chạm tay vào nắng vỡ
Ban mai đã vùi chôn
Tháng Mười câu chuyện kể
Bắt đầu là hoàng hôn...
 
                    Tịnh Bình
                   (Tây Ninh)

SẮC MÀU – Thơ Lê Phước Sinh


  

 
SẮC MÀU
 
Cho mùa Thu rụng lá
để Đông sang, trơ cành.
Những nhánh cây giá lạnh
giữa chuông lễ, giòn tan...
 
                 Lê Phước Sinh

Thứ Sáu, 11 tháng 10, 2024

RAU SÂM ĐẤT CÓ CÔNG DỤNG GÌ? – Thanh Thanh



Sâm đất là cây gì?
 
Bài viết trên website Bệnh viện Đa khoa Medlatec có sự tham vấn y khoa của BSCKI. Dương Ngọc Vân cho biết, sâm đất thuộc họ rau sam và có tên khoa học là Talinum fruticosum.
 
Trong dân gian, sâm đất còn nhiều tên gọi khác như sâm mồng tơi, sâm thảo, đông dương sâm. Loại cây này chứa pectin và nhiều hoạt chất khác, có tính bình, vị ngọt.
 
- Sâm đất có một số đặc điểm như sau:
+ Thân cây thẳng đứng.
+ Lá cây có hình trái xoan, cuống rất ngắn, phiến lá dày, 2 mặt lá bóng, phần mép lá hơi lượn sóng. Lá thường mọc so le.
+ Hoa sâm đất nhỏ và màu hồng tím, thường ra hoa theo từng chùm với chiều dài chùm hoa khoảng 30 cm. Thời điểm cây cho hoa là vào tháng 6 đến tháng 7.
+ Thời gian thu hoạch quả sâm đất là vào tháng 9 đến tháng 10. Loại quả này nhỏ, thường có màu đỏ nâu hay màu xám tro. Hạt sâm đất nhỏ, dẹt và có màu đen nhánh.
+ Loại cây này có nguồn gốc từ Trung Mỹ. Ở nước ta, cây sâm đất phân bố tại nhiều vùng miền, nhưng tập trung chủ yếu ở vùng trung du miền núi và nhiều người dân ở những vùng này đã dùng sâm đất như một loại rau ăn hàng ngày. Củ cây sâm đất còn được dùng để làm thuốc bổ. Bên cạnh đó, hoa sâm đất rất đẹp nên cây sâm đất được dùng như một loại cây cảnh.
+ Sâm đất ưa đất ẩm nhưng có thể sống ở những vị trí nhiều nắng. Đây là loại cây dễ trồng. Có thể thu hoạch sâm đất quanh năm như một loại rau ăn hoặc phơi khô sâm đất, bảo quản và dùng dần như một vị thuốc bổ, thuốc hỗ trợ điều trị bệnh.

Thứ Tư, 9 tháng 10, 2024

VOI BIỂN LÀ “HẢI TƯỢNG” HAY “HẢI MÔ ? - La Thụy sưu tầm và biên tập

 



          VOI BIỂN LÀ “HẢI TƯỢNG” HAY “HẢI MÔ ?

Câu hỏi có vẻ ngớ ngẩn, khi mà ai cũng biết từ Hán Việt “tượng” là voi, tất nhiên VOI BIỂN phải là HẢI TƯỢNG. Nhưng, không phải tự dưng tôi đặt ra câu hỏi “ngớ ngẩn” trên. Việc gì cũng có nguyên do cả (như “nguyên lý túc lý” trong triết học).

Năm 1967, tôi học lớp nhất (tương đương với lớp năm hiện nay). Khi học môn Khoa Học Thường Thức, bài “động vật Bắc cực” thấy giới thiệu về gấu trắng, hải cẩu và hải mã. Nhìn hình vẽ thì con hải mã to lớn và đặc biệt có 2 cái ngà nhọn hoắt chỉa ra từ miệng. Sách Khoa Học Thường Thức lớp nhất hồi đó cho biết HẢI MÃ nặng trung bình 1,5 tấn. Tôi tự hỏi con vật to lớn, có ngà trông giống con voi, chẳng giống ngựa tí nào, tại sao không có tên là HẢI TƯỢNG mà lại mang tên HẢI MÃ. Bẵng đi một thời gian dài, đọc sách báo, tôi thấy có đề cập đến HẢI TƯỢNG. Tôi truy cập tìm hiểu “hải tượng” là con vật như thế nào, quả nhiên như suy nghĩ của tôi thời tiểu học: HẢI MÃ còn được gọi là hải tượng.

Thứ Hai, 7 tháng 10, 2024

VỀ BÀI THƠ “TIẾNG HẠT NẨY MẦM” (SÁCH TIẾNG VIỆT LỚP 5) - Vương Trung Hiếu, Phùng Hiệu



Vài ngày nay cư dân mạng xôn xao trước bài thơ “Tiếng hạt nảy mầm” của Tô Hà (sách Tiếng Việt lớp 5). Nhiều người khen, song cũng lắm kẻ chê bài thơ này, đặc biệt là cho rằng tác giả đã chế ra những từ khó hiểu, chẳng hạn như từ “ánh ỏi” trong câu thơ “Hót nắng vàng ánh ỏi”.
 
Xin thưa, có những từ ngày nay hiếm khi hoặc không còn sử dụng, song chúng đã thật sự tồn tại trong văn bản tiếng Việt (chữ Nôm và chữ Quốc Ngữ). Do đó cần tìm hiểu kỹ, ít nhất là tra từ điển, trước khi phê phán, chê bai, thậm chí là chửi người khác.
 
Trên thực tế, từ “ánh ỏi” xuất hiện trễ nhất cũng từ thế kỷ 17, được viết bằng chữ Nôm là 朠喂 (ánh ỏi). “Ánh ỏi” có nghĩa là “tiếng vút cao, du dương”, ví dụ:  “Tao nhân ánh ỏi (暎喂) hứng thơ ngâm” (“Hồng Đức Quốc âm thi tập” của Hội Tao Đàn do Lê Thánh Tông chủ trì) hoặc “Thông đưa gió tiếng cầm tranh ánh ỏi” (暎喂) - “Lê triều ngự chế quốc âm thi” của An Đô Vương Trịnh Cương.
Ngoài ra “ánh ỏi” còn được viết bằng chữ Nôm khác là 朠喂, ví dụ: “Ca xoang ánh ỏi (朠喂 ) khéo chiều người”  (“Khâm định Thăng bình bách vịnh” của Trịnh Tùng).
 
(Những ví dụ trên trích từ “Tự điền chữ Nôm dẫn giải” của Nguyễn Quang Hồng). 

                                                                             Vương Trung Hiếu