Ngoài DẠNG THƠ BÌNH THANH đã đăng :
a/ http://www.art2all.net/tho/lathuy/dangthobinhthanh.htm
b/ https://phudoanlagi.blogspot.com/2011/09/dang-tho-binh-thanh_21.html
b/ https://phudoanlagi.blogspot.com/2011/09/dang-tho-binh-thanh_21.html
Sau đây, mời các bạn đọc một số dạng thơ đặc biệt khác. Gồm 3 phần và 4 dạng thơ khác:
La Thụy
CÁC DẠNG THƠ VIỆT NAM ĐẶC BIỆT
PHẦN II:
THƠ ĐỌC NHIỀU CÁCH, THƠ VIỆT
ĐỆM NGOẠI NGỮ
I - THƠ ĐỌC NHIỀU CÁCH
1. Đọc theo 2 cách:
Đọc xuôi là bài thơ thuần Việt
ĐỀ TRANH MỸ NỮ
(Thuận nghịch độc)
Hương tiên gác vắng nhặt ca oanh
Bận mối sầu khêu gượng khúc tranh
Sương đỉnh trướng gieo từng dục mộng,
Nguyệt bên rèm tỏ dễ si tình.
Vàng thưa thớt cúc tan hơi dạm,
Lục phất phơ sen đọ rạng thanh
Trang điểm ngại chăm dừng trục gấm
Phòng tiêu lạnh lẽo khoá xuân xanh
Đọc ngược là bài thơ Hán Việt
Thanh xuân toả liễu lãnh tiêu phòng
Cẩm trục đình châm ngại điểm trang.
Thanh rạng độ liên phi phất lục,
Đạm hi tan cúc thát sơ hoàng.
Tình si dị tố liêm biên nguyệt,
Mộng xúc tằng liêu trướng đỉnh sương.
Tranh khúc cưỡng khiêu sầu mỗi bận,
Oanh ca nhật vĩnh các tiên hương
PHẠM THÁI
CỬA SỔ ĐÊM KHUYA
Hoa cười nguyệt rọi cửa lồng gương
Lạ cảnh thêm buồn nợ vấn vương
Tha thiết liễu in hồ gợn bóng
Hững hờ mai thoáng gió đưa hương
Xa người nhớ cảnh tình lai láng
Vắng bạn ngâm thơ rượu bẽ bàng
Qua lại yến ngàn dâu ủ lá
Hòa đàn sẵn có dế bên tường
HÀN MẶC TỬ
Cách đọc 1: Đọc xuôi
Cách đọc 2 : Đọc ngược
Cách đọc 3 : Bỏ 2 chữ đầu ở mỗi câu đọc xuôi
Cách đọc 4: Bỏ 2 chữ sau ở mỗi câu đọc xuôi
Cách đọc 5 : Bỏ 2 chữ đầu ở mỗi câu đọc ngược
Cách đọc 6 : Bỏ 2 chữ sau ở mỗi câu đọc ngược
3. Đọc theo 8 cách:
CẢNH XUÂN
Ta mến cảnh xuân ánh sáng ngời
Thú vui thơ rượu chén đầy vơi
Hoa cài dậu trúc cành xanh biếc
Lá quyện hương xuân sắc thắm tươi
Qua lại khách chờ sông lặng sóng
Ngược xuôi thuyền đợi bến đông người
Xa ngân tiếng hát , đàn trầm bổng
Tha thướt bóng ai mắt mỉm cười
KHUYẾT DANH
Cách đọc 1: Đọc xuôi
Cách đọc 2: Đọc ngược
Cách đọc 3: Bỏ 2 chữ đầu ở mỗi câu, đọc xuôi
Cách đọc 4: Bỏ 2 chữ cuối ở mỗi câu, đọc ngược
Cách đọc 5: Bỏ 3 chữ đầu ở mỗi câu, đọc xuôi
Cách đọc 6: Bỏ 3 chữ cuối ở mỗi câu, đọc ngược
Cách đọc 7: Bỏ 4 chữ đầu ở mỗi câu, đọc xuôi
Cách đọc 8: Bỏ 4 chữ cuối ở mỗi câu, đọc ngược
4. Đọc theo 10 cách :
Đó là bài thơ LỆ CÁT ĐẰNG của Nhật Hồng Nguyễn Thanh Vân
1.- Đọc xuôi:
Trăng buồn khóc liễu rũ tàn thu,
Giá lạnh trời sương gió mịt mù.
Cằn cỗi sắc hương mùi nhạt tẻ,
Võ vàng son phấn nét mờ lu.
Băng thanh lỡ phận vùi hoa gấm,
Ngọc khiết thương đời thẹn tóc tơ.
Đằng cát lệ rơi tình rẽ lối.
Giăng sầu chuốc hận tủi hờn thơ
2.- Đọc ngược:
Thơ hờn tủi hận chuốc sầu giăng,
Lối rẽ tình rơi lệ cát đằng.
Tơ tóc thẹn đời thương khiết ngọc,
Gấm hoa vùi phận lỡ thanh băng.
Lu mờ nét phấn son vàng võ,
Tẻ nhạt mùi hương sắc cỗi cằn.
Mù mịt gió sương trời lạnh giá,
Thu tàn rũ liễu khóc buồn trăng.
3.- Bỏ 2 chữ đầu mỗi câu bài xuôi:
Khóc liễu rũ tàn thu,
Trời sương gió mịt mù.
Sắc hương mùi nhạt tẻ,
Son phấn nét mờ lu.
Lỡ phận vùi hoa gấm,
Thương đời thẹn tóc tơ.
Lệ rơi tình rẽ lối,
Chuốc hận tủi hờn thơ.
4.- Bỏ 2 chữ đầu mỗi câu bài ngược:
Tủi hận chuốc sầu giăng,
Tình rơi lệ cát đằng.
Thẹn đời thương khiết ngọc,
Vùi phận lỡ thanh băng.
Nét phấn son vàng võ,
Mùi hương sắc cỗi cằn.
Gió sương trời lạnh giá,
Rũ liễu khóc buồn trăng.
5.- Bỏ 3 chữ đầu mỗi câu bài xuôi:
Liễu rũ tàn thu,
Sương gió mịt mù.
Hương mùi nhạt tẻ,
Phấn nét mờ lu.
Phận vùi hoa gấm,
Đời thẹn tóc tơ.
Rơi tình rẽ lối,
Hận tủi hờn thơ.
6.- Bỏ 3 chữ đầu mỗi câu bài ngược:
Hận chuốc sầu giăng,
Rơi lệ cát đằng.
Đời thương khiết ngọc,
Phận lỡ thanh băng.
Phấn son vàng võ,
Hương sắc cỗi cằn.
Sương trời lạnh giá,
Liễu khóc buồn trăng.
7.- Bỏ 3 chữ cuối mỗi câu bài xuôi:
Trăng buồn khóc liễu,
Giá lạnh trời sương.
Cằn cỗi sắc hương,
Võ vàng son phấn.
Băng thanh lỡ phận,
Ngọc khiết thương đời.
Đằng cát lệ rơi,
Giăng sầu chuốc hận.
8.- Bỏ 3 chữ cuối mỗi câu bài ngược:
Thơ hờn tủi hận,
Lối rẽ tình rơi.
Tơ tóc thẹn đời,
Gấm hoa vùi phận.
Lu mờ nét phấn,
Tẻ nhạt mùi hương.
Mù mịt gió sương,
Thu tàn rũ liễu.
9.- Đọc như thơ tự do bài xuôi:
Trăng buồn…
Khóc liễu…
Rũ tàn thu…
Giá lạnh…
Trời sương…
Gió mịt mù…
Cằn cỗi…
Sắc hương…
Mùi nhạt tẻ…
Võ vàng…
Son phấn…
Nét mờ lu…
Băng thanh…
Lỡ phận…
Vùi hoa gấm…
Ngọc khiết…
Thương đời…
Thẹn tóc tơ…
Đằng cát…
Lệ rơi…
Tình rẽ lối…
Giăng sầu…
Chuốc hận…
Tủi hờn thơ…
10.- Đọc như thơ tự do bài ngược:
Thơ hờn…
Tủi hận..
Chuốc sầu giăng…
Lối rẽ…
Tình rơi…
Lệ cát đằng…
Tơ tóc…
Thẹn đời…
Thương khiết ngọc…
Gấm hoa…
Vùi phận…
Lỡ thanh băng…
Lu mờ…
Nét phấn…
Son vàng võ…
Tẻ nhạt…
Mùi hương…
Sắc cỗi cằn…
Mù mịt..
Gió sương…
Trời lạnh giá…
Thu tàn…
Rũ liễu…
Khóc buồn trăng…
II. THƠ VIỆT ĐỆM NGOẠI NGỮ
Người VN có tài "thi hoá" bài học ngoại ngữ. Thời xưa đã có người “nôm hoá” chữ Hán để học trò học dễ thuộc, một dạng như tam tự kinh rất đặc thù VN, chẳng hạn:
"Thiên: trời, địa: đất
Cử: cất, tồn: còn
Tử : con, tôn: cháu
Lục: sáu, tam: ba
Gia: nhà, quốc: nước
Tiền: trước, hậu: sau
Ngưu: trâu, mã: ngựa...”
Tới thời học Pháp ngữ, cũng được Việt hoá để dễ nhớ, dễ thuộc, chẳng hạn :
“Bớp: bò, sư tử: li-ông
Sơ - van: con ngựa, me - dông: cái nhà
Ma - pham chính thật bà nhà
Mông - xơ đích thị chỉ là thưa ông”
Anh Nguyễn Văn Quang có phổ biến cách học Pháp văn (trích trong cuốn “Trường NH chân dung và Kỷ niệm I ” do Võ Thị Quỳnh chủ biên ) nghe thật ngộ nghĩnh :
“ma soeur: chị tôi, mou: mềm, long: dài”
Và đây bài học Anh ngữ bằng thơ rất dễ thuộc :
Long: dài, short: ngắn, tall: cao
Here: đây, there: đó, which: nào, where: đâu
Sentence có nghĩa là câu
Lesson: bài học, rainbow: cầu vồng
Husband là đức ông chồng
Daddy: cha bố, please don’t: xin đừng
Darling tiếng gọi em cưng
Merry: vui thích, cái sừng là horn
“Rách” rồi xài đỡ chữ “torn”
“To sing” là “hát”, a song: một bài
Nói sai sự thật: to lie
Go: đi, come: đến, “một vài” là “some”
…
Có giai thoại được truyền tụng rằng:
Vua Tự Đức – vị vua giỏi văn thơ triều Nguyễn, một hôm khi lâm triều, trước bách quan ngài hí hửng cho biết tối qua được thần mộng báo hai câu thơ hay và lạ, thơ Hán nhưng có chen lẫn từ Nôm:
“Viên trung oanh truyện khề khà ngữ
Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai”
Cao Bá Quát tâu rằng:
“Hai câu thơ trên có trong một bài thơ do thần làm hồi còn nhỏ”.
Ông liền đọc một mạch bài thơ:
“Bảo mã tây phương huếch hoác lai,
Huênh hoang nhân tự thác đề hồi.
Viên trung oanh chuyện khề khà ngữ,
Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai.
Xuân nhật bất văn sương lộp bộp,
Thu thiên chỉ kiến vũ bài nhài.
Khù khờ thi tứ đa nhân thức,
Khệnh khạng tương lai vấn tú tài”.
CAO BÁ QUÁT
Tú Xương nhà thơ «xuất khẩu thành thi» chỉ với hai câu thơ thôi mà nói được ba thứ tiếng Hán,Việt, Pháp :
«Cống hỉ», «mẹc – xì», đây thuộc cả
Chẳng sang Tàu, tớ cũng sang Tây
( TÚ XƯƠNG)
Ghi chú :
Cống hỉ: cung hỉ = chúc mừng
Mẹc-xì: merci = cám ơn
*MỘT SỐ BÀI THƠ VIỆT CHEN NGOẠI NGỮ
GÁI QUÊ
Trèo lên mười bậc đít mông - tê (monter = trèo)
Tiên cùng không rượu, chẳng cà - phê (fée = tiên)
Chín lầu cửa khoá, lo nơm nớp (neuf = chín)
Nằm tính thâu đêm chuyện cút – sê (coucher = nằm)
Nguyễn Thanh Nhung
PHÚT CHIA LY
Nói mãi nàng vẫn đi (dit = nói)
Sét đánh rền một phút (foudre = sét)
Giường ngập lệ chia ly (lit = giường)
Tràn sâu vào nửa mét (mettre = tràn ngập)
Kiều Phong
GIŨ LỤA
Tay nâng dải lụa mong manh (main = tay)
Gái quê mà lại như hình cung phi (fille = gái)
Đời còn bao nỗi vân vi (vie = đời)
Làm sao trả nổi những gì ta vay (travail = làm)
Võ Viết Quân
HOA TƯƠNG TƯ
Yêu em , cũng biết được em mê (aimmer = yêu)
Câm nín chi cho dạ tái tê (taire = câm)
Hồ mộng đôi phen tha thiết lắc (lac = hồ)
Tiên bồng một cõi thảnh thơi phê (fée = tiên)
Đường mây chưa phỉ can chi rút ( route = đường)
Mũi sóng cao đành quá chấp nê (nez = mũi)
Đò đến cầu lam mong được bắc (bac =đò)
Tương tư hoài một đoá « păng- sê» (pensée = tương tư)
Thân Trọng Thuỳ Như
(Quận 3 – TP HCM)
CỨ MƠ
Tôi thức sao mà tôi cứ mơ (me = tôi)
Lửa tình âm ỉ cháy lơ phơ (feu = lửa)
Bốn phương ngóng bóng trời mù cát (quatre = bốn)
Hai ngựa đưa tin vô cùng đơ (deux =hai)
Đầu bạc lại xanh màu lễ tết (tête = đầu)
Tim hồng thêm thắm nhịp thời cơ (coeur =tim)
Cả toà thiên phú mà nuy tú (tout = tất cả)
Cầu ước chuyện kia chẳng vẩn vơ (voeux = cầu ước)
Võ Viết Doãn
Bài thơ nói lên tâm sự một phụ nữ VN lấy chồng là một viên công sứ Pháp mãn nhiệm trở về nước
J’ écris (tôi viết) tình thư une lettre (một lá)
Envoie (gửi) thăm hỏi me-sừ Le Résident (ông công sứ)
Toute seul (một mình) gạt nước mắt than rằng :
Cochon (con lợn) long đong lỡ làng,
Từ khi thiếp bén duyên chàng
La noce (đám cưới) chưa đặng một bàn tiệc vui
Éloigner (xa cách) ai khéo dục xui
Couteau (con dao) sao nỡ cắt mùi nguyệt hoa
La cour (sân nhà) mousse (cỏ) mọc lune (trăng) tà
La chambre (buồng ngủ) biết lấy ai làm ami (bạn)
Lạnh lùng chiếc chemise (áo) lấp ló,
Ta figure (khuôn mặt anh) thấy đó mà mong
Bây giờ tình biết comment (làm sao) bây giờ
Pourqoi (tại sao) nỡ để silent (im lặng) cho đành
Ông Đinh Hương Sơn sưu tầm và đăng trên tạp chí “Xưa và Nay” số 257 (Tháng 4/1946)
ĐÒI LẠI NHÀ TỰ BỊ NGƯỜI Ở NHỜ CHIẾM
Nhà moa bị cướp (moi = tôi)
Nhà moa cho ở, luý tăng-pi (lui =anh ta ; tant pis = cóc cần)
Cướp của mà không tiếng mẹc-xì (merci = cám ơn)
Mặc kệ moa kêu vang pạc- tú (partout = khắp nơi)
Ung dung luý vẫn sống i-xi (ici = ở đây)
Ái tình nhân nghĩa nơ vô riêng (ne vaut rien = không có giá trị gì)
Móc ngoặc ô dù xà súp phi (cà suffi = đã đủ rồi)
Nên đành chịu lép tút la vi (tout la vie = suốt cả đời)
Chỉ tội lơ duýt quên tat-chơ
(le judge =quan toà; tâche = trách nhiệm)
Giáo sư Dương Thiệu Tống
(Do mình dùng chương trình bàn phím tiếng Việt Unikey, một số mẫu tự tiếng Pháp không có trong Unikey nên gõ không được chuẩn lắm)
MỘT THẾ - KỶ MẤY VẦN THƠ
*Tiễn chân quân viễn chinh Pháp
*Kỷ niệm 100 năm Việt Nam đau khổ
Ánh hồng chói rạng chân trời mới
Ngọn lửa đao binh tắt lịm rồi.
Có kẻ chiều nay về cố quán,
Âm thầm, không biết hận hay vui ?!
Chiều nay,
Kèn kêu tức tưởi nghẹn lời
Tiếng ngân xúc động dạ người viễn chinh !
Chiều nay trên nghĩa địa
Có một đoàn tinh binh
Cờ rủ và súng xếp
Cúi đầu và lặng thinh.
Nghẹn ngào giã biệt người thiên cổ
Đất lạ trời xa sớm bỏ mình.
Thịt nát, xương tan, hồn thảm bại
Nghìn năm ôm hận cõi u minh !
Những ai làm lính viễn chinh,
Chiều nay bước xuống tàu binh trở về.
Tàu xúp - lê !
Tàu xúp - lê !
Cửa Hàm Tử lao xao sóng gợn
Bến Bạch Đằng lởn vởn hồn quê …
Bước đi những bước nặng nề
Ngày đi chẳng biết, ngày về chẳng hay !
Một ngàn chín trăm năm sáu (1956)
Một ngàn tám trăm sáu hai (1862)
Giật mình bấm đốt ngón tay,
Trăm năm một giấc mộng dài hãi kinh !
Ngày anh đến đây :
Thành Đà Nẵng tan hoang vì đại bác
Xác anh hùng Đinh Lý hóa tro bay !
Giữ Gia Định, Duy Ninh liều mạng thác
Ôm quốc kỳ tuẩn tiết giữa trùng vây !
Phan Thanh Giản nuốt hờn pha thuốc độc
Bởi xâm lăng bắt nhượng nước non nầy !
Và Thăng Long máu hòa ba lớp đất
Thất KinhThành, Hoàng Diệu ngã trên thây ! …
Hỡi ơi ! Xương máu dẫy đầy,
Chân anh dẫm tới, đất nầy tóc tang !
Tay gươm, tay súng
Bước nghinh, bước ngang
Anh bắn !
Anh giết !
Anh đâm !
Anh dầm !
Anh đày Bà Rá , Côn Lôn,
Anh đọa Sơn La , Lao Bảo …
Anh đoạt hết cơm hết áo,
Anh giựt hết bạc hết vàng …
Chặt đầu ông lão treo hàng thịt,
Mổ mật thanh niên giữa chiến tràng.
Cối quết trẻ thơ văng nát óc,
Phanh thây sản phụ đốt thành than ! …
Con lìa mẹ,
Vợ xa chồng,
Cây rụi lá,
Nhà trống không …
Người chìm đáy biển
Người tấp ven sông
Người ngã trên núi
Người gục trong rừng …
Đây Cà Mau, đó Nam Quan,
Hung hăng anh bóp trong bàn tay tanh !
Nước tôi đang độ yên vui sống
Mít ngát hương mùa, bưởi ngọt thanh
Lúa nặng tình quê, khoai luyến đất,
Không thương nhau, lại giết nhau đành !
Cắn răng tôi chịu cực hình
Vuốt râu anh hưởng công linh đồng bào.
Anh phân ly Nam , Bắc
Anh chia rẻ nghèo, giàu.
Nước non anh quậy tan tành hết
Cho oán hờn nhau, giết lẫn nhau ,
Người chết thì dại,
Người sống thì ngu.
Dân ngu vì bị làm ngu
Đặng dân làm ngựa, làm trâu suốt đời !
Nhưng, thôi !
Bao năm khói lửa
Ta hiểu nhau rồi !
Cái gì bạo ngược là phi nghĩa
Là trái lòng dân, nghịch ý trời.
Sắt thép tinh ròng, binh tướng dữ
Không sao thắng được trái tim người !
Anh về là phải, anh ơi !
Về bây giờ, để còn đời nhớ anh.
Những cái gì tôi hận
Những cái gì tôi khinh,
Bây giờ anh xuống tàu binh
Trăm năm chuyện cũ, thôi mình bỏ qua !
Bao giờ tôi chẳng nhớ
Nước Pháp rộng bao la,
Thành Paris rực-rỡ
Ánh văn minh chói lòa …
“Cốt Đa-duya” (Côte d’Azur ) người thanh và cảnh lịch
Bờ “Mạc-xây”(Marseille) xinh đẹp nhất sơn hà.
Khí sông núi đúc nên trang tuấn kiệt
Bực anh hùng cứu quốc “RỐP” (Job), “RĂNG-ĐA” (Jean D'arc)
Tôi nhớ lắm, một ngày năm “tám chín” (1789)
Anh vùng lên phá ngục “BÁT-TI ” (Bastille) nhà,
Anh giải-phóng cho giống nòi được sống
Được vinh quang trong “Đệ Tứ Cộng Hòa” !
Anh vui, anh sướng,
Anh hát, anh ca …
Tôi là người ở phương xa
Ngày anh sáng lạn (xán lạn) cũng hòa niềm vui !
Anh về nước Pháp xa xôi
Chắc anh bao giờ quên được,
Những là đường đi nước bước
Những là tên tuổi Việt Nam :
Suối Yên Thế tuôn tràn hậm hực,
Đất Thái Nguyên căm tức nổi vồng,
Tháp Mười hận nước mênh mông
U Minh mấy trận bão lòng chưa nguôi ! …
Việt Nam, nước của tôi :
Sông sâu, đồng rộng,
Trái tốt, hoa tươi …
Hà Nội kinh thành trang chiến sử
Sài Côn đô thị rạng anh tài.
Phú Xuân bừng chói gương ưu quốc
Nghĩa nặng tình thâm vạn thưở nay !
Việt Nam , nước của tôi :
Già như trẻ
Gái như trai
Chết thì chịu chết
Không cúi lòn ai !
Tham lam ai muốn vô xâm chiếm,
Thì “giặc vào đây, chết ở đây” !
Việt Nam, nước của tôi :
Ruộng dâu hóa bể
Lòng chẳng đổi thay.
Dầu ai cắt đất chia hai
Cho trong đau khổ, cho ngoài thở than.
Dầu ai banh ruột xé gan,
Cho tim xa óc, cho nàng lìa tôi.
Đinh ninh anh nhớ một lời :
“Ngày mai thống nhất liền đôi bến bờ” !
Đã đến giờ
Chia tay cách biệt
Anh lìa nước Việt
Vừa tủi vừa mừng.
Bên nhà vợ đợi con trông,
Vắng anh, tình mặn nghĩa nồng cũng phai.
Tàu xúp - lê một !
Tàu xúp - lê hai !
Siết tay anh nhé, anh về nước,
Biển lặng trời êm nhớ lấy ngày.
Và chẳng bao giờ quên nhắc nhở
Cho ai đừng đến đọa đày ai !
Tự vấn lương tâm rồi tự đáp :
- Đánh cho ai, và chết cho ai ???
Bóng ngả trời tây
Gió lồng biển cả ,
Phút giây từ giã
Trang sử trăm năm !
Tàu anh rời bến Việt Nam ,
Hãy xuôi một ngả, một đường mà đi.
Xin tàu đừng ghé Bắc Phi,
Sóng to gió lớn, chắc gì đến nơi .
Đừng gây oan trái, tàu ơi,
Hãy xuôi về Pháp cho người hát ca !
Tàu xúp - lê hai !!
Tàu xúp - lê ba !!!
Anh về mạnh giỏi
- Ô - rờ - voa ! (Aurevoir)
TRUY PHONG
(1956)
PHẦN III : THƠ NÓI LÁI
Những nhà thơ chuyên viết dạng thơ nói lái là nữ sĩ Hồ Xuân Hương, nhà thơ Bùi Giáng, nhà thơ Thảo Am Nguyễn Khoa Vi, nhà thơ Võ Quê.
Đọc thơ HỒ XUÂN HƯƠNG, chúng ta thấy bà nói lái thật dí dỏm:
Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc,
Trái gió cho nên phải lộn lèo.
(Kiếp Tu Hành)
Quán sứ sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm Sư cụ đáo nơi neo.
Chày kình, tiểu để suông không đấm,
Tràng hạt, vải lần đếm lại đeo.
(Chùa Quán Sứ)
Đang cơn nắng cực chửa mưa hè,
Rủ chị em ra tát nước khe.
(Tát nước)
Thú vui quên cả niềm lo cũ
Kìa cái diều ai nó lộn lèo.
(Quán Khách)
Nhà thơ trào phúng TÚ MỠ (Hồ Trọng Hiếu, 1900-1976) có bài "Lỡm cô Ngọc Hồ" với hai câu nói lái phong cách Hồ Xuân Hương:
HỒ tù ngán nỗi con rồng lộn
NGỌC vết thương tình kẻ cố đeo
(Nhắn khách Băng Tâm ai đó tá
Mỹ danh hai chữ, nghĩ buồn teo.)
Nhà thơ Thảo Am Nguyễn Khoa Vi (1881 - 1968) là nhà thơ Huế giàu tài năng ông xuất thân nho học, thông thạo chữ Hán, am hiểu tiếng Pháp và chữ quốc ngữ. Ông đã làm những bài thơ nói lái như sau:
Cầu đạo nên chi phải cạo đầu
Dầu lai dưa muối cũng dài lâu
Na bường bát tới nương bà vải
Dầu sãi không tu cũng giải sầu.
Làng vọng còn hơn cái lọng vàng
Mang sơ tấm áo, chớ mơ sang
Nhắn bạn lên non đừng bắn nhạn
Hang lỗ tìm vào bắt hổ lang
NHỚ BẠN
Nhắc bạn những thương tình nhạn bắc
Trông đời chỉ thấy cảnh trời đông
Đêm thâu tiếng dế đâu thêm mãi
Công khó chờ nhau biết có không
ĐÊM ĐI ĐÒ ĐẬP ĐÁ
Đập cũ đò đưa đủ cặp đời
Trời cho sức khỏe lắm trò chơi
Có đôi, khi rảnh lên côi đó
Cười ngả nghiêng cho mệt cả người
Thảo Am
Hoặc một số bài thơ khác:
Đời chua, bậu cứ thử đùa chơi
Chơi ngỗ xong rồi, kiếm chỗ ngơi
Bến đậu thênh thang, mời bậu đến
Ngồi đây say tít, ngất ngây đời.
Mỗi độ xuân sang chả có gì (chỉ có già)
Giàu sang, keo kiệt để mà chi? (đĩ mà chê?)
Vui xuân chúc tết cầu gia đạo
Cạn chén tiêu sầu tiễn người đi.
Lũ quỷ nay lại về luỹ cũ
Thầy tu mô Phật cũng thù Tây
Thảo Am
(1946)
Trông khống vô phòng thấy trống không
Chứa chan sầu lệ chán chưa chồng
Dòng châu lai láng dầu chong đợi
Bóng nhạn lưng chừng, bạn nhóng trông
Nhòm ngó đã cùng nơi ngã đó
Mơ mồng bên cạnh gối mền bông
Đêm thâu mưa gió đâu thêm mãi,
Xông lướt đi tìm phải xước lông.
Nhà thơ BÙI GIÁNG, tự gọi mình là Bán Dùi, Bàng Giúi vì ông ưa nói lái. Ông thường dùng những từ như: tồn lưu, lưu tồn, tồn liên, liên tồn, tồn lí tí ngọ, tồn lập tập trung, tồn lập tập họp… trong thơ của ông
Lọt cồn trận gió đi hoang
Tồn liên ở lại xin làn dồn ra
(Mưa nguồn)
Cá ở ngoài khe có ít nhiều
Cồn lau cỏ lách có hoang liêu
Em về có hỏi răng ri rứa
Nhắm mắt đưa chân có bận liều.
(Bờ trần gian)
Quá khứ liên tồn vô ngấn tích
Sáng tiền minh nguyệt chiếu hoàng mao
Hai hàng mọc cỏ thu sương ngậm
Vành vạnh lê hoa chước chước chào…
(Sa mạc phát tiết, Quỷ ma đối thoại)
Không trước tồn lập con mèo,
Thì trước tập trung con cá
Không trước liên tồn cái lá,
Thì trước tồn lý lún phún in rêu
(Chấp Trước)
Có mấy ngón
Năm ngón
Mười ngón
Món người
Non ngắm
Nắm ngon
Hoặc là năm ngón nón ngăm
Màu đi trên nước cá tăm chuyên cần
Nón ngăm dặm bóng xoay vần
Đọng nơi góp tụ và chần chờ đưa.
(Trong bàn chân đi)
Tháng theo ngày dậy rằm xanh nguyệt
Ba góc càn khôn lộn bốn trời.
(Sa mạc phát tiết, Đường cong)
"Ba góc càn khôn lộn bốn trời" chỉ là ngôn ngữ tượng trưng trong thi ca, nhưng chắc phải quyến rũ lắm, đam mê lắm, nên Bùi Giáng mới ngất ngây giữa thi tứ như rứa…
Nhà thơ Nguyễn Thái Dương cao hứng lên làm một bài thơ lái thật tinh nghịch.
Mực ngò, mực ngó, mực ngằn
Mực, bao nhiêu mực chẳng bằng mực nghi
Chao ôi bất luận mực gì
Vẫn thua mực ngút li bì sớm hôm.
Nhà thơ Võ Quê xứ Huế, bắt đầu làm một bài thơ nói lái cảm tác từ trận lụt kinh hoàng năm 1999 ở Huế:
Trời lụt ca nhi cũng trụt lời
Trời đong mưa lũ xuống trong đời
Vái lạy lụt tan lành váy lại
Đời cho du khách dạo đò chơi.
Bài thơ này được thi hữu truyền tụng ngâm ngợi khi trà dư tửu hậu, tạo đà cho tác giả tiếp tục sự nghiệp “thái lơ” của mình. Ông viết một loạt 50 bài thơ nói lái in trong tập NGƯỢC XUÔI THẾ SỰ, do nhà xuất bản Văn Học ấn hành năm 2011.
Đầu năm thi tứ nằm đâu?
Sắc màu nhân thế đượm sầu mắt ai?
Ngược dòng thế sự láng lai
Lang thang nhặt lái một vài câu chơi!
Có bài thơ ông nói lái bỡn cợt bông đùa, tung hứng cùng bạn rượu:
Một chai mai chột, coi chừng!
Nhị chai nhai chị tưng tưng ngà ngà
Ba chai là bai nghe cha!
Bốn chai cẩn thận kẻo mà bái chôn
Ngũ chai ngai chủ hùng hồn
Sáu chai sai cháu bếp cồn luộc tôm!
Có khi, bỗng nhiên ông TỰ HỎI:
Viết câu chi đó?
Có viết chi đâu!
Trống rỗng tim, đầu
Tìm đâu chữ nghĩa...
Rồi bật cười, ông lại TỰ TRÀO:
Mùa lễ hội thơ hoa lỗi hệ
Lục bát đành lạc bút từ khuya
Đợi lâu mới biết đâu có lợi
Bìa treo đây mai ruột đầy bia?
Những vấn đề thời sự xã hội gieo cho nhà thơ Võ Quê trăn trở:
Dầu xăng tăng giá dạ giăng sầu
Đầu tiên trăn trở bạc tiền đâu
Giật gấu vá vai theo vật giá
Thâu đêm nhức nhối nghĩ thêm đau!
***
Biến chất điếm đàng đi chiếm đất
Cánh đồng xoang bởi quán đồng xanh
Hối mại chức quyền gieo mối hại
Lanh mưu thoái hóa thật lưu manh!
***
Dân mình hiến đất xây trường
Quan tham lấn đất trầy xương thầy trò
Học đường lắm nỗi sầu lo
Quan tham thì vẫn trùm sò dài lâu.
Ngoài nhà thơ Thảo Am, nhà thơ Bùi Giáng, nhà thơ Võ Quê còn có các nhà thơ Bùi Tiến, Tường Linh, Y Nguyên... cũng sáng tác thơ nói lái.
LOẠN
Loạn thật đau thương, đời thật loạn
Đông Tây muôn kiếp vẫn Tây Đông
Trái ngang ai kẻ phân ngang trái
Không thấy thanh bình, ai thấy không ?
Bùi Tiến
LỠ THÌ BÁT PHỐ
Ngày tối mơ màng một mối tơ
Mơ chồng nên luống nhũng mong chờ
Có người phơi phới vui cười ngó
Riêng tớ êm rơ tiếng khóc hờ
Y Nguyên
Có cuộc xướng họa thơ nói lái của các nhà thơ Bùi Tiến, Y Nguyên, Lão Dương, Tùng Linh thật vui nhộn như sau:
VÒI VĨNH VỢ, VỢ... VỜ VĨNH
Chồng yêu mà vợ chẳng chiều ông
Lại tống lầm đi một tấm lòng
Biết vậy thà ngồi mà viết bậy
Bế bồng khăng khít cũng bằng không !
Lưỡng Dao
Bùi Tiến trả lời thay Lão Dương (nói lái của Lưỡng Dao) phu nhân:
CÓ NÊN CHIỀU ÔNG CHỒNG YÊU ?
Không ông đâu được phải không ông
Nghe lóng rồi ra cũng rối lòng
Táo bạo, xưng ông, chà táo bạo
Chồng khiêu khích vậy, đáng chiều không ?
Bùi Tiến
Lão Dương phu nhân bổ túc Bùi đại nhân :
CHỒNG CHÍ CHÓE
Lòng thòng em quá, chẳng thèm ông
Long tong lờ lửng sợi tơ lòng
Lài rài mấy chén xong rầy mãi
Lốc thốc khinh đời rứa thích không ?
Lão Dương đại phu nhân
Đến lượt Nhị phu nhân lên tiếng:
VỢ VẪN VẤN VƯƠNG
Chồng ơ thờ mấy cũng chờ ông
Lêu lỗng tầm đâu được tấm lòng
Cậy chàng yên vị, ông càng chạy
Công khó chờ ông biết có không ? *
Lão Dương nhị phu nhân
* Trộm phép đạo thơ cụ Thảo Am
Tam phu nhân cũng cất lời :
MÈO NÀO CẮN MĨU NÀO
Chồng ôm thủ thỉ bám chồm ông
Long đầu hai vị chớ đau lòng
Tắc tíc gia truyền môn tíc tắc
Khởi công khe hở khẽ cởi... không !
Thay mặt Tam Muội
Tùng Linh
Nhị nương và Tứ nương chỉnh Tam nương :
LỬA TAM MUỘI – QUẠT BA TIÊU
Đã bốc ăn rồi lại bắt ông
Buông lỏng, lừa nhau cướp lửa lòng
Quạt Ba Tiêu bạt qua Tam Muội
Lộc bổng kho đầy lại bỏ không !
Nhị nương và tứ muội
Bùi Tiến đại nhân nhắn nhủ :
GỬI CÁC PHU NHÂN BÉ
Bồng, A! ba bốn cũng Bà Ông
Lừa lọc đuờng đời, cốt được lòng
Cát Lũy cố ganh phần Quý Lạt
Công không yên phận kẻ công không
Thay mặt Lão Dương phu nhân
Bùi Tiến
Quý phu nhân không những xổ nho cùng điển tích mà còn xổ tiếng Tây, tiếng U (Ah Bon – Bồng, A) ra nữa, chắc chắc Lão Dương mệt hung rồi đây! Nhưng, nghe các bà om sòm ỏm tỏi, Lão Dương chẳng những không đòi dưỡng lao mà còn dọa sẽ nổi dóa bốc đồng lên :
BỊT MỒM BỐN MỤ
Mọi phòng yên hết ! Chớ phiền ông
Cả rống làm ông rối rắm lòng !
Xáo, xào không học, lo xào xáo
Ông bốc, khiêng bà nữa, biết không !
Lão Dương
"Hốt văn sư tử Hà Đông hống" như rứa mà Lão Dương còn cương mãnh, trị được bệnh xào xáo của bốn bà, oai phong thiệt! Người sưu tầm THƠ NÓI LÁI này xin bái phục!
Nhà thơ Thái Quốc Mưu cùng thi hữu trong lúc trà dư tửu hậu cũng vui xướng họa thơ nói lái.
CẢNH THU
(Hay bài thơ “lạc vận mà không lạc” )
Thu đội lá vàng ta đội thu
Tranh thu rồng lộn giữa mây mù
Trên cành đổ lá con công ngủ
Chiếc võng nghiêng đầu dáng mẹ ru
Góc đá chàng trai ngồi lặt cỏ
Ven song mấy ả đứng rờ hoa
Trong thuyền cô gái chôn lời vội
Chàng trẻ khom lưng bít lỗ lù
Thái Quốc Mưu
THU ĐẬM SẮC MÀU
Thu đệm nhạc buồn đậm sắc thu
Thu ca lời hát đẫm sương mù
Thu cong mặt lá vàng phiên khúc
Thu cỡi đài hoa tím điệu ru
Thu Vũ đại ca tay lắc cọ (1 )
Thu huynh Thái Quốc trí tìm mưu (2 )
Thu nhiều cảm xúc hồn lơ láo
Thu cũ trong ta hiện lú lù
Thiết Bình Nương Tử
(1) Anh Vũ Hối chỉ với cây cọ long mà viết như vẽ tranh
(2) Anh Thái Quốc Mưu
Anh Nguyễn Văn Quang cựu học sinh trường Nguyễn Hoàng Quảng Trị (1967 - 1970), có những câu thơ nói lái vui như sau:
Bố nghi bí ngô báo đi bí đao,
Can ông công an đi ông đông y!
Nhà lợp tồn lo nắng cực!
Tập thể giục tập thể tập thể dục tập thể
Nguyễn Văn Quang
Chúng tôi giới thiệu thêm một số câu thơ nói lái truyền khẩu của nhiều tác giả khuyết danh khác
"Chú phỉnh" tôi rồi "chính phủ" ơi,
"Chiến khu" đong lúa "chú khiên" rồi
"Thi đua" sao cứ "thua đi" mãi
"Kháng chiến" lâu rồi "khiến chán" thôi !!!
***
Phấn lau chưa dứt nghe pháo lân
Tân niên rót rượu mời Tiên nâng
Cô dâu hứa đải ăn dưa hấu
Chú rể tinh thần tựa tình thân
Có ông phó đảo châm pháo đỏ
Chú lính xuân qua muốn xa quân
Mang vài chậu kiểng mai vàng rộ
Xin tuần nghỉ phép thoả tình xuân
***
Về thường thăm lại vườn thề
Buồn lo trăm mối não nề bò luôn
Cuộn cho dùi mập cọ chuông
Người giàu sâu hiểm, chớ buồn dầu sao
Đau lòng lên tận Đông Lào
Thầy tăng ra đón, vẩy chào thằng tây
Tây đà vốn biết ta đầy
Bầy gà tre gạ đổi ngay ghe trà
Chả thằng nào bảo chẳng thà
Đổi trao như vậy chắc là đảo trôi
Vội ta mắc phải vạ tôi
Đành thôi vác chiếu về ngồi đồi thanh
Bánh ong* để dưới bóng anh... (bánh tổ ong)
Ăn rồi chợt nghỉ lanh quanh : Ôi rằng
Bắn trong khung vẻ bóng trăng
Làng thâm u quá cũng bằng lầm than
Ngang vài cung gấm ngai vàng
Khổ lòng ngắm thử y chang khổng lồ
Cố ra tìm bắt cá rô
Kho chi một tộ khi cho họ mừng...
*****
Ban ngày lặt cỏ tối công phu
Đậu ủ lâu ngày hóa đậu lu
Ngày ta địa chủ, đêm tu đạo
Đạo chi lạ rứa: "Đạo ù ù".
*****
Thầy giáo tháo giầy, tháo giáo án dán áo
Nhà trường nhường trà, nhường cả hoa, nhòa cả hương
Làm giáo chức, phải giứt cháo
Thảo chương, rồi để được ... thưởng chao
Nhường luôn hết cả nhà xe, nhè luôn hết cả xương
Nhường luôn miếng đất, nhất luôn cả miếng đường
Nhường tới tận rau, nhàu luôn tới tận xương
Nhường tới cái túi, nhúi ... tới cái tường
Lấy lương hưu, để lưu hương
***
Chiều ba mươi, thầy giáo tháo giày ra chợ bán
Sáng mùng một, giáo chức dứt cháo đón xuân sang.
****
Thương em, muôn kiếp còn thương mãi,
Em nỡ đem tình anh thảy mương.
Đêm ngủ anh nằm thê thảm khóc,
Câu thề năm cũ quẳng ra đường...
A Lin.
*****
Qua hố lội gặp thằng hối lộ
Câu đầu tiên nó hỏi tiền đâu?
Xin chữ ký? anh nghe kỹ chứ?
Một đấu vàng? Ôi, thật váng đầu!
*****
Má đưa con đi trong mưa đá
Má đặt con lên mặt đá bằng
Má đi vào xem mi đá bóng
Má đang mang đá tới lót nền
Má lột một lá dính vào phên
Má lấy bên hè đi mấy lá
Má lòn mòn lá cửa ngoài hiên
Má cần mần cá để kho liền
Má cắt con mắt cá đầu tiên
Má cũng mua đầy hai mủng cá
Má can con ăn mang cá kình.
*****
Con cá đối nằm trên cối đá
Cô dâu hứa đi mua dưa hấu
Cô láng giềng tắm bên giếng làng
Thằng bé mồm to lặn lội mò tôm
*****
Gái Củ Chi, chỉ cu hỏi củ chi
Thầy tu tâm lại rất thù Tây
Thằng Tây cũng rất ghét thầy tăng
Bức tranh lộng kiếng đem liệng cống
Điều kiện đầu tiên là... tiền đâu ?
Thầy giáo tháo giầy đi chân đất
Tiền thân mình có phải thần tiên ?
Kỹ sư giàu vẫn hơn cư sĩ nghèo
Uống trà Thái Đức đêm thường thức đái
Sống ở Thủ Đức năm canh thức đủ
NÓI LÁI Ở NGÔN NGỮ KHÁC
Cách nói này cũng được nhiều quốc gia khác sử dụng.
Thí dụ trong tiếng Anh: "The Lord is a shoving leopard" (thay vì "The Lord is a loving shepherd") - gọi là Spoonerism.
Thí dụ trong tiếng Đức: "Auf der Liebesreise // sprach der Leibesriese: // "Reib es, Liese!" // Und sie rieb es leise." - gọi là "Wortdreher" hay "Buchstabend reher", cách làm thơ có vần như thế gọi là Schüttelreim.
Văn hào VOLTAIRE của Pháp (1694-1778), tên thật là François Marie AROUET, lấy tên thành phố quê hương là Airvault (thuộc vùng Deux Sèvres) nói lái là Vault – Air để có bút danh Voltaire đó mà!
Những nhà thơ chuyên viết dạng thơ nói lái là nữ sĩ Hồ Xuân Hương, nhà thơ Bùi Giáng, nhà thơ Thảo Am Nguyễn Khoa Vi, nhà thơ Võ Quê.
Đọc thơ HỒ XUÂN HƯƠNG, chúng ta thấy bà nói lái thật dí dỏm:
Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc,
Trái gió cho nên phải lộn lèo.
(Kiếp Tu Hành)
Quán sứ sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm Sư cụ đáo nơi neo.
Chày kình, tiểu để suông không đấm,
Tràng hạt, vải lần đếm lại đeo.
(Chùa Quán Sứ)
Đang cơn nắng cực chửa mưa hè,
Rủ chị em ra tát nước khe.
(Tát nước)
Thú vui quên cả niềm lo cũ
Kìa cái diều ai nó lộn lèo.
(Quán Khách)
Nhà thơ trào phúng TÚ MỠ (Hồ Trọng Hiếu, 1900-1976) có bài "Lỡm cô Ngọc Hồ" với hai câu nói lái phong cách Hồ Xuân Hương:
HỒ tù ngán nỗi con rồng lộn
NGỌC vết thương tình kẻ cố đeo
(Nhắn khách Băng Tâm ai đó tá
Mỹ danh hai chữ, nghĩ buồn teo.)
Nhà thơ Thảo Am Nguyễn Khoa Vi (1881 - 1968) là nhà thơ Huế giàu tài năng ông xuất thân nho học, thông thạo chữ Hán, am hiểu tiếng Pháp và chữ quốc ngữ. Ông đã làm những bài thơ nói lái như sau:
Cầu đạo nên chi phải cạo đầu
Dầu lai dưa muối cũng dài lâu
Na bường bát tới nương bà vải
Dầu sãi không tu cũng giải sầu.
Làng vọng còn hơn cái lọng vàng
Mang sơ tấm áo, chớ mơ sang
Nhắn bạn lên non đừng bắn nhạn
Hang lỗ tìm vào bắt hổ lang
NHỚ BẠN
Nhắc bạn những thương tình nhạn bắc
Trông đời chỉ thấy cảnh trời đông
Đêm thâu tiếng dế đâu thêm mãi
Công khó chờ nhau biết có không
ĐÊM ĐI ĐÒ ĐẬP ĐÁ
Đập cũ đò đưa đủ cặp đời
Trời cho sức khỏe lắm trò chơi
Có đôi, khi rảnh lên côi đó
Cười ngả nghiêng cho mệt cả người
Thảo Am
Hoặc một số bài thơ khác:
Đời chua, bậu cứ thử đùa chơi
Chơi ngỗ xong rồi, kiếm chỗ ngơi
Bến đậu thênh thang, mời bậu đến
Ngồi đây say tít, ngất ngây đời.
Mỗi độ xuân sang chả có gì (chỉ có già)
Giàu sang, keo kiệt để mà chi? (đĩ mà chê?)
Vui xuân chúc tết cầu gia đạo
Cạn chén tiêu sầu tiễn người đi.
Lũ quỷ nay lại về luỹ cũ
Thầy tu mô Phật cũng thù Tây
Thảo Am
(1946)
Trông khống vô phòng thấy trống không
Chứa chan sầu lệ chán chưa chồng
Dòng châu lai láng dầu chong đợi
Bóng nhạn lưng chừng, bạn nhóng trông
Nhòm ngó đã cùng nơi ngã đó
Mơ mồng bên cạnh gối mền bông
Đêm thâu mưa gió đâu thêm mãi,
Xông lướt đi tìm phải xước lông.
Nhà thơ BÙI GIÁNG, tự gọi mình là Bán Dùi, Bàng Giúi vì ông ưa nói lái. Ông thường dùng những từ như: tồn lưu, lưu tồn, tồn liên, liên tồn, tồn lí tí ngọ, tồn lập tập trung, tồn lập tập họp… trong thơ của ông
Lọt cồn trận gió đi hoang
Tồn liên ở lại xin làn dồn ra
(Mưa nguồn)
Cá ở ngoài khe có ít nhiều
Cồn lau cỏ lách có hoang liêu
Em về có hỏi răng ri rứa
Nhắm mắt đưa chân có bận liều.
(Bờ trần gian)
Quá khứ liên tồn vô ngấn tích
Sáng tiền minh nguyệt chiếu hoàng mao
Hai hàng mọc cỏ thu sương ngậm
Vành vạnh lê hoa chước chước chào…
(Sa mạc phát tiết, Quỷ ma đối thoại)
Không trước tồn lập con mèo,
Thì trước tập trung con cá
Không trước liên tồn cái lá,
Thì trước tồn lý lún phún in rêu
(Chấp Trước)
Có mấy ngón
Năm ngón
Mười ngón
Món người
Non ngắm
Nắm ngon
Hoặc là năm ngón nón ngăm
Màu đi trên nước cá tăm chuyên cần
Nón ngăm dặm bóng xoay vần
Đọng nơi góp tụ và chần chờ đưa.
(Trong bàn chân đi)
Tháng theo ngày dậy rằm xanh nguyệt
Ba góc càn khôn lộn bốn trời.
(Sa mạc phát tiết, Đường cong)
"Ba góc càn khôn lộn bốn trời" chỉ là ngôn ngữ tượng trưng trong thi ca, nhưng chắc phải quyến rũ lắm, đam mê lắm, nên Bùi Giáng mới ngất ngây giữa thi tứ như rứa…
Nhà thơ Nguyễn Thái Dương cao hứng lên làm một bài thơ lái thật tinh nghịch.
Mực ngò, mực ngó, mực ngằn
Mực, bao nhiêu mực chẳng bằng mực nghi
Chao ôi bất luận mực gì
Vẫn thua mực ngút li bì sớm hôm.
Nhà thơ Võ Quê xứ Huế, bắt đầu làm một bài thơ nói lái cảm tác từ trận lụt kinh hoàng năm 1999 ở Huế:
Trời lụt ca nhi cũng trụt lời
Trời đong mưa lũ xuống trong đời
Vái lạy lụt tan lành váy lại
Đời cho du khách dạo đò chơi.
Bài thơ này được thi hữu truyền tụng ngâm ngợi khi trà dư tửu hậu, tạo đà cho tác giả tiếp tục sự nghiệp “thái lơ” của mình. Ông viết một loạt 50 bài thơ nói lái in trong tập NGƯỢC XUÔI THẾ SỰ, do nhà xuất bản Văn Học ấn hành năm 2011.
Đầu năm thi tứ nằm đâu?
Sắc màu nhân thế đượm sầu mắt ai?
Ngược dòng thế sự láng lai
Lang thang nhặt lái một vài câu chơi!
Có bài thơ ông nói lái bỡn cợt bông đùa, tung hứng cùng bạn rượu:
Một chai mai chột, coi chừng!
Nhị chai nhai chị tưng tưng ngà ngà
Ba chai là bai nghe cha!
Bốn chai cẩn thận kẻo mà bái chôn
Ngũ chai ngai chủ hùng hồn
Sáu chai sai cháu bếp cồn luộc tôm!
Có khi, bỗng nhiên ông TỰ HỎI:
Viết câu chi đó?
Có viết chi đâu!
Trống rỗng tim, đầu
Tìm đâu chữ nghĩa...
Rồi bật cười, ông lại TỰ TRÀO:
Mùa lễ hội thơ hoa lỗi hệ
Lục bát đành lạc bút từ khuya
Đợi lâu mới biết đâu có lợi
Bìa treo đây mai ruột đầy bia?
Những vấn đề thời sự xã hội gieo cho nhà thơ Võ Quê trăn trở:
Dầu xăng tăng giá dạ giăng sầu
Đầu tiên trăn trở bạc tiền đâu
Giật gấu vá vai theo vật giá
Thâu đêm nhức nhối nghĩ thêm đau!
***
Biến chất điếm đàng đi chiếm đất
Cánh đồng xoang bởi quán đồng xanh
Hối mại chức quyền gieo mối hại
Lanh mưu thoái hóa thật lưu manh!
***
Dân mình hiến đất xây trường
Quan tham lấn đất trầy xương thầy trò
Học đường lắm nỗi sầu lo
Quan tham thì vẫn trùm sò dài lâu.
Ngoài nhà thơ Thảo Am, nhà thơ Bùi Giáng, nhà thơ Võ Quê còn có các nhà thơ Bùi Tiến, Tường Linh, Y Nguyên... cũng sáng tác thơ nói lái.
LOẠN
Loạn thật đau thương, đời thật loạn
Đông Tây muôn kiếp vẫn Tây Đông
Trái ngang ai kẻ phân ngang trái
Không thấy thanh bình, ai thấy không ?
Bùi Tiến
LỠ THÌ BÁT PHỐ
Ngày tối mơ màng một mối tơ
Mơ chồng nên luống nhũng mong chờ
Có người phơi phới vui cười ngó
Riêng tớ êm rơ tiếng khóc hờ
Y Nguyên
Có cuộc xướng họa thơ nói lái của các nhà thơ Bùi Tiến, Y Nguyên, Lão Dương, Tùng Linh thật vui nhộn như sau:
VÒI VĨNH VỢ, VỢ... VỜ VĨNH
Chồng yêu mà vợ chẳng chiều ông
Lại tống lầm đi một tấm lòng
Biết vậy thà ngồi mà viết bậy
Bế bồng khăng khít cũng bằng không !
Lưỡng Dao
Bùi Tiến trả lời thay Lão Dương (nói lái của Lưỡng Dao) phu nhân:
CÓ NÊN CHIỀU ÔNG CHỒNG YÊU ?
Không ông đâu được phải không ông
Nghe lóng rồi ra cũng rối lòng
Táo bạo, xưng ông, chà táo bạo
Chồng khiêu khích vậy, đáng chiều không ?
Bùi Tiến
Lão Dương phu nhân bổ túc Bùi đại nhân :
CHỒNG CHÍ CHÓE
Lòng thòng em quá, chẳng thèm ông
Long tong lờ lửng sợi tơ lòng
Lài rài mấy chén xong rầy mãi
Lốc thốc khinh đời rứa thích không ?
Lão Dương đại phu nhân
Đến lượt Nhị phu nhân lên tiếng:
VỢ VẪN VẤN VƯƠNG
Chồng ơ thờ mấy cũng chờ ông
Lêu lỗng tầm đâu được tấm lòng
Cậy chàng yên vị, ông càng chạy
Công khó chờ ông biết có không ? *
Lão Dương nhị phu nhân
* Trộm phép đạo thơ cụ Thảo Am
Tam phu nhân cũng cất lời :
MÈO NÀO CẮN MĨU NÀO
Chồng ôm thủ thỉ bám chồm ông
Long đầu hai vị chớ đau lòng
Tắc tíc gia truyền môn tíc tắc
Khởi công khe hở khẽ cởi... không !
Thay mặt Tam Muội
Tùng Linh
Nhị nương và Tứ nương chỉnh Tam nương :
LỬA TAM MUỘI – QUẠT BA TIÊU
Đã bốc ăn rồi lại bắt ông
Buông lỏng, lừa nhau cướp lửa lòng
Quạt Ba Tiêu bạt qua Tam Muội
Lộc bổng kho đầy lại bỏ không !
Nhị nương và tứ muội
Bùi Tiến đại nhân nhắn nhủ :
GỬI CÁC PHU NHÂN BÉ
Bồng, A! ba bốn cũng Bà Ông
Lừa lọc đuờng đời, cốt được lòng
Cát Lũy cố ganh phần Quý Lạt
Công không yên phận kẻ công không
Thay mặt Lão Dương phu nhân
Bùi Tiến
Quý phu nhân không những xổ nho cùng điển tích mà còn xổ tiếng Tây, tiếng U (Ah Bon – Bồng, A) ra nữa, chắc chắc Lão Dương mệt hung rồi đây! Nhưng, nghe các bà om sòm ỏm tỏi, Lão Dương chẳng những không đòi dưỡng lao mà còn dọa sẽ nổi dóa bốc đồng lên :
BỊT MỒM BỐN MỤ
Mọi phòng yên hết ! Chớ phiền ông
Cả rống làm ông rối rắm lòng !
Xáo, xào không học, lo xào xáo
Ông bốc, khiêng bà nữa, biết không !
Lão Dương
"Hốt văn sư tử Hà Đông hống" như rứa mà Lão Dương còn cương mãnh, trị được bệnh xào xáo của bốn bà, oai phong thiệt! Người sưu tầm THƠ NÓI LÁI này xin bái phục!
Nhà thơ Thái Quốc Mưu cùng thi hữu trong lúc trà dư tửu hậu cũng vui xướng họa thơ nói lái.
CẢNH THU
(Hay bài thơ “lạc vận mà không lạc” )
Thu đội lá vàng ta đội thu
Tranh thu rồng lộn giữa mây mù
Trên cành đổ lá con công ngủ
Chiếc võng nghiêng đầu dáng mẹ ru
Góc đá chàng trai ngồi lặt cỏ
Ven song mấy ả đứng rờ hoa
Trong thuyền cô gái chôn lời vội
Chàng trẻ khom lưng bít lỗ lù
Thái Quốc Mưu
THU ĐẬM SẮC MÀU
Thu đệm nhạc buồn đậm sắc thu
Thu ca lời hát đẫm sương mù
Thu cong mặt lá vàng phiên khúc
Thu cỡi đài hoa tím điệu ru
Thu Vũ đại ca tay lắc cọ (1 )
Thu huynh Thái Quốc trí tìm mưu (2 )
Thu nhiều cảm xúc hồn lơ láo
Thu cũ trong ta hiện lú lù
Thiết Bình Nương Tử
(1) Anh Vũ Hối chỉ với cây cọ long mà viết như vẽ tranh
(2) Anh Thái Quốc Mưu
Anh Nguyễn Văn Quang cựu học sinh trường Nguyễn Hoàng Quảng Trị (1967 - 1970), có những câu thơ nói lái vui như sau:
Bố nghi bí ngô báo đi bí đao,
Can ông công an đi ông đông y!
Nhà lợp tồn lo nắng cực!
Tập thể giục tập thể tập thể dục tập thể
Nguyễn Văn Quang
Chúng tôi giới thiệu thêm một số câu thơ nói lái truyền khẩu của nhiều tác giả khuyết danh khác
"Chú phỉnh" tôi rồi "chính phủ" ơi,
"Chiến khu" đong lúa "chú khiên" rồi
"Thi đua" sao cứ "thua đi" mãi
"Kháng chiến" lâu rồi "khiến chán" thôi !!!
***
Phấn lau chưa dứt nghe pháo lân
Tân niên rót rượu mời Tiên nâng
Cô dâu hứa đải ăn dưa hấu
Chú rể tinh thần tựa tình thân
Có ông phó đảo châm pháo đỏ
Chú lính xuân qua muốn xa quân
Mang vài chậu kiểng mai vàng rộ
Xin tuần nghỉ phép thoả tình xuân
***
Về thường thăm lại vườn thề
Buồn lo trăm mối não nề bò luôn
Cuộn cho dùi mập cọ chuông
Người giàu sâu hiểm, chớ buồn dầu sao
Đau lòng lên tận Đông Lào
Thầy tăng ra đón, vẩy chào thằng tây
Tây đà vốn biết ta đầy
Bầy gà tre gạ đổi ngay ghe trà
Chả thằng nào bảo chẳng thà
Đổi trao như vậy chắc là đảo trôi
Vội ta mắc phải vạ tôi
Đành thôi vác chiếu về ngồi đồi thanh
Bánh ong* để dưới bóng anh... (bánh tổ ong)
Ăn rồi chợt nghỉ lanh quanh : Ôi rằng
Bắn trong khung vẻ bóng trăng
Làng thâm u quá cũng bằng lầm than
Ngang vài cung gấm ngai vàng
Khổ lòng ngắm thử y chang khổng lồ
Cố ra tìm bắt cá rô
Kho chi một tộ khi cho họ mừng...
*****
Ban ngày lặt cỏ tối công phu
Đậu ủ lâu ngày hóa đậu lu
Ngày ta địa chủ, đêm tu đạo
Đạo chi lạ rứa: "Đạo ù ù".
*****
Thầy giáo tháo giầy, tháo giáo án dán áo
Nhà trường nhường trà, nhường cả hoa, nhòa cả hương
Làm giáo chức, phải giứt cháo
Thảo chương, rồi để được ... thưởng chao
Nhường luôn hết cả nhà xe, nhè luôn hết cả xương
Nhường luôn miếng đất, nhất luôn cả miếng đường
Nhường tới tận rau, nhàu luôn tới tận xương
Nhường tới cái túi, nhúi ... tới cái tường
Lấy lương hưu, để lưu hương
***
Chiều ba mươi, thầy giáo tháo giày ra chợ bán
Sáng mùng một, giáo chức dứt cháo đón xuân sang.
****
Thương em, muôn kiếp còn thương mãi,
Em nỡ đem tình anh thảy mương.
Đêm ngủ anh nằm thê thảm khóc,
Câu thề năm cũ quẳng ra đường...
A Lin.
*****
Qua hố lội gặp thằng hối lộ
Câu đầu tiên nó hỏi tiền đâu?
Xin chữ ký? anh nghe kỹ chứ?
Một đấu vàng? Ôi, thật váng đầu!
*****
Má đưa con đi trong mưa đá
Má đặt con lên mặt đá bằng
Má đi vào xem mi đá bóng
Má đang mang đá tới lót nền
Má lột một lá dính vào phên
Má lấy bên hè đi mấy lá
Má lòn mòn lá cửa ngoài hiên
Má cần mần cá để kho liền
Má cắt con mắt cá đầu tiên
Má cũng mua đầy hai mủng cá
Má can con ăn mang cá kình.
*****
Con cá đối nằm trên cối đá
Cô dâu hứa đi mua dưa hấu
Cô láng giềng tắm bên giếng làng
Thằng bé mồm to lặn lội mò tôm
*****
Gái Củ Chi, chỉ cu hỏi củ chi
Thầy tu tâm lại rất thù Tây
Thằng Tây cũng rất ghét thầy tăng
Bức tranh lộng kiếng đem liệng cống
Điều kiện đầu tiên là... tiền đâu ?
Thầy giáo tháo giầy đi chân đất
Tiền thân mình có phải thần tiên ?
Kỹ sư giàu vẫn hơn cư sĩ nghèo
Uống trà Thái Đức đêm thường thức đái
Sống ở Thủ Đức năm canh thức đủ
NÓI LÁI Ở NGÔN NGỮ KHÁC
Cách nói này cũng được nhiều quốc gia khác sử dụng.
Thí dụ trong tiếng Anh: "The Lord is a shoving leopard" (thay vì "The Lord is a loving shepherd") - gọi là Spoonerism.
Thí dụ trong tiếng Đức: "Auf der Liebesreise // sprach der Leibesriese: // "Reib es, Liese!" // Und sie rieb es leise." - gọi là "Wortdreher" hay "Buchstabend reher", cách làm thơ có vần như thế gọi là Schüttelreim.
Văn hào VOLTAIRE của Pháp (1694-1778), tên thật là François Marie AROUET, lấy tên thành phố quê hương là Airvault (thuộc vùng Deux Sèvres) nói lái là Vault – Air để có bút danh Voltaire đó mà!
PHẦN IV : THƠ HÌNH
1/ THƠ HÌNH THOI
MƯA RÀO
Mưa
Lưa thưa
Vài ba giọt…
Ai khóc tả tơi ,
Giọt lệ tình đau xót?...
Nhưng mây mù tịt, gió đưa
Cây lá rụng xào xạc giữa trưa.
Mưa đổ xuống ào ạt, mưa, mưa, mưa !
Thời gian trôi tan tác theo tiếng mưa cười!
Không gian dập vùi tan nát theo thác mưa trôi
Đàn em thơ nhào ra đường, giỡn hớt chạy dầm mưa
Cỏ hoa mừng nên vận hội, ngả nghiêng tắm gội say sưa
Nhưng ta không vui, không mừng.
Lòng không ca, không hát!
Ta đưa tay ra trời, xin giòng mưa thấm mát.
Tưới vết thương, lòng héo hắt tự năm xưa!
Nhưng, ô kìa! Mưa rụng, chóng tàn chưa!
Trời xanh xanh, mây bay tan tác.
Ai còn ươm hạt mưa đào,
Lóng lánh trong tim hoa
Ai ươm mơ sầu
Ôi mong manh,
Trong tim
Ta !
(NGUYỄN VỸ)
XƯA VÀ NAY
xưa
anh về
cây sứ trắng
mùi hương đê mê
trăng treo ngoài hiên vắng
mắt huyền nhìn anh long lanh
bao năm trôi thầm lặng
anh về trăng bay
hương sứ đắng
mũi cay
nay
(NGÔ HỮU ĐOÀN)
2/ THƠ HÌNH BẦU RƯỢU
TRÚTBUỒN
*********
Rượu nồng
đắng môi
trút buồn
ta cứ uống
mãi uống vào
giết chết cuộc tình
giết chết một giấc mơ
đừng khóc những vần thơ
hãy để cho tình yêu lên tiếng
ta gửi gắm vào những tâm hồn
nuôi sống giấc mộng của lứa đôi
nếu em không bao giờ yêu tôi
để trái tim em mang tội lỗi
trên cát biển tôi ngồi
có bóng hình em
hoà vào đêm
tan biến
say!
cứ say đi
quên hết cuộc tình buồn
nước mắt kia không rõ cội nguồn
khóc cho lòng quên đi đời trống vắng
đừng để sầu che khuất những ánh trăng
này em hỡi ! Nếu anh hoá thành sao băng
biến giấc mơ của em đó vào trong trí nhớ
trên biển cả, anh sẽ mãi làm con thuyền
đưa khách lữ hành về lại bến bình yên
trong mắt em đó cứ xem anh là điên
một người điên yêu em say đắm
trong lối mộng âm thầm
anh dõi mắt nhìn em
say trong đêm
lãng quên
(BẠCH VÂN NAM)
3/THƠ HÌNH CHỮ THẬP
Bài 1
LỘC XUÂN
(Bài thơ có 2 cách đọc)
Chung
Vui
Hưởng
Bông khai nở LỘC đơm đầy quả
Thắm
Tình
Xuân
Cách 1 :
Chung vui hưởng LỘC thắm tình xuân
Xuân tình thắm LỘC nở khai bông
Bông khai nở LỘC đơm đầy quả
Quả đầy đơm LỘC hưởng vui chung
Cách 2 :
Xuân tình thắm LỘC hưởng vui chung
Chung vui hưởng LỘC nở khai bông
Bông khai nở LỘC đơm đầy quả
Quả đầy đơm LỘC thắm tình xuân
(DIỄM DIỄM )
Bài 2 :
Tiên
Nàng
lấy
Phiền lòng giải QUẠT tay đưa gió
kết
nhân
duyên
(NGUYỄN KHẮC VIÊM)
Cách đọc :
Tiên nàng lấy quạt kết nhân duyên
Duyên nhân kết quạt giải lòng phiền
Phiền lòng giải quạt tay đưa gió
Gió đưa tay quạt lấy nàng tiên
Bài thơ trên có một dị bản như sau:
Tiên
Đồng
Hội
Gió đưa tay QUẠT kết lương duyên
Giải
Tâm
Phiền
Cách đọc:
Tiên đồng hội quạt kết lương duyên
Duyên lương kết quạt giải tâm phiền
Phiền tâm giải quạt tay đưa gió
Gió đưa tay quạt hội đồng tiên.
Bài thơ trên có một dị bản như sau:
Tiên
Đồng
Hội
Gió đưa tay QUẠT kết lương duyên
Giải
Tâm
Phiền
Cách đọc:
Tiên đồng hội quạt kết lương duyên
Duyên lương kết quạt giải tâm phiền
Phiền tâm giải quạt tay đưa gió
Gió đưa tay quạt hội đồng tiên.
Bài 3 :
Đây
anh
gởi
Thiếp nhớ chàng THƠ đặng em hay.
bỏ
nghĩa
này
Bài thơ đọc như sau:
Đây anh gởi thơ đặng em hay.
Hay em đặng thơ bỏ nghĩa này.
Này nghĩa bỏ thơ chàng nhớ thiếp.
Thiếp nhớ chàng thơ gởi anhđây
KHUYẾT DANH
4- THƠ HÌNH TRÒN
Bài thơ được viết thành hình tròn với 13 chữ.
“Nhạn về đông gởi bạn tình chung một tấm lòng ngơ ngẩn đợi.”
N
H
A.
N
về
đông đợi
gởi ngẩn
bạn ngơ
tình long
chung tấm
một
N
H
A.
N
về
đợi đông
ngẩn gởi
ngơ bạn
lòng tình
tấm chung
một
Bài thơ đọc như sau :
NHẠN về đông gởi bạn tình chung
Gởi bạn tình chung một tấm lòng
Chung một tấm lòng ngơ ngẩn đợi.
Lòng ngơ ngẩn đợi nhạn về đông.
KHUYẾT DANH
La Thụy (sưu tầm và biên tập)
31 nhận xét:
CHÉP GỬI BẠN BÀI THƠ VIỆT - ANH NHÉ:
Nói sai sự thật to lie
Go đi, come đến, một vài là some
Đứng stand, look ngó, lie nằm
Five năm, four bốn, hold cầm, play chơi
One life là một cuộc đời
Happy sung sướng, laugh cười, cry kêu
Lover tạm dịch ngừơi yêu
Charming duyên dáng, mỹ miều graceful
Mặt trăng là chữ the moon
World là thế giới, sớm soon, lake hồ
Dao knife, spoon muỗng, cuốc hoe
Đêm night, dark tối, khổng lồ là giant
Fun vui, die chết, near gần
Sorry xin lỗi, dull đần, wise khôn
Burry có nghĩa là chôn
Our souls tạm dịch linh hồn chúng ta
Xe hơi du lịch là car
Sir ngài, Lord đức, thưa bà Madam
Thousand là đúng...mười trăm
Ngày day, tuần week, year năm, hour giờ
Wait there đứng đó đợi chờ
Nightmare ác mộng, dream mơ, pray cầu
Trừ ra except, deep sâu
Daughter con gái, bridge cầu, pond ao
Enter tạm dịch đi vào
Thêm for tham dự lẽ nào lại sai
Shoulder cứ dịch là vai
Writer văn sĩ, cái đài radio
A bowl là một cái tô
Chữ tear nước mắt, tomb mồ, miss cô
Máy khâu dùng tạm chữ sew
Kẻ thù dịch đại là foe chẳng lầm
Shelter tạm dịch là hầm
Chữ shout là hét, nói thầm whisper
What time là hỏi mấy giờ
Clear trong, clean sạch, mờ mờ là dim
Gặp ông ta dịch see him
Swim bơi, wade lội, drown chìm chết trôi
Mountain là núi, hill đồi
Valley thung lũng, cây sồi oak tree
Tiền xin đóng học school fee
Yêu tôi dùng chữ love me chẳng lầm
To steal tạm dịch cầm nhầm
Tẩy chay boycott, gia cầm poultry
Cattle gia súc, ong bee
Something to eat chút gì để ăn
Lip môi, tongue lưỡi, teeth răng
Exam thi cử, cái bằng licence...
Lovely có nghĩa dễ thương
Pretty xinh đẹp thường thường so so
Lotto là chơi lô tô
Nấu ăn là cook , wash clothes giặt đồ
Push thì có nghĩa đẩy, xô
Marriage đám cưới, single độc thân
Foot thì có nghĩa bàn chân
Far là xa cách còn gần là near
Spoon có nghĩa cái thìa
Toán trừ subtract, toán chia divide
Dream thì có nghĩa giấc mơ
Month thì là tháng , thời giờ là time
Job thì có nghĩa việc làm
Lady phái nữ, phái nam gentleman
Close friend có nghĩa bạn thân
Leaf là chiếc lá, còn sun mặt trời
Fall down có nghĩa là rơi
Welcome chào đón, mời là invite
Short là ngắn, long là dài
Mũ thì là hat, chiếc hài là shoe
Autumn có nghĩa mùa thu
Summer mùa hạ , cái tù là jail
Duck là vịt , pig là heo
Rich là giàu có, còn nghèo là poor
Crab thì có nghĩa con cua
Church nhà thờ đó, còn chùa temple
Aunt có nghĩa dì, cô
Chair là cái ghế, cái hồ là pool
Late là muộn, sớm là soon
Hospital bệnh viện, school là trường
Dew thì có nghĩa là sương
Happy vui vẻ, chán chường weary
Exam có nghĩa kỳ thi
Nervous nhút nhát, mommy mẹ hiền.
Region có nghĩa là miền,
Interupted gián đoạn còn liền next to.
Coins dùng chỉ những đồng xu,
Còn đồng tiền giấy paper money.
Here chỉ dùng để chỉ tại đây,
A moment một lát còn ngay ringht now,
Brothers-in-law đồng hao. Farm-work đồng áng, đồng bào Fellow- countryman
Narrow- minded chỉ sự nhỏ nhen,
Open-hended hào phóng còn hèn là mean.
Vẫn còn dùng chữ still,
Kỹ năng là chữ skill khó gì!
Gold là vàng, graphite than chì.
Munia tên gọi chim ri
Kestrel chim cắt có gì khó đâu.
Migrant kite là chú diều hâu
Warbler chim chích, hải âu petrel
Stupid có nghĩa là khờ,
Đảo lên đảo xuống, stir nhiều nhiều.
How many có nghĩa bao nhiêu.
Too much nhiều quá, a few một vài
Right là đúng, wrong là sai
Chess là cờ tướng, đánh bài playing card
Flower có nghĩa là hoa
Hair là mái tóc, da là skin
Buổi sáng thì là morning
King là vua chúa, còn Queen nữ hoàng
Wander có nghĩa lang thang
Màu đỏ là red, màu vàng yellow
Yes là đúng, không là no
Fast là nhanh chóng, slow chậm rì
Sleep là ngủ, go là đi
Weakly ốm yếu healthy mạnh lành
White là trắng, green là xanh
Hard là chăm chỉ, học hành study
Ngọt là sweet, kẹo candy
Butterfly là bướm, bee là con ong
River có nghĩa dòng sông
Wait for có nghĩa ngóng trông đợi chờ
Dirty có nghĩa là dơ
Bánh mì bread, còn bơ butter
Bác sĩ thì là doctor
Y tá là nurse, teacher giáo viên
Mad dùng chỉ những kẻ điên,
Everywhere có nghĩa mọi miền gần xa.
A song chỉ một bài ca.
Ngôi sao dùng chữ star, có liền!
Firstly có nghĩa trước tiên
Silver là bạc, còn tiền money
Biscuit thì là bánh quy
Can là có thể, please vui lòng
Winter có nghĩa mùa đông
Iron là sắt còn đồng copper
Kẻ giết người là killer
Cảnh sát police, lawyer luật sư
Emigrate là di cư
Bưu điện post office, thư từ là mail
Follow có nghĩa đi theo
Shopping mua sắm còn sale bán hàng
Space có nghĩa không gian
Hàng trăm hundred, hàng ngàn thousand
Stupid có nghĩa ngu đần
Thông minh smart, equation phương trình
Television là truyền hình
Băng ghi âm là tape, chương trình program
Hear là nghe watch là xem
Electric là điện còn lamp bóng đèn
Praise có nghĩa ngợi khen
Crowd đông đúc, lấn chen hustle
Capital là thủ đô
City thành phố, local địa phương
Country có nghĩa quê hương
Field là đồng ruộng còn vườn garden
Chốc lát là chữ moment
Fish là con cá, chicken gà tơ
Naive có nghĩa ngây thơ
Poet thi sĩ , great writer văn hào
Tall thì có nghĩa là cao
Short là thấp ngắn, còn chào hello
Uncle là bác, elders cô.
Shy mắc cỡ, coarse là thô.
Come on có nghĩa mời vô,
Go away đuổi cút, còn vồ pounce.
Poem có nghĩa là thơ,
Strong khoẻ mạnh, mệt phờ dog- tiered.
Bầu trời thường gọi sky,
Life là sự sống còn die lìa đời
Shed tears có nghĩa lệ rơi
Fully là đủ, nửa vời by halves
Ở lại dùng chữ stay,
Bỏ đi là leave còn nằm là lie.
Tomorrow có nghĩa ngày mai
Hoa sen lotus, hoa lài jasmine
Madman có nghĩa người điên
Private có nghĩa là riêng của mình
Cảm giác là chữ feeling
Camera máy ảnh hình là photo
Động vật là animal
Big là to lớn, little nhỏ nhoi
Elephant là con voi
Goby cá bống, cá mòi sardine
Mỏng mảnh thì là chữ thin
Cổ là chữ neck, còn chin cái cằm
Visit có nghĩa viếng thăm
Lie down có nghĩa là nằm nghỉ ngơi
Mouse con chuột , bat con dơi
Separate có nghĩa tách rời, chia ra
Gift thì có nghĩa món quà
Guest thì là khách chủ nhà house owner
Bệnh ung thư là cancer
Lối ra exit, enter đi vào
Up lên còn xuống là down
Beside bên cạnh, about khoảng chừng
Stop có nghĩa là ngừng
Ocean là biển, rừng là jungle
Silly là kẻ dại khờ,
Khôn ngoan smart, đù đờ luggish
Hôn là kiss, kiss thật lâu.
Cửa sổ là chữ window
Special đặc biệt normal thường thôi
Lazy... làm biếng quá rồi
Ngồi mà viết tiếp một hồi die soon
Hứng thì cứ việc go on,
Còn không stop ta còn nghỉ ngơi!
Cám ơn bạn đã bổ sung tư liệu cho bài viết thêm phong phú nhé!
Bài viết này hay lắm bạn PĐ à, rất hữu ích cho các cháu học phổ thông kể cả người lớn.
Đọc bài này làm LB nhớ đến nhà thơ Phạm Thái, hình như có nói trong cuốn 'Thi nhân Việt Nam' của Hoài Thanh-Hoài Chân (có một bài thơ của Nguyễn Vĩ hình 'đàn cò bay' hình chữ X)...
Thân, ngày mới tốt lành.
Bạn thử xem lại bài ĐỀ TRANH MỸ NỮ hình như mấy dòng đầu của phần đọc ngược
chưa chính xác thì phải , bởi kiểu này tôi đã từng đọc thấy ngược hoàn toàn
cơ . Xin chúc bạn có những ngày nghỉ cuối tuần với thật nhiều ý nghĩa .
Phạm Thái còn có tên là Phạm Phụng, sinh năm 1777, quê ở làng Yên Thượng, huyện Đông Ngàn, nay thuộc Từ Sơn Bắc Ninh. Thái là con của Thạch Trung Hầu, một cựu thần của nhà Lê, đã nhiều lần khởi binh cần vương chống nhà Tây Sơn nhưng thất bại.
Phạm Thái còn được biết qua nhiều bút danh như Chiêu Lỳ, Phổ Chiêu Thiền Sư
Phạm Thái còn được nhà văn Khái Hưng gọi là TIÊU SƠN TRÁNG SĨ ( trong một cuốn tiểu thuyết cùng tên), là di thần nhà Hậu Lê chống lại triều Tây Sơn. Phạm Thái nổi tiếng với bài CHIẾN TỤNG TÂY HỒ PHÚ (bút chiến với bài TỤNG TÂY HỒ PHÚ của Nguyễn Huy Lượng). Phạm Thái còn nổi tiếng với tập thơ SƠ KÍNH TÂN TRANG ( kể lại mối tình của Phạm Thái và Trương Quỳnh Như) mà thi sĩ Bùi Giáng có đề cập trong bài thơ RƯỢU UỐNG:
"Thưa em rượu uống bây giờ
Là thiên cổ lụy còn trơ bên mình
Tài hoa tiếng vọng điêu linh
Phạm Đan Phượng chết theo Quỳnh Như sao" (BÙI GIÁNG)
Chiêu Lì Phạm Thái cũng nổi tiếng với bài thơ yết hậu sau:
"Sống ở nhân gian đánh chén nhè
Chết xuống âm phủ cắp kè kè
Diêm vương phán hỏi mang gì đó?
Be!"
NHƯ VẬY PHẠM THÁI CHẮC CHẮN KHÔNG CÓ TÊN TRONG CUỐN THI NHÂN VIỆT NAM CỦA HOÀI THANH HOÀI CHÂN ( CHỈ GHI NHỮNG THI NHÂN VN TIỀN CHIẾN, THẾ HỆ HẬU SINH CỦA PHẠM THÁI. TRONG CUỐN SÁCH VỪA NÊU CÓ THI NHÂN PHẠM HẦU VỚI BÀI THƠ TIÊU BIỂU "VỌNG HẢI ĐÀI"
CHÚC VUI!
Bài thơ ĐỀ TRANH MỸ NỮ của Phạm Thái làm theo thể thuận nghịch độc. Cái đặc biệt của bài thơ ĐỀ TRANH MỸ NỮ là đọc xuôi là thơ THUẦN VIỆT, đọc ngược là bài thơ HÁN VIỆT, được Phạm Thái chuyển ngữ một cách rất tài hoa, nhưng tứ thơ , hồn thơ vẫn không thay đổi, có khác biệt với các bài thơ thuận nghịch độc Thuần Việt thông thường.
Chúc vui!
Tôi ngại không viết dài như anh
sợ người đọc không đọc
Bài này:
http://xuandaocz5.blogspot.com/2013/06/nao-cung-giai-phau-bai-tho.html
Nếu viết đầy đủ sẽ thành trên năm chục bài vì:
Riêng bốn câu bảy chữ đã là 5 bài:
từ 5 bài đó cắt bớt chữ: cắt 1, cắt 2,cắt 3, cắt 4, Lấy chữ đầu + 2, 3, 4 chữ cuối....v.v....
Cám ơn anh tôi sẽ học hỏi được nhiều qua entry này
Chúc anh ngủ ngon!
Bác thật dày công khi làm thể thơ đọc nhiều cách như vậy. Chúc ngày mới vui nhiều nhé! :-h
Năm ngoái em có đọc entry này của Thầy, và về làm đôi dòng lóc cóc này nhân một ngày bị ốm...Nếu lật lại thì cũng ra hình tam giác Thầy nhỉ?:)...Kính chúc Thầy và gia đình cuối tuần vui thật nhiều ạ!
ỐM
-----
Ốm
Mệt nhoài
Nằm sống xoài
Toàn thân ê ẩm
Người thân đi vắng hết
Không ai hay, không ai biết
Tủi..buồn...đau...lệ đẫm hoen mi
Gượng dậy.. a lô... xin nghỉ coi thi
Rồi lại nằm li bì cả một buổi sáng
Cổ họng khô rát...toàn thân nóng ran...mê man
Tỉnh giấc ...cơn khát dày vò...bờ môi khô
Bật dậy...tìm nước...ừng ực hơi dài
Cơn hạn gặp mưa...cơn đau lắng
Cồn cào...cơn đói...hoàng hành
Thèm quá bát cháo hành
Không ai nấu cho
Lòng buồn so
Co ro
Ngủ
Clover khá lắm, kiểu này sẽ vượt thầy ngay tắp lự đó mà! :D
Chúc ngủ ngon! I-)
Một bài sưu tầm và biên tập thật công phu - mang đến cho người đọc sự lý thú về thơ Việt Nam . Cảm ơn anh Thaydo nhé ! chúc mùa Trung Thu ấm áp và hạnh phúc . Thân mến . :bh
Rất vui khi có sự chia sẻ và đồng cảm của Khúc Thuỵ Du! Chúc mùa Trung Thu đầy ý nghĩa! :-h
Toàn những cao nhân làm thơ không hay sao được.... thơ kiểu như mình vẫn làm tự do thì đọc và làm cho vui thôi... hiiiiiiiiiii
Phú Đoan nghiên cứu thơ hay thật, rất bổ ích, ý nghĩa với người yêu thơ...
Chúc một đêm ngon giấc để tinh thần giành cả cho thơ 1
Bạn mưa rừng chiều ghé thăm và ghi cảm nhận làm mình vui lắm! Chúc tối ngủ ngon nhé! :bh
GOOD NIGHT!
[img]http://images.yume.vn/wall/20130825/thaydo09/source/1377443466_goodnightimagesScraps38.gif[/img]
Hay lắm, nhưng rất mất thời gian DP à
Mất thời gian thật, nhưng cũng là một cái thú vui khi sưu tầm và biên tập lại, bác Lê Vân à! Đầu tuần vui nhiều bác Vân nhé!
[img]http://images.yume.vn/wall/20130916/thaydo09/source/1379288181_NEWWEEK1.gif[/img]
NHi thăm Thầy và chúc ngày mới nhiều an lành ạ.
Tuần mới vui thật nhiều nhé! :bh
thôi thì đọc để biết ... chứ học thì khó quá
hihihi chỉ biet làm thơ tân thời...
Bạn TIẾN TRÚC ghé thăm làm mình vui thật. Ngày mới an lành nhé! :bh
Thật là công phu
đây là một cách lam thơ mà không phải aicũng theo được
Cám ơn bài sưu tầm công phu thật tuyệt
Được HẠT CÁT BÀ BÀ khen thì thích thật hè! :D
Chúc BÀ BÀ Chủ nhật tươi hồng hí! :bh
BAI SUU TAM CONG PHU HIIIII...MINH DANG TINH LAM THU MOT BAI XEM SAO ...LAM CAI HINH VUONG THO 7 CHU 8 CAU LA CHAC AN
U KO CHAC LA HINH...CHU NHAT
Ờ! Mình chờ loại thơ hình của bạn nhé! Chúc tối ngủ ngon!
[img] http://images.yume.vn/wall/20130810/thaydo09/source/1376146599_goodnight172.gif[/img]
Quá công phu!
Ngày mới vui nhiều bác Ngũ Hồ nhé! :bh
Đăng nhận xét