BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2024

NGĂN SÔNG, CẤM LŨ Ở ĐỒNG BẰNG NAM BỘ VÀ DƯ HẠI - Bs Phạm Ngọc Thắng



Bức ảnh này của tác giả Trung Chánh có chú thích: Cần đưa lũ quay lại những đồng ruộng lúa ba vụ không còn hiệu quả... được đăng trên tờ Kinh tế Sài Gòn online với chuỗi ba bài báo có tiêu đề: Miền Tây sau một thập niên đi theo lúa ba vụ.
 
Ba bài báo liên tiếp chỉ ra thất bại của chủ trương: Đê điều hóa Đồng bằng sông Cửu Long với tham vọng Trị thủy, loại bỏ Lũ ra khỏi đời sống Delta Mekong.

Chủ trương này có thể tóm gọn trong mấy chữ: Đắp đê, vắt kiệt đất mặt đồng ruộng; thâm canh, chuyên canh bằng đủ loại cây con... bắt đất nuôi cây con 365/365 ngày không ngừng nghỉ.

Kết quả:

- Không còn lũ về mặt ruộng- không còn nguồn phù sa bổ sung dưỡng chất, không còn nguồn nước rửa cuốn trôi sạch sâu bệnh.
- Cây trồng hút hết sạch dinh dưỡng từ đất, đất bạc màu thành đất trơ.
- Cây bây giờ sống bằng phân hóa học, bằng hóa chất... là chủ yếu.
Hệ lụy nhiều lắm, thảm hại lắm lắm cộng với việc thiếu nước đầu nguồn hàng năm, dẫn tới ngập mặn tới tận Tây ninh, đồng ruộng đang suy kiệt đến tàn tệ. Suy kiệt đến mức độ nào, chẳng nói ra, ai cũng tự hiểu và hiểu rất rõ.

TRĂNG THU – Thơ Lê Phước Sinh


   
 

TRĂNG THU
 
Vầng Trăng rụng lá
bọn trẻ thẫn thờ.
Cốm mới toe toét
Lũ cuốn xa bờ.
 
Cuội khóc mếu máo
cây Đa trốc gốc
(cứ tưởng ngậm Trầm)
Cô Tiên huyền hoặc
kể chuyện ngàn năm.
 
Ù ơ...
đường dài ngái ngủ giấc mơ.
 
                    Lê Phước Sinh

Thứ Ba, 17 tháng 9, 2024

THƯƠNG NHỚ HOÀNG LAN - Truyện ngắn của Trần Thùy Mai

Nhà văn Trần Thùy Mai tên thật là Trần Thị Thùy Mai, sinh ngày 8 tháng 9 năm 1954 tại Hội An, Quảng Nam. Quê quán: làng An Ninh Thượng, xã Hương Long, huyện Hương Trà, (nay là phường Hương Long, Thành phố Huế), tỉnh Thừa Thiên Huế.
Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng. Tốt nghiệp Tú tài 2 từ 1972, chị thi đậu thủ khoa môn văn Đại học Sư phạm Huế. Sau 1975, chị học tiếp Đại học Sư phạm. Năm 1977, sau khi tốt nghiệp, Trần Thùy Mai được giữ lại trường, làm công tác giảng dạy và nghiên cứu môn Văn học dân gian. Năm 1987, chị quyết định chuyển sang làm biên tập viên ở Nhà xuất bản Thuận Hóa. Với lối rẽ này, Trần Thùy Mai đã chọn nghiệp viết làm con đường đi cho riêng mình.
Trưởng thành cùng thế hệ với Lý Lan, Nguyễn Thị Minh Ngọc ở Sài Gòn, những người cầm bút đầu tiên sau chiến tranh. Có thể nói, đây chính là thế hệ dò đường đi tìm những đề tài hậu chiến. Tính từ truyện ngắn đầu tay "Một chút màu xanh" in trên Tạp chí Sông Hương đến nay, nữ nhà văn người Huế này đã có trên 30 năm cầm bút với hàng trăm tác phẩm truyện ngắn được nhiều thế hệ bạn đọc yêu mến. Trong đó, một số truyện ngắn nổi tiếng như: Gió thiên đường, Thập tự hoa, Quỷ trong trăng, Thương nhớ Hoàng Lan, Mưa đời sau, Người bán linh hồn, Trăng nơi đáy giếng, Thị trấn hoa quỳ vàng... của chị đã được dịch sang tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Nhật...
 
Nhà văn Trần Thùy Mai

Tôi sinh ra dưới một mái chùa. Nghe kể rằng sư phụ tôi khi ấy còn trẻ, một hôm đi ngang bỗng động tâm hỏi: “Mô Phật, sao sau chùa lại phơi tã lót?” Nghe chuyện đời cha tôi, thầy bảo: “Hãy nhớ ngày này. Nếu có cơ duyên, mười năm sau ta sẽ trở lại”. Trở về thầy bỏ tăng viện, lên một ngọn núi hẻo lánh trong rú xa, dựng mấy nếp nhà cổ. Từ ấy, thầy ẩn tu, hiếm khi xuống núi.

Thứ Hai, 16 tháng 9, 2024

VỀ TÂM BÃO LŨ ĐI QUA – Thơ Võ Văn Hoa


   

 

 VỀ TÂM BÃO LŨ ĐI QUA
 
 Những chuyến xe không đồng
Những chuyến hàng ra Bắc
Từ trái tim đến trái tim
Máu chảy ruột mềm!
 
 Những chuyến xe ngày đêm
Những thùng hàng kịp đóng
 Đêm nay sôi động
Chị em chung tay phân từng gói quà
 
 Trên tuyến đường Nam Bắc
Những quán ăn không đồng
Những nhà nghỉ không đồng
Trao gửi niềm tin yêu
 
 Hai chữ Đồng bào!
Hơn bao giờ hết
Sống chết có nhau
Hoạn nạn có nhau!
 
Đau thương làng Nủ
Đau thương vùng bão lũ
Dòng máu Lạc Hồng
Tâm đồng bên nhau
      
             14.9.2024       
           Võ Văn Hoa

HAPPY TẾT TRUNG THU – Thơ Trần Vấn Lệ


  


HAPPYYYY TẾT TRUNG THU
 
Chưa Rằm Trung Thu mà đã Tết!
Chợ nào cũng bán bánh Trung Thu!
Chợ Tàu, chợ Việt...hàng năm Tết,
Chợ Mỹ, Trung Thu cũng...nụ cười!
 
Người Mỹ ngạc nhiên: "Sao Tết nhỏ
mà toàn người già mua bánh thôi?"
Mình không đáp được, cười vui vậy!
Mình cũng mua mà! Mua... để chơi!
 
Dạo một vòng quanh vài chợ Tết
Lòng nghe non dại... bỗng bây giờ!
Trăng không hiển hiện nơi quang đãng
Vẫn sáng trong lòng những ý Thơ!
 
Hộp bánh đem về, vui cả nhà...
Cháu con đứng ngắm cái hình hoa,
hình trăng, hình thỏ, hình chim lượn,
Không mắt đứa nào không ngó qua...
 
Hộp bánh, bàn thờ, nơi cúng kiếng...
Ông Bà, Cha Mẹ cõi âm ơi...
Làn hương, làn khói, lòng thương nhớ,
Ấm nhé coi như có mặt trời!
 
Nói Tết là vui! Năm mấy Tết,
Nếu nhiều hơn nữa: Hội Nhân Gian!
Hòa Bình, vui chớ? Ai không muốn?
Đồng nghĩa Hòa Bình là Hân Hoan!
 
Tôi vào bàn gõ vài con chữ,
đã thấy bài thơ Ngày Trung Thu!
Tôi thương tôi lắm đời xa xứ
Buồn chút: Quê Hương  cõi mịt mù!
 
                                        Trần Vấn Lệ

Thứ Bảy, 14 tháng 9, 2024

BÀI THƠ NÀY TÔI NHẮC TỚI YÊN THAO – Thơ Trần Vấn Lệ


   

BÀI THƠ NÀY TÔI NHẮC TỚI YÊN THAO
 
Có lẽ cũng đã mười hôm rồi nhỉ?
Mình không thơ.  Mình chẳng có bài thơ!
Cũng tại Trời!  Ai biểu chớ không mưa?
Nắng ba tháng chưa cháy hết rừng, thật uổng!
 
Tôi nói lảng?  Tôi nói mê?  Tôi không biết ngượng
với em sao? - Người yêu quý ngọt ngào.
Anh muốn em là cờ có một ngôi sao
anh chấm dấu nặng, anh nói mình "sạo ơi là sạo"
 
Cờ ba que... hỡi ơi con sáo
nó sổ lồng nó bay sang sông!
Em dễ thương ghê!  Hồi đó má em hồng
trăng tháng Chạp có một vòng ngũ sắc!
 
Ôi câu thơ này - câu thơ đẹp nhất
Rồi cả bài thơ, em có thật của anh...
Của một thời tóc xanh...
Long lanh long lanh hai con mắt!
 
Anh tưởng tượng em:  Một Người Không Biết Mặt,
không biết tên - chỉ biết em-tuyệt-vời
Em chưa bao giờ đi có một đôi
em trinh nữ, nụ hoa cười chúm chím!
 
Ít có họa sĩ nào ưa dùng màu tím,
chỉ có một nhà thơ thấy tím gọi Trời Ơi!
"Tim tím khung cầu tim tím núi
Trời ơi!  Nhiều tím quá em ơi!"
*
Nhà thơ Yên Thao nghe nói chết bên đồi
hoa lau nở khi người thơ hết thở,
hoa lau nở cho muôn đời muôn thuở,
gió rì rào thì thào nao nao nao nao...
 
Bài thơ này, anh nhắc tới Yên Thao,
anh nhớ em, cái thuở nào em-áo-tím
dốc Bà Trưng em thành kỷ niệm:
Đà Lạt của anh... suối tóc em dài...
 
                                  Trần Vấn Lệ

MỘT ĐÔI (2 OF 2) - Pictures by Quách Như Nguyệt

     
     

HẾT ĐÔI HẾT CẶP

Anh và em một đôi, một cặp
Hai con chim trên cành cũng một cặp, một đôi
Hai chiếc dép đâu thể nào thiếu một
Đôi dép mà… thế mới gọi là đôi
Hầu hết muôn loài đều có đôi, có cặp
Thế cho nên em chẳng thể thiếu anh
Không có anh, ai an ủi dỗ dành?
Ai hiểu em, ai thương, ai hiền lành chăm sóc?
Đời buồn lắm, một mình ngồi chải tóc
Em sẽ buồn, sẽ khóc ngất anh ơi…
 
Anh và em giờ hết đôi hết cặp!
Anh và em giờ xa cách lạnh lùng!
Anh và em như chim kia lẻ bạn
Bản nhạc chùng buồn bã những âm vang
Anh và em buồn ngày một leo thang
 
Không còn ở bên nhau, không một đôi, một cặp
 
Thắp nến lên … ôi quạnh hiu, buồn bã
Em bây giờ ngồi nhớ tháng ngày qua…
 
                                           Như Nguyệt

NGƯỜI YÊU CỦA ĐỜI ANH – Thơ tình Khê Kinh Kha




Người Yêu c
ủa Đời Anh
(dch t "A Love of My Life" by khêkinhkha)
 
Em yêu quý,
Đã rất khuya rồi; mọi thứ quanh đây đều im lặng ngoại trừ tiếng mưa rơi bên ngoài, trên mái nhà, trên cành cây và trên mặt đất. Cô đơn đang chiếm lấy tâm hn anh, và anh khao khát sự ấm áp của tình yêu dịu dàng mà em đã trao cho anh kể từ khi chúng ta yêu nhau hơn năm năm trước đây. Tình yêu mà trước đây anh chưa bao giờ cảm đưc trong cuộc đời mình. Tình yêu mà anh không thể diễn tả bằng lời. Nó chỉ là một cảm giác, một cảm giác sâu lắng trong tâm hồn, trong suy nghĩ và trong mọi khoảnh khắc của cuộc sống thường ngày của anh. Em hiện diện trong mọi thứ mà anh có. Mỗi khi nghĩ về em, anh luôn cảm ơn Chúa đã gửi thiên thần của Ngài xuống thế gian và trở thành một phần của cuộc đời anh. Anh sẽ không bao giờ quên rằng mình đã may mắn thế nào kể từ ngày chúng ta yêu nhau.
Anh ước mình có thể làm thơ như em, để có thể bày tỏ cảm xúc của mình với em trong một bài thơ tình.
Đã thực sự lâu như vậy rồi sao cưng yêu? Dù anh biết thi gian qua nhanh, nhưng anh vn cm thy thật kỳ diệu khi cuộc sống của anh đã thay đổi kể từ ngày anh gặp em tại buổi ký sách  Barnes & Noble. Từ xa, anh đã ngưỡng mộ mái tóc dài, đen bóng của em chảy xuống vai và kết thúc ở đâu đó sau lưng. Đôi mắt to của em, màu đen pha lẫn xám, rất khác biệt đối với phụ nữ phương Đông. Khi em ngước lên nhìn anh từ bàn ký tên, anh cảm nhận được sự kỳ diệu trong đó. Đôi mắt ấy thực sự đã ht hn anh. Anh còn nhớ em đã hỏi anh vài lần em nên ký tên quyển sách cho ai trước khi anh có thể trả lời: “Cho Joe, không… Ý anh là “Cho Nam, với tình yêu…” Em mỉm cười, viết và ký tên... Rồi em nói, “Em thích tên anh, anh trai em cũng tên Nam, nghĩa là Việt Nam…” “Anh cũng vậy, bố anh đã đặt cho anh tên Việt Nam. Ông ấy yêu Việt Nam. Ông ấy đã ở đó vào cuối những năm 60”.
 

Thứ Sáu, 13 tháng 9, 2024

RAU TẦN, RAU TẢO CÓ PHẢI LÀ ĐỒ CÚNG TẾ NGÀY XƯA Ở TRUNG HOA KHÔNG? La Thụy sưu tầm và biên tập


                                        Một loại rau Tần: 
Rau bợ nước

Tôi chia sẻ STT “Nguồn gốc hai chữ ‘tảo tần’ của trang face “Chiết tự chữ Hán” vào trang face của tôi. Nội dung phần đầu của STT đó như sau:
 
  “ ‘Tảo tần’là một từ để chỉ đức tính đảm đang, chịu thương chịu khó, thường là của phụ nữ. Nhưng nguồn gốc của từ này là như thế nào?
‘Tảo tần’, chữ Hán viết là 藻蘋, trong đó:
     - TẢO  là rong rêu, chỉ chung các thứ cỏ mọc ở dưới nước. Như “hải tảo” 海藻 là rong biển.
     - TẦN  còn đọc với âm "bình", có lẽ TẦN là một loại rau lục bình nổi trên mặt nước, ta thường gọi là bèo.
 Như vậy, ‘tảo tần’ là rau tảo và rau tần. Người xưa dùng rau tảo và rau tần để dâng lên cúng tổ tiên. Hái rau tảo và rau tần là việc chuyên trách của người phụ nữ xưa. Rau tần thường mọc hoang dại bên bờ suối, còn tảo thì sinh trưởng trong lòng suối như các loại rong, cả hai đều không dễ mà hái được. Do đó người vì đạo hiếu với tổ tiên mà lặn lội đi tìm rau tảo rau tần là người đảm đang, đáng khen ngợi.....”
 
Khi tôi chia sẻ bài này lên trang face của tôi, nhiều bạn vào ghi còm, khen chê và thắc mắc đủ cả. Đặc biệt có một bạn ghi còm như sau:

“Đúng là lươn lẹo suy luận cách ngờ nghệch khi tần, tảo là những thứ rau cỏ mọc hoang kém giá trị mà dám bảo đem về thờ cúng !”.
 
Tôi trả lời bạn ấy:

“Những rau cỏ mọc hoang trong thiên nhiên đâu phải là những thứ kém giá trị, có khi là thảo dược quý hiếm có giá trị rất cao như: đông trùng hạ thảo, nhân sâm, linh chi... mà người ta săn lùng đỏ mắt và đang cố gắng đem về trồng trong vườn nhưng sản phẩm thu hoạch do người trồng có phẩm chất không bằng sản vật trong thiên nhiên.
TẢO và TẦN mà người phụ nữ Trung Hoa xưa vất vả tìm kiếm và thu hái để cúng tế, hẳn là loại TẢO và TẦN đặc biệt có ý nghĩa và giá trị cao chứ đâu phải thứ tảo và tần vô giá trị, bạ đâu vơ nấy...”
 

Thứ Năm, 12 tháng 9, 2024

MÙA THU – APOLLINAIRE – BÙI GIÁNG – PHẠM DUY - HOA THẠCH THẢO - La Thụy sưu tầm và biên tập


                 

Sắc màu thu đã gieo nhiều cảm hứng cho hồn thơ tứ nhạc. Nhiều bài thơ, bản nhạc viết về THU dù đã trải qua bao năm tháng phôi pha vẫn in đậm nét trong lòng người thưởng lãm. Là người yêu nhạc (loại nhạc có air “bán cổ điển”), ai mà không thuộc các bản “Buồn tàn thu” của Văn Cao, “Giọt mưa thu”“Đêm thu”, “Con thuyền không bến”… của Đặng Thế Phong , “Thu quyến rũ” của Đoàn Chuẩn Từ Linh , “Thu vàng” của Cung Tiến, “Em ra đi mùa thu” của Phạm Trọng Cầu, “Chiếc lá thu phai” của Trịnh Công Sơn , “Mùa thu Paris” của Phạm Duy, “Thu hát cho người” của Vũ Đức Sao Biển, “Thu ca” của Phạm Mạnh Cương v.v… Đặc biệt, bản “Mùa thu Chết” của Phạm Duy, bản nhạc hay nhưng có nhiều thắc mắc về xuất xứ của ca từ.
     
Bản nhạc này lấy ý của bài thơ “L’ADIEU” của Guillaume Apollinaire, điều này có lẽ được nhiều người chấp nhận. Tuy nhiên lời Việt của bản nhạc “Mùa thu chết” thì không ít ý kiến cho rằng là do chính thi sĩ Bùi Giáng chuyển ngữ từ nguyên tác tiếng Pháp bài “L’ADIEU” nói trên, Phạm Duy chỉ phổ nhạc mà thôi. Để nhìn nhận cho khách quan, ta thử đối chiếu nguyên tác với bản dịch của Bùi Giáng và lời nhạc của Phạm Duy.
 
 a/ Bài thơ của Apollinaire:
 
           L'ADIEU
 
           J'ai cueilli ce brin de bruyère
           L'automne est morte souviens-t'en
           Nous ne nous verrons plus sur terre
           Odeur du temps brin de bruyère
           Et souviens-toi que je t'attends
 
           GUILLAUME APOLLINAIRE
 
b/Bản dịch của thi sĩ Bùi Giáng :
 
           LỜI VĨNH BIỆT
 
           Ta ngắt đi một cành hoa thạch thảo (*)
           Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
           Chúng ta sẽ không tương phùng được nữa
           Mộng trùng lai không có ở trên đời
           Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
           Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó...
 
                                                   BÙI GIÁNG
   (*) Câu này còn có dị bản:
 
          Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
 
c/ Ca từ trong bản “Mùa thu chết” của Nhạc sĩ Phạm Duy:
 
           MÙA THU CHẾT
 
           Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
           Em nhớ cho Mùa Thu đã chết rồi !
           Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
           Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
           Mùa Thu đã chết, đã chết rồi. Em nhớ cho !
           Em nhớ cho,
           Đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa!
           Trên cõi đời này, trên cõi đời này
           Từ nay mãi mãi không thấy nhau
           Từ nay mãi mãi không thấy nhau...
           Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
           Em nhớ cho Mùa Thu đã chết rồi !
           Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo
           Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em.
           Vẫn chờ em, vẫn chờ em
                 Vẫn chờ....
                                    Vẫn chờ... đợi em !
 
                                            PHẠM DUY    

RỜI BỎ CHỐN LAO XAO - Lời Như Nguyệt, nhạc Phan Hoàng Đệ, ca sĩ Hà Thảo trình bày


      


RỜI BỎ CHỐN LAO XAO
 
Em theo anh đi về phía mặt trời
Ở nơi đó tình mình không chao đảo
Ở nơi đó có mối tình diễm ảo
Thật êm đềm đời nhàn nhã, thanh tao
 
Em theo anh rời bỏ chốn lao xao
Em theo anh bắt đầu thiên tình sử
Sáng tư duy mình cùng nghe chim hót
Lúc ngồi thiền, lúc nhẩy nhót vui ghê
 
Hai ta cùng đọc sách ngâm thơ
Cùng nghe nhạc, anh đàn cho em hát
Dẫu mùa hè trời gió êm dịu mát
Cùng xem phim đời vui quá anh ơi!
Đời sống mình nhàn nhã thảnh thơi
Đời đẹp quá ta sống trong tỉnh thức
 
Em theo anh, là thật, chẳng ước ao
Quẳng vất hết mình sống đời ẩn dật
Buông bỏ hết, vẫy tay chào quá khứ
Bỏ sau lưng dẫu dĩ vãng ngọt ngào!
 
Em theo anh, gật đầu không ngần ngại
Chuyện ngày mai mình hãy để ngày mai
Em yêu anh chẳng thể nào chối cải
Em yêu anh, tình vững chải hoài hoài
 
Thật đó anh, chẳng phải là mơ ước
Sống trong mơ, em sống đã nhiều rồi
Thật đó anh, mình cùng nhau đi nhé
Phía chân trời mình dìu dắt nhau đi
 
Em theo anh, mình ra ngoài sa mạc
Sống lẻ loi nhưng lại thấy yên bình
Có hai ta và căn nhà trống vắng
Dòng suối hiền róc rách chẩy vây quanh
 
Em theo anh, mình sống ở rừng già
Sáng sớm nghe chim ca và vượn hú
Chung quanh ta cổ thụ xanh xanh biếc
Khỉ chuyền cành xốn xáo lúc bình minh
 
Sẽ theo anh...
Em theo anh đến bất cứ nơi nào
Ở bên anh chỗ nào cũng ngọt ngào
Chốn thôn quê, vùng núi đồi hùng vĩ
Giấc mơ em thật nhỏ nhoi giản dị
 
Ấy thế mà… nào có được đâu anh?!...
 
                         Quách Như Nguyệt 

BIỂN SÓNG TÌNH SẦU - Nhạc và lời Khê Kinh Kha, Diễm Phượng, Hoàng Quân trình bày

  
     


BIỂN SÓNG TÌNH SẦU

biển khóc
cho con sóng về
biển nhớ
tên em gọi thầm, biển thương
còn nhớ
nơi đây đôi chúng mình
trên bờ biển vắng
còn nhớ
 
nơi đây đôi chúng mình bên nhau
đôi chúng mình yêu nhau
như sóng gào đại dương
như sóng gào
mình yêu nhau
 
biển cát nơi đây giờ quá buồn
con sóng về đưa cát ra khơi
muôn sóng gào khóc gọi tên ai
buổi sáng mây qua gọi gió về
tình đôi ta như cánh bườm xa
giờ còn đây biển sóng bao la
trên bãi cát vàng
con óc buồn rơi lệ trong đêm
 
biển sóng
mênh mông ngập lối về
trên bờ biển vắng
thành phố hôm nay vắng anh rồi
ngàn sóng ra khơi
tình đôi ta như bọt biển trôi
 
biển sóng mây trôi
tình đôi ta như cánh chim trời
mù khơi
tình đôi ta như biển vắng buồn
nghìn năm
 
                          Khê Kinh Kha