Nhà nghiên cứu Hoàng Tuấn Công đã có bài vạch trần lỗi sai thô thiển của "Vua tiếng Việt" trên VTV, đơn cử là chương trình nói về thành ngữ “Nếm mật nằm gai” (phát sóng ngày 18/10/2024).
“Nếm mật nằm gai”, hay “Nằm gai nếm mật” đúng là có nói về những “cái việc khổ sở, cái điều khó khăn, cực nhọc”. Tuy nhiên, đây là một câu thành ngữ gốc Hán, xuất phát từ điển cố, điển tích cụ thể, bởi vậy, muốn hiểu và dùng cho chính xác thì phải biết được nguồn gốc của điển cố, điển tích.
Khi vua Ngô bị ốm nặng, để tỏ lòng trung, Câu Tiễn thường tự nếm phân vua để đoán biết bệnh tình. Khi được vua Ngô tin tưởng và thả về, Câu Tiễn không sống trong an nhàn mà tự đày ải thân mình, thường nằm trên củi khô lởm chởm, cỏ gai sắc nhọn, lại hằng ngày nếm mật đắng để tự nhắc nhở không quên chuyện cũ, nung chí phục thù. Sau mười năm trời khổ công chuẩn bị lực lượng, Câu Tiễn nhiều lần xuất binh, và cuối cùng đánh bại quân Ngô, vua Ngô Phù Sai dù được tha mạng sống nhưng cuối cùng đã tự sát trong hổ thẹn.
Về sau “Ngoạ tân thường đảm” - 臥薪嘗膽 – “Nằm gai nếm mật” được dùng với nghĩa: Tự đày ải thân mình để nuôi chí phục thù; Chịu đựng mọi gian khổ, quyết mưu đồ việc lớn.
Toàn là gương mặt các nhân vật lịch sử mưu đồ việc lớn cả!
Thật khó hiểu. Cả một ê kíp hùng hậu của Vua Tiếng Việt, “tiền kì”, “hậu kì” đủ cả mà không ai nhận ra cái lỗi sai thô thiển đó.
(7/12/2024)
*
Nguồn:
https://www.facebook.com/100005287573458/videos/593394433076982
ĐÔI LỜI ĐÁP LỄ VỚI BÁC VĂN CHINH ĐINH VÀ BẠN ĐỌC
Hoàng Tuấn Công
Tôi có đọc bài của bác Văn Chinh Đinh trao đổi về bài
viết “Nông
dân nào nếm mật nằm gai” của
tôi, và thấy không cần trao đổi lại.
Tuy nhiên, một số độc giả vẫn gửi câu hỏi
đến và đề nghị tôi có bài
trả lời. Bởi thế, tôi xin có đôi lời, gọi là đáp lễ với
bác VCĐ và
bạn đọc.
Trong bài “MẤY CÂU VỀ BÀI NÔNG DÂN NÀO NẾM
MẬT NẰM GAI
CỦA HOÀNG TUẤN CÔNG” bác Văn Chinh
Đinh (VCĐ) cho rằng, Hoàng Tuấn Công (HTC) “khi đi tiếp về
nghĩa gốc – từ nguyên thì có
chỗ cần bàn lại”.
https://www.facebook.com/permalink.php...
Vậy bác VCĐ “bàn lại” những gì?
1. Trong bài viết, tôi dẫn tích Việt vương Câu Tiễn tự chịu
khổ nhục
để nuôi chí báo thù, nhưng VCĐ cho rằng “Không phải, đó không
phải gốc
của thành ngữ, đó chỉ là một ví dụ về thành ngữ mà thôi”
(hết trích).
Tuy nhiên, đâu mới là “gốc” thì bác VCĐ không chỉ ra
được.
Rất mong bác công bố chứng cứ để tôi và độc giả được
thấy tích
Việt vương Câu Tiễn “Nằm gai nếm mật” vốn được ghi chép, lưu
truyền tự
cổ chí kim trong hàng ngàn thư tịch của Trung Quốc và
Việt Nam bị đánh đổ hoàn
toàn.
2. Tôi viết: “Điển tích thành ngữ “Nằm gai nếm mật” (gốc
Hán
Ngoạ tân thường đảm; ngoạ 臥
= nằm; tân 薪 = củi khô, cỏ
gai dùng để đun nấu; thường 嘗
= nếm; đảm 膽 = mật đắng của
động
vật)”.
Bác VCĐ cho rằng “khi giảng về từ nguyên của thành ngữ”
HTC
lại “sai tiếp”, vì “Củi khô không thể = có gai [cỏ gai?] Trong các
cây củi
có thể có cây có gai, nhưng củi khô không thể nào có nghĩa
là có gai [cỏ gai]
được” (hết trích).
“Tân” có phải là củi khô, cỏ gai hay không,
ngay sau đây sẽ là dẫn
chứng:
Khi giải thích câu “Ngoạ
tân thường đảm”, Hán điển đã chú giải rõ
ràng chữ “tân” 薪 có nghĩa là “sài thảo” 柴草.
Mà “sài thảo” 柴草
là gì? Cả Hán điển
và Hán ngữ đại từ điển đều giảng “sài thảo” là
“dụng tác nhiên liệu đích thụ chi, tiểu mộc hoà tạp thảo đẳng. Diệc
chỉ
trang giá đích hành, diệp -用作燃料的樹枝,小木和雜草等.亦
指莊稼的莖,葉”,
nghĩa là:
1. Chỉ
cành cây, cây nhỏ, các loại cỏ tạp dùng làm nhiên liệu đun nấu.
2. Các loại phụ
phẩm, phế phẩm như cành nhánh, thân cây, rơm rác
của nhà nông sau khi thu hoạch,…
Thực ra, bản thân chữ “tân” 薪 cũng đã có nghĩa là “củi”, “cỏ” rồi.
Điều này dễ hiểu
vì tân (củi, nhiên liệu đun nấu nguồn gốc thực
vật), thì được hiểu với nghĩa rất
rộng, bao gồm rất nhiều thứ, trong
đó có cả cành cây lẫn các loại cây thân thảo,
rơm rạ, các loại cây
gai mọc thành bụi, chứ không dứt khoát phải là cây, cành
thân gỗ.
Theo đây, Việt vương Câu Tiễn đã chủ ý dùng các loại củi có cành
nhánh
lởm chởm gai góc, các loại cọng cỏ, rơm rác tạp nham trải
xuống làm đệm ngủ,
khiến sự nhọn sắc của nó làm cho giấc ngủ
không được yên, đặng luôn trằn trọc
nhớ đến nỗi nhục bại trận mà
quyết chí báo thù.
Cũng cần nói thêm, là tất cả các tranh minh hoạc tích
truyện “Nằm
gai nếm mật” của Trung Quốc
đều vẽ Việt vương Câu
Tiễn nằm/ngồi lên cái nệm trải bằng những cành nhánh củi
khô gồ
ghề lởm chởm, cỏ gai xù xì.
Thành ngữ tục ngữ cần ngắn gọn, bởi thế từ ngữ trong
đó đôi khi
phải được hiểu với nghĩa mang tính quy ước, trong khi chữ “tân” đã
đảm
đương quá tốt việc gánh nghĩa trong câu rồi, và theo tôi không
cần phải bàn cãi
gì thêm.
3.
VCĐ viết tiếp: “Tôi ngờ rằng, xuất xứ [từ nguyên] của
thành ngữ
tiếng Việt đúng là từ câu “Ngọa tân thường đảm” nhưng viết chữ
“tân”
khác chữ tân ông Công viết. Chữ ông Công viết thì hẳn có cơ
sở từ Từ điển từ
nguyên chữ Hán. Nhưng cách làm việc với chữ
Hán của người Việt thì khác.
Xưa thầy đọc và viết chữ mẫu cho học trò cũng từ sách
chữ Hán,
nhưng theo cách hiểu của thầy [“tận tín ư thư bất như vô thư”] trò
thì
lại “vọng âm đoán chữ” [nghĩa] chứ cũng thường không có sách
GK. Thầy – trò mỗi
người xê dịch một chút, câu 臥薪嘗膽
dần
chuyển thành 臥辛
[hoặc 津]嘗膽. Tân viết thành 辛 = cay; viết
thành 津
= bờ, bến đều sẽ trực tiếp chuyển nghĩa đến thành ngữ
này. 辛 đúng hơn, vì nó đối chằn chặn với đắng (mật) 津 xa hơn
một chút, nhưng nó cũng dễ dẫn đến “nằm bờ, ngủ
bụi’ và vì là bờ
bụi thì nhiều gai hơn là củi khô. Đưa nằm trên củi 臥薪 = nằm trên
khấp khểnh, nó ép làm đau thân
người ngủ đến nghĩa “nằm gai” thì
gượng ép vô cùng. Mọi gượng ép bất thành khẩu
ngữ [thành ngữ].
cùng có nghĩa = củi nhưng 薪
lại còn có nghĩa là tiền lương. Vì vậy,
trong Vua tiếng Hán lẫn Vua tiếng Việt
với thành ngữ trên, viết là
辛 đúng hơn dù viết là 辛
hay 薪 đều ghi điểm” (hết
trích).
- Xưa kia học trò được được thầy chữ Nho dạy rất kĩ. Đặc
biệt các
điển cố, điển tích trong kinh sách thì thầy cắt nghĩa từng chữ, học
trò thông hiểu làu làu, chứ đâu phải chuyện thầy đọc một đằng trò
hiểu và chép
một nẻo. Điều này xuất phát từ thực tế, là lối văn xưa
chuộng tầm chương trích
cú. Một bài thơ, bài văn có được đánh giá
cao hay không, phụ thuộc rất nhiều
vào việc người viết ra nó có vận
dụng điển cố điển tích được nhiều hay không. Bởi
thế, nếu đến cái
điển tích bình dân như “Ngoạ
tân thường đảm-Nằm gai nếm mật”
mà còn không biết chữ “tân” nghĩa là gì,
thì đó kiểu học hành của
học trò ngày nay, chứ sao có thể ví với các cụ ngày
xưa được.
- Nói học trò xưa “thường không có sách giáo khoa”, là
không
đúng. Vì sách giáo khoa của các cụ xưa kia chính là Tứ thư ngũ
kinh, các
sách về điển cố điển tích. Nếu không có sách in thì chép
lại mà học; chép lại
cũng là một cách học. Thế nên sách vở, kinh
sách truyền đời của các cụ xưa kia
không thiếu.
- Việc bác VCĐ “ngờ” hay tin rằng chữ “tân” trong “Ngoạ tân
thường đảm” có tự hình 辛
nghĩa là “cay”, vì cay “nó đối chằn chặn
với đắng” (để có thể hiểu thành “Nằm
cay nếm đắng”, hay “Nằm ớt
nếm mật”?) đó là quyền của bác. Tuy nhiên, tự mình
suy diễn, làm
cái việc cưỡng từ đoạt lí, đoán chữ vô căn cứ, rồi lại cho rằng
cái sự
nói có sách mách có chứng của người khác là “sai tiếp”, thì lại là
chuyện
hài hước.
- Bác VCĐ còn cho rằng, chữ tân 津 “(nghĩa là bờ, bến) xa hơn một
chút, nhưng nó cũng dễ
dẫn đến “nằm bờ, ngủ bụi’ và vì là bờ bụi
thì nhiều gai hơn là củi khô”.
Tưởng tượng thế nào đó là quyền của người viết. Tuy
nhiên, nên
nhớ là Việt vương Câu Tiễn “Nằm
gai nếm mật” ngay trong nhà
mình chứ không có chuyện ông ta ra bờ ra bụi nằm
để cho nó
“nhiều gai hơn là củi khô”.
Còn về sau, “Ngoạ tân thường đảm -
Nằm
gai nếm mật”, được dùng để ví với chuyện Việt vương Câu
Tiễn xưa kia tự đày
ải thân mình để nuôi chí phục thù; chịu đựng
mọi gian khổ, quyết mưu đồ việc lớn,
chứ không hẳn là cứ phải
“Nằm gai nếm mật”,
hay “nằm bờ nằm bụi” thật.
Ngay cả tích Việt vương Câu Tiễn cũng vậy. Chuyện ông
ta nằm
trên củi gai, nếm mật đắng, cũng chỉ mang tính biểu tượng, thể hiện
quyết
tâm nuôi chí báo thù, hoặc được người đời sau thêu dệt thêm
mà thôi. Không ai
ngây thơ tin đó là sự thật, vì nếu ngày nối ngày
tự đày ải từ ăn đến ngủ như vậy
thì lấy đâu ra sức khoẻ mà báo thù?
Thế nên, chữ “tân” Nguyễn Trãi dùng trong Bình Ngô đại
cáo chính
là chữ tân 薪
có nghĩa là củi, cỏ gai, đúng như điển tích chứ không
phải là chữ tân 辛 là cay hoặc tân 津
có nghĩa là bến, bờ như VCĐ
"ngờ rằng".
Việc “chuyển nghĩa” tân (củi) thành tân 津 (bến bờ), để nó “dễ dẫn
đến “nằm bờ, ngủ bụi’ và vì
là bờ bụi thì nhiều gai hơn là củi khô”,
là việc làm máy móc và buồn cười.
Tóm lại, với
trường hợp thành ngữ “Ngoạ tân thường đảm
- Nằm
gai nếm mật”, thì chữ nghĩa trên giấy trắng mực đen hãy còn sáng
rõ
như ban ngày, dẫn chứng nhiều vô kể. Bởi thế, theo tôi không
nên bỗng dưng đem
ra suy diễn đoán già đoán non kiểu thầy bói
xem voi, rồi vô tình lại góp phần
vào cái việc dĩ hư truyền hư của
Vua Tiếng Việt vốn đã quá đáng lắm rồi.
Hoàng Tuấn Công
(9/12/2024)
(9/12/2024)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét