“Tôi
làm thơ? Nghĩa là tôi yếu đuối quá! Tôi bị cám dỗ, tôi bị phản bội lại tất cả
những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật.”
HÀN MẠC TỬ
(Tựa Thơ điên, 1938)
Trong văn học Việt Nam hiện đại, Hàn Mạc Tử (1912 -
1940) là một tác giả được tôn sùng, hâm mộ. Năm 1942, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan
nhận xét: “Từ ngày Hàn Mạc Tử trừ trần đến
nay, mới khoảng hai năm trời mà người ta đã nói rất nhiều và viết nhiều về Hàn
Mạc Tử”. Còn tính tới lần giỗ thứ 60 của thi sĩ vào cuối thế kỷ 20 này,
hàng nghìn cuốn sách và bài báo trong lẫn ngoài nước đã đề cập đến tài năng yểu
mệnh ấy. Riêng các tác phẩm của Hàn Mạc Tử không những được chọn đưa vào chương
trình giảng dạy ở nhà trường, mà còn liên tục được ấn hành và... bán chạy. Thế
nhưng, vì lắm lý do, cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Hàn Mạc Tử vẫn tồn tại
hàng loạt “bí mật”, khiêu gợi trí tò mò đối với chúng ta. Thời gian qua, nhờ sự
nổ lực tìm kiếm của một số người yêu quý nhà thơ qúa vãng, bao điều “bí mật”
kia dần dần được “bật mí”. Bằng khối lượng tư liệu thu thập từ nhiều nguồn, loạt
bài này hy vọng sẽ cung cấp những thông tin mà bạn đọc chưa có thể nắm được đầy
đủ. TGM cộng tác viên gần xa góp phần bổ sung, hiệu đính bằng những chứng cứ
xác tín về Hàn Mạc Tử để chúng ta hiểu rõ hơn, đúng hơn thân thế và sự nghiệp của
một tài hoa đất Việt.
Kỳ
1: CHÍNH DANH ĐỊNH LUẬN: MẠC HAY MẶC?
Bấy lâu, phần lớn sách báo - Trong đó có giáo khoa
trung học và giáo trình đại học - đều ghi bút danh chính Nguyễn Trọng Trí là
Hàn Mặc Tử. Cạnh đấy, một vài tư liệu lại đề: Hàn Mạc Tử (không có dấu ﮞ). Vậy
nên thống nhất cách viết, cách đọc bút danh/ bút hiệu của nhà thơ sao cho chuẩn
xác?
Về vấn đề này, thiết tưởng cần tuyệt đối tôn trọng ý
muốn của chính bản thân tác giả. Sinh thời, Nguyễn Trọng Trí tự chọn bút danh
thế nào thì chúng ta hãy giữ nguyên thế ấy.
Khổ nỗi, suốt cuộc đời cầm bút, Nguyễn Trọng Trí ký
nhiều bút danh dưới các tác phẩm của mình. Thuở mới bước vào làng thơ, chàng ký
Minh Duệ Thị. Sau đổi ra Phong Trần. Rồi đổi thành Lệ Thanh. Kế tiếp là Hàn Mạc
Tử. Đó là bút danh chính, ngoài ra Nguyễn Trọng Trí cón ký bút danh phụ như Lệ
Giang, Sông Lệ, Foong Tchan (phiên âm chữ Phong Trần), P.T. (viết tắt chữ Phong
Trần)...
Thế
vì sao “Mạc” bỗng hoá nên “Mặc”?
Hãy nghe mẩu hồi ức do một bạn thân của Hàn thi sĩ là
nhà thơ Quách Tấn (1910 - 1993) thuật lại trên tạp chí Lành Mạnh số 38 (Huế,
1.11.1959, tr.18), sau đăng lại trên tạp san Văn số 73 - 74 (Sài Gòn, 7.1.1967,
tr.49):
“Hiệu Minh Duệ Thị ít ai biết. Tử nổi
tiếng với hiệu Phong Trần, nhưng sau khi Tử đã quen thân cùng tôi, một hôm nhân
vui miệng, tôi chê: “Tướng anh mảnh khảnh thế này, chịu sao nổi cảnh phong trần
mà ước?”. Một bà cụ thâm nho ở Bình Định cũng bảo rằng hiệu Phong Trần không hợp
với tánh tình của Tử. Bà khuyên Tử nên đổi lại hiệu khác. Tử bàn lấy chữ đầu của
sanh quán (Lệ Mỹ) và chữ đầu của Chánh quán (Thanh Tân), ghép lại thành hiệu Lệ
Thanh. Tử rất lấy làm vừa ý. Nhưng được ít lâu gặp Tử, tôi lại trêu: “Bộ anh
ngó “dễ thương” mà cái hiệu Lệ Thanh nghe cũng “yểu điệu thục nữ” quá! Âu tôi gọi
là “cô Lệ Thanh” cho thêm duyên”. Tử làm thinh. Nhưng ít lúc sau lại thấy hiệu
Hàn Mạc Tử. Hàn Mạc Tử là bức Rèm Lạnh. Tử cho là độc đáo, tìm đến khoe cùng
tôi. Tôi cười “Kể cũng ngộ thật! Tránh kiếp phong trần lại đi làm khách hồng
nhan. Sợ kiếp hồng nhan đa truân lại đi làm kiếp rèm lạnh. Tránh lờ chun vào lưới.
Sao mà lẩn thẩn quá thế?”. Tử đâm khùng: “Anh này thật đa sự! không biết đặt
“cái đếch” gì cho vừa lòng anh?”. Tôi đáp: “Đã có rèm thì thêm bóng trăng vào.
Hỏi còn cảnh nào nên thơ bằng?”. Tử hội ý, cầm bút vạch “vành trăng non” lên đầu
chữ A của chữ Mạc thành ra Hàn Mặc Tử. Chỉ thêm dấu á (ă) mà đổi hẳn ý nghĩa của
cả khóm chữ. Chữ Hàn thì trước kia nghĩa là Lạnh. Nhưng đi kèm với chữ Mặc là Mực
trở thành chữ Hàn là bút. Hàn Mặc Tử là anh chàng “Bút Mực”.
Mẩu hồi ức vừa dẫn đậm tính giai thoại, hoàn toàn chẳng
có bút tích minh chứng. Trong chuyên luận Hành
trang cho thơ và sự trở lại của chính mình của Hàn Mạc Tử (NXB Đà Nẵng,
1996),Vũ Hải - tức cô giáo Võ Thị Hải - đã “mạnh
dạn đưa vấn đề này (vấn đề “Mạc” hay “Mặc”) thành một chương chính gần như là cốt
lõi trong quá trình nghiên cứu tìm hiểu về Hàn Mạc Tử” (tr.29). Vũ Hải tỏ ra hợp
lý khi lập luận rằng “không thể chỉ dựa vào giai thoại để thẩm định bút danh cuối
cùng của nhà thơ được” (tr.31).
Thực tế thì năm 1936, in tập thơ đầu tay Gái quê (NXB
Đời Nay - lời tựa của Phạm Văn Ký), Nguyễn Trọng Trí ký bút danh Hàn Mặc Tử.
Tuy nhiên sau đấy, chậm nhất là từ năm 1939, nhiều văn bản còn lưu lại cho thấy
nhà thơ lấy bút hiệu ngày trước là Hàn Mạc Tử.
Chẳng hạn như bản in lần đầu tiên năm 1939, tựa đề cho
tập Tinh huyết của Bích Khê (NXB Đông
Phương), Nguyễn Trọng Trí đã ghi rõ ở trang 19: Hàn Mạc Tử. Cần thêm rằng trong
bản thảo thi tập Tinh hoa kế tiếp (dự
định xuất bản năm 1944 nhưng không thành), Bích Khê dành hẳn cho bạn mình một
bài thơ với tựa đề mang bút danh y hệt: Hàn Mạc Tử.
Đáng lưu ý là ngay trong tập thơ Một tấm lòng của Quách Tấn xuất bản lần đầu năm 1939, bìa cũng như
ruột còn in rành rành: “Hàn Mạc Tử đề bạt”
(ảnh). Cũng năm 1939, trong bức thư kèm theo bài thơ Ở đây thôn Vỹ Giạ viết vào tháng 11 - nghĩa là tròn một năm trước
khi thi sĩ qua đời, Nguyễn Trọng Trí ký cuối thư và cuối bài thơ: Hàn Mạc Tử.
Người nhận thư và thơ là này là Hoàng Thị Kim Cúc đã giữ gìn thủ bút bao năm
ròng tại nhà riêng ở Huế (sẽ đăng thủ bút trong một kỳ sau).
Lý
giải chuyện “Mạc” vẫn hoàn “Mạc” thế nào đây?
Giả thiết rằng giai thoại mà Quách Tấn tường thuật là
sự thật, thì vì lý do của tình bạn, Nguyễn Trọng Trí chỉ sử dụng bút danh Hàn Mặc
Tử một thời gian ngắn rồi quay trở lại với hiệu Hàn Mạc Tử vì thấy phù hợp với
mình hơn. Đặt nhà thơ vào hoàn cảnh cụ thể lúc bấy giờ đang đau khổ vì bệnh tật,
nghèo túng và cô quạnh, Nguyễn Đình Niên đã phân tích trong công trình nghiên cứu
Kinh nghiệm về thân phận làm người trong
thơ Hàn Mạc Tử (Tiểu luận cao học văn chương, Đại học văn khoa Huế, 1973): “Nếu xét theo tiếng đồng âm (Synonyn) thì lại
còn có nghĩa anh chàng nghèo mạt (Nghèo mạt rệp) hoặc chết (tử) trong sự nghèo
nàn (mạc) và lạnh lẽo, cô quạnh (hàn) nữa”. Bấy giờ, một bạn thân khác của
Nguyễn Trọng Trí là Trần Tái Phùng ở Huế. Ông Phùng kể rằng trong bức thư Trí gởi
cho mình, có đoạn viết: “Người ta thường
gọi lầm tôi là Hàn Mặc Tử, phải gọi là Hàn Mạc Tử mới đúng” (Vũ Hải - Hành
trang cho thơ..., tr.37).
Qua những cứ liệu vừa nêu, dẫu chưa đầy đủ, song chúng
ta cũng có thể xác định rằng Hàn Mạc Tử là bút danh mà Nguyễn Trọng Trí tự cảm
thấy phù hợp nhất, tâm đắc nhất. Đây là bút danh mà nhà thơ dùng để ký hầu hết
tác phẩm cũng như thư từ trong giai đoạn gần mãn đời. Sở dĩ gọi là gần mãn đời,
vì từ sáng 20-9-1940, khi Nguyễn Trọng Trí vào bệnh viện Quy Hoà rồi mất tại đấy
chưa đầy hai tháng sau, thì chàng giấu nhẹm mọi chuyện riêng tây, chỉ ký tên thật
kèm với thánh danh là Francois Trí - kể cả bản thảo cuối cùng bằng tiếng Pháp
La Pureté de L’Âme (Tấm linh hồn thanh khiết) viết đêm 24 tháng 10 năm 1940 và
cất trong túi áo cho đến lúc nhà thơ tắt thở vào ngày 11.11.1940.
Sau khi nhà thơ tài năng lìa trần, các văn bản được
công bố ghi Hàn Mạc Tử hay Hàn Mặc Tử? Đây cũng là những tư liệu có ý nghĩa văn
học sử, rất cần tham khảo.
Báo Người mới,
liên tiếp mấy số ra ngày 23-11, 30-11 và 7-12-1940 tập trung đăng bài thương tiếc
Nguyễn Trọng Trí của bằng hữu khắp nơi, ắt là loạt ấn phẩm xuất hiện sớm nhất
ngay sau lúc nhà thơ mất. Lục lại chồng báo ấy, GS Phan Cự Đệ xác nhận: “Báo Người mới số 23-11-1940 ghi bút danh
Hàn Mạc Tử trong tất cả các bài, kể cả bài của Quách Tấn” (Thơ văn Hàn Mạc
Tử - Phê bình và tưởng niệm; NXB Giáo dục, Hà Nội 1993, tr.329).
Bộ sách Thi nhân Việt Nam do Hoài Thanh - Hoài Chân
biên soạn năm 1941, từ bản in lần thứ nhất và lần thứ hai (Bắc Việt năm 1942)
cho đến bao bản in đi in lại về sau, luôn ghi rõ Hàn Mạc Tử kèm dòng cước chú: “Hai chữ “hàn mạc” trong tự điển không có,
chỉ có “Hàn Mặc” nghĩa là văn chương”.
Cùng ấn hành sớm như bộ sách trên là chuyên khảo của
Trần Thanh Mại, bản in lần đầu năm 1942 tại nhà in Rạng Đông (Hà Nội) đang được
nhà văn Trần Thanh Địch - em ruột của Trần Thanh Mại, hiện trú tại Phú Nhuận,
Tp. Hồ Chí Minh lưu giữ với bìa và ruột đề rõ: Hàn Mạc Tử, xuất bản bởi Võ Doãn Mại, 63 Pellerin, Sài Gòn. Chúng
tôi cũng có tác phẩm này, bản in lần thứ năm, do NXB Tân Việt (Sài Gòn) tái bản
năm 1970 dưới nhan đề: Hàn Mạc Tử thân thế
và thi văn. Chẳng rõ vì sao gần đây, một số tài liệu sao lục sách của Trần
Thanh Mại lại tự tiện chữa “Mạc” thành “Mặc” cả? Tương tự như vậy, cuốn Hàn Mạc Tử, thi sĩ của đạo quân thánh giá
do Võ Long Tê biên soạn, NXB Vinh Sơn (Huế) in năm 1953, về sau được in lại hoặc
trích dẫn cũng xếp chữ “Mạc” thành chữ “Mặc”!
Trên bước đường nghiên cứu, với bao chứng cứ được phát
hiện ngày càng đầy đặn, không ít tác giả dần thiên về cách gọi Hàn Mạc Tử. Kiên
định với “chính danh” ấy, có thể kể
trường hợp Phạm Xuân Tuyển - Xước danh Xirô Tuyển - một kẻ hậu sinh từng đồng bệnh
với Hàn, đã điều trị ở trại phong Bến Sắn (Bình Dương), nay lành bệnh và trú tại
Tp. Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Sau hơn 30 năm lò mò liên hệ nhân chứng, sưu tầm
vật chứng và lặn lội khảo sát thực địa, Xirô Tuyển đã sơ bộ hoàn tất công trình
Đi tìm chân dung Hàn Mạc Tử dày 500
trang đánh máy vào năm 1996 và hiện đang tiếp tục nhuận sắc, bổ sung. Chính anh
là một trong những người nhiệt tình cung cấp những tư liệu quý hiếm cho chúng
tôi thực hiện loạt bài mà bạn đọc bắt đầu theo dõi.
Đề tựa công trình của Phạm Xuân Tuyển, GS. NGND. Hoàng
Như Mai bày tỏ: “Tôi tán thành cái bút
danh Hàn Mạc Tử”. Trong tư thế giao lưu và hội nhập văn hoá với toàn cầu, việc
thống nhất bút danh chính của một nhà thơ Việt Nam nổi tiếng càng cần thiết. Bởi
khi chuyển ngữ, nhất là phiên dịch sang một văn tự biểu ý như tiếng hoa chẳng hạn
thì “sai một ly đi một dặm”! Dẫu vậy, xét thực tiễn hiện nay, việc điều chỉnh
bút danh của “một đỉnh cao loà chói trong
văn học của thế kỷ, thậm chí qua các thế kỷ” (chữ dùng của Chế Lan Viên)
còn vướng vô vàn khó khăn! Nói đâu xa, ngay tấm bia đá do thân quyến nhà thơ phụng
lập trước mộ ở Gành Ráng/Ghềnh Ráng (Quy Nhơn) mà cũng khắc Hàn Mạc Tử nữa là!
Ngoại trừ Tp. Hồ Chí Minh, các tên đường Đồng Hới (Quảng Bình) và ở Huế cũng không
ghi khác! Duy những di tích cùng hiện vật đang bảo tồn trong bệnh viện Quy Hoà
(Bình Định) - nơi nhà thơ đến chữa trị và trút hơi thở cuối - thì qua đợt tôn tạo
gần đây điều đã được sửa đổi tất cả biển bảng cho hợp “chính danh” Hàn Mạc Tử.
Đó là việc làm rất đáng hoan nghênh.
Với chiều hướng ấy, trong loạt bài này, trừ trường hợp
thật sự cần thiết, chúng tôi luôn ghi bút danh chính thức của Nguyễn Trọng Trí
là Hàn Mạc Tử - kể cả những đoạn trích dẫn.
Phanxipăng
*
Nguồn:
https://www.thivien.net/B%C3%AD-m%E1%BA%ADt-H%C3%A0n-M%E1%BA%A1c-T%E1%BB%AD/a-reply-mz8hO4-xm_bQYO5dbc_rLg
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét