BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Ba, 24 tháng 10, 2023

THƠ ĐƯỜNG SÁU CHỮ - Biên khảo của Đỗ Chiêu Đức


          
LỤC NGÔN THI, thơ 6 chữ, cũng là một thể loại thi ca từ thời cổ đại của Trung Hoa. Mỗi câu thơ đều có 6 chữ, toàn bài thường là 4 câu trở lên, tuy không được lưu hành rộng rãi như thơ Ngũ ngôn (5 chữ) và thất ngôn (7 chữ), nhưng cũng là một thể thơ "Lục Ngôn" có nét độc đáo riêng, như bài "Điền Viên Lạc 田園樂" của Thi Phật Vương Duy đời Đường sau đây:
                
桃紅複含宿雨,   Đào hồng phục hàm túc vũ,               
柳綠更帶朝烟。   Liễu lục cánh đái triêu yên.               
花落家僮未掃,   Hoa lạc gia đồng vị tảo,                
鳥啼山客猶眠。   Điểu đề sơn khách do miên!
  
Có nghĩa:
                   
Hoa đào hồng vì mưa tối,                   
Sương sớm đưa cành liễu bay.                  
Hoa rụng gia đồng chưa quét,                   
Chim ca khách núi còn say

Về nguồn gốc của thơ 6 chữ thì có đến 3 nguồn như sau đây:
1. Xuất xứ từ Kinh Thi:     
Theo Chấp Ngu đời Đông Tấn 東晋挚虞 thì Lục Ngôn Thi bắt nguồn từ những câu 6 chữ trong Kinh Thi, ví dụ như trong bài "Quyển Nhĩ chương Chu Nam của Kinh Thi《詩經·周南·卷耳》bài thứ hai như sau:
                    
陟彼崔嵬、        Trắc bỉ tồi ngôi,                    
我馬虺隤。        Ngã mã khôi đồi,                  
我姑酌彼金罍、Ngã cô chước bỉ kim lôi. (6)                   
維以不永懷。    Duy dĩ bất vĩnh hồi (hoài).
          
Có nghĩa:
                    
Cỡi ngựa lên núi đá đồi,                    
Ngựa ta mỏi mệt, ta ngồi nghỉ ngơi.                   
Cốc rượu vàng, rót uống chơi,                   
Để phai nỗi nhớ bồi hồi lòng ta!

   

Trong bài "Vũ Vô Chính 雨無正" cũng trong Kinh Thi thời Tiên Tần có câu:
                      
謂爾遷于王都, Vị nhĩ thuyên vu vương đô,                      
曰予未有室家.    Viết dư vị hữu thất gia.
       
Có nghĩa:
                       
Gần đây ta chuyển về kinh,                       
Rằng ta chưa có gia đình.
   
2. Có xuất xứ từ Cốc Vĩnh đời Tây Hán 西漢谷永:      
Theo thuyết của Lương Nhậm Phưởng 南朝梁任昉 thời Nam Triều, trong "Văn Chương Duyên Khởi nói rằng: Thơ 6 chữ bắt đầu từ Đại Tư Nông Cốc Vĩnh đời Hán mà ra. Trong "Thương Lãng Thi Hoa" của Tống Nghiêm Vũ 宋嚴羽-滄浪詩花 cũng nói rằng: "Thơ ngũ ngôn bắt đầu từ Lý Lăng, Tô Vũ; Thơ thất ngôn bắt đầu từ " Bá Lương - Hán Vũ"; Thơ Tứ ngôn bắt đầu từ Vương Phó, Duy Mạnh đời Hán Sở; Thơ LỤC NGÔN bắt đầu từ Hán Tư Nông Cốc Vĩnh; Thơ tam ngôn bắt đầu từ Hạ Hầu Trạm đời Tấn và thơ cửu ngôn bắt đầu từ các hương thân cao quý.
 
 3. Có xuất xứ từ Đông Phương Sóc đời Hán 漢朝-東方朔:
 Theo "Vịnh Sử Thi" của Tả Tư trong "Văn Tuyển" của Lý Thiện đời Đường cho là: Lục Ngôn Thi bắt đầu từ Đông Phương Sóc đời Tây Hán. Nhưng Lý Thiện chỉ dẫn chứng có 2 câu; Một câu ở quyển 21 của Vịnh Sử Thi trong Văn Tuyển Là: "Kế sách quyên khí bất thu 計策捐棄不收"(Kế sách cho đi không nhận); Một câu nữa trong "Thục Đô Phú, Tả Tư quyển 4 là: "Hiệp tôn xúc tịch tương ngu 合樽促席相"(Chai rượu cùng vui với tiệc).      
             
Ba nguồn gốc của Lục Ngôn Thi nêu trên, chỉ có Kinh Thi là có cơ sở và đáng tin cậy nhất; hai thuyết còn lại đều còn nghi vấn. Một là Cốc Vĩnh và Đông Phương Sóc đều không thấy có thơ 6 chữ lưu truyền lại ở đời Tây Hán; Hai là theo "Hán Thư" của Ban Cố và "Sử Ký" của Tư Mã Thiên đều không có ghi lại Cốc Vĩnh và Đông Phương Sóc có tài làm thơ; Ba là trong "Văn Chương Lưu Biệt Luận" của Chấp Ngu đời Đông Tấn chỉ nói là trong Kinh Thi có những câu thơ 6 chữ, chứ không nói rõ ở đời nào, trong "Văn Tâm Điêu Long 文心雕龍" của Lưu Hiệp 劉勰 đời Nam triều cũng không có nhắc đến những cống hiến gì của Cốc Vĩnh và Đông Phương Sóc về Lục Ngôn Thi cả.     
Nhưng trong Kinh Thi thơ Lục Ngôn cũng chỉ xuất hiện lẻ tẻ bằng những câu lẻ chen vào bài thơ như đã ví dụ ở trên; họa hoằn lắm mới có 2 câu 6 chữ đi liền nhau như trong bài "Bắc Môn- Bội Phong 邶風.北門" trong Kinh Thi:
 
王事適我、           Vương sự thích ngã                
政事一埤益我。   Chính sự nhất tỳ ích ngã. (6)                
我入自外、           Ngã nhập tự ngoại,                
室人交徧讁我。   Thất nhân giao biến trích ngã. (6)
     
Có nghĩa:
                
Việc làng bận bịu chưa xong,               
Việc quan hối thúc càng không thể ngồi.                
Việc nhà lại rối bời bời,               
Người nhà cửi nhửi bồi hồi lòng ta!
             
 
Cho đến "Sở Từ 楚辭" của Khuất Nguyên nước Sở trong thiên "Ly Tao 離騷" đã có những câu 7, 6 chen nhau như: 
          
駟玉虯以乘鷖兮, Tứ ngọc cù dĩ thừa ế hề,               
溘埃風余上征;     Kháp ai phong dư thượng chinh.               
朝發軔於蒼梧兮, Triêu phát nhẫn ư Thương Ngô hề,                
夕余至乎縣圃;     Tịch dư chi hồ Huyền Phố.
    
Có nghĩa:
                
Quay ra đạp gió rẽ mây,                
Cưỡi rồng gióng phượng định ngày chơi xa.                
Sớm Thương-Ngô, chiều qua Huyền Phố,                
Đến thần linh xa ngó cõi ngoài.                                 
(Thơ dịch của Nhượng Tống)
             
Đến bài từ "Cửu Biện 九辯" của Tống Ngọc 宋玉, cũng người nước Sở, thì mới có 4 câu 6 chữ liền nhau như một bài tứ tuyệt:
               
慷慨绝兮不得,  Khảng khái tuyệt hề bất đắc,                 
中瞀乱兮迷惑。  Trung mậu loạn hề mê hoặc.                
私自怜兮何极,  Tư tự lân hề hà cực,               
心怦怦兮諒直。  Tâm phanh phanh hề lượng trực!
  
Có nghĩa:
                
Khảng khái cũng chẳng được chi,                
Trong lòng rối rắm lại khi mơ hồ.                
Tự thương xót đến bao giờ,               
Lòng trung vằng vặc ai ngờ được sao!
               

Đến đời Đông Hán thì những bài phú trữ tình đã có những câu 6 chữ rất tề chỉnh, và đã bỏ được trợ từ "Hề " ở giữa câu; nếu tách rời ra thì có thể thành một bài thơ "Lục Ngôn Tứ Tuyệt" như trong bài "Quy Điền Phú 歸田賦" của Trương Hành 張衡 có những câu:
                      
游都邑以永久,   Du đô ấp dĩ vĩnh cửu,                  
無明略以佐時;   Vô minh lược dĩ tá thì;                   
临川以羡魚.      Đồ lâm xuyên dĩ tiện ngư,                  
俟河清乎未期。   Tự hà thanh hồ vị kỳ.
    
Có nghĩa:                     
                        
Trong kinh chẳng cống hiến gì,                        
Cũng không sách lược phò trì quân vương.                        
Bên sông thưởng thức cá ngon,                        
Hoàng Hà sông cạn đá mòn chưa trong!
                 
Đến thời kỳ Kiến An (cuối đời Đông Hán) lúc Tam Quốc Phân tranh thì Lục Ngôn Thi lần đầu tiên được Khổng Dung, một trong Kiến An Thất Tử 建安七子 (7 người tài tử trong thời Kiến An) sáng tác ba bài thơ Lục Ngôn hoàn chỉnh. Dưới đây là bài thứ nhất trong ba bài thơ đó:
                 
漢家中葉道微,  Hán gia trung diệp đạo vi,                 
董卓作乱乘衰,  Đổng Trác tác loạn thừa suy,                 
僭上虐下專威,  Tiếm thượng ngược hạ chuyên uy,                 
萬官惶怖莫違,  Vạn quan hoàng bố mạc vi,                 
百姓惨惨心悲.    Bá tánh thảm thảm tâm bi!
   
Có nghĩa:
                 
Giữa thời nhà Hán suy vi,               
Đổng Trác làm loạn thị uy.                 
Ép vua hiếp cả triều nghi,                 
Muôn quan sợ chẳng nói chi,                 
Trăm họ thảm lòng sầu bi.
      
Hai người nối tiếp và phát huy để ổn định cho thơ sáu chữ cũng là hai trong số Kiến An Thất Tử là Tào Phi 曹丕 và Tào Thực 曹植 (Tào Tử Kiến 曹子建), cả 2 đều là con trai của Tào Tháo 曹操(Bản thân Tháo cũng là một trong Kiến An Thất Tử, cho thấy Tháo là người văn võ song toàn).  Tào Phi với bài Lê Dương Tác Thi 黎陽作詩 (Buổi sáng làm thơ) như sau:
                   
奉辭罰罪遐征。   Phụng từ phạt tội hà chinh,                  
晨過黎山巉崢。   Thần quá Lê Sơn sàm tranh.                   
東濟黃河金營。   Đông tế Hoàng Hà kim doanh,                   
北觀故宅頓傾。   Bắc quan cố trạch đôn khuynh.                   
中有高樓亭亭。   Trung hữu cao lâu đình đình,                 
荊棘繞蕃叢生。   Kinh cức nhiểu phồn tùng sinh.                   
南望果園青青。   Nam vọng quả viên thanh thanh,                   
霜露慘淒宵零。   Sương lộ thảm thê tiêu linh.                   
彼桑梓兮傷情。   Bỉ tang tân hề thương tình!
    
Có nghĩa:                    
                      
Phụng chỉ đi đánh giặc xa,                      
Lê Sơn hiểm trở sáng qua,                    
Đóng trại phía đông Hoàng Hà,                      
Hướng bắc dinh thự của ta,                      
Trong có lầu các nguy nga,                      
Cỏ gai bao bọc quanh nhà.                      
Phía nam cây trái vườn hoa,                      
Lạnh lùng mù mịt sương sa,                       
Quê nhà đau xót lòng ta!
                                  
     
Sau đây là bài thơ 6 chữ được xếp trong "Nhạc Phủ Thi Tập 樂府詩集" sớm nhất: "Thiếp Bạc Mệnh 妾薄命" của Tào Tử Kiến:
                    
携玉手喜同車,   Huề ngọc thủ hỉ đồng xa,                   
北上雲閣飛除。   Bắc thướng vân các phi trừ.                     
钓台蹇產清虚,   Điếu đài khiên sản thanh hư,                    
池塘觀沼可娱。   Trì đường quan chiểu khả ngu.                    
仰泛龍舟绿波,   Ngưỡng phiếm long chu lục ba,                     
俯擢神草枝柯。   Phủ trạc thần thảo chi kha.                     
想彼宓妃洛河,   Tưởng bỉ Mật Phi Lạc Hà,                     
退咏漢女湘娥。   Thoái vịnh Hán nữ Tương Nga.
      
Có nghĩa:
                     
Nắm tay người ngọc cùng xe,                     
Cùng lên lầu bắc mây che lưng trời.                     
Đài câu yên lặng thảnh thơi,                     
Ao hồ sông lạch vui chơi thỏa lòng.                     
Sóng xanh bao lấy thuyền rồng,                     
Cúi mình hái cọng cỏ thần linh chi.                    
Lạc Hà lại nhớ Mật Phi,                     
Tương Nga Hán nữ sầu bi đoạn trường!
                 
Sau Khổng Dung, Tào Phi, Tào Thực, những người có thành tựu trong Lục Ngôn Thi thì đời Ngụy có Kê Khang, Tây Tấn có Phó Huyền, Lục Cơ; Đông Tấn có Dưu thiền, Nam Triều có Tạ Hối, Lương Giản Văn Đế; Bắc Chu có Vương Bao, Dữu Tín... Đến đời Lương, Trần của Nam Bắc Triều thì Lục Ngôn Thi đã phát triển khá hoàn chỉnh với 6 câu 3 vần gián cách như bài "Mạo Tuyết Thi 貌雪詩" (thơ Tuyết) của Lương Chiêu Minh Thái Tử Tiêu Thống 梁昭明太子蕭統 như sau:
                  
既同摽梅英散,   Ký đồng phiếu mai anh tán,                  
複似太谷花飛。   Phục tự thái cốc hoa phi.                  
密如公超所起,   Mật như công siêu sở khởi,                  
皎如淵客所揮。   Giảo như uyên khách sở huy.                 
無羡昆岩列素,   Vô tiện côn nham liệt tố,                  
豈匹振鷺群歸。   Khỉ thất chấn lộ quần quy.
    
Có nghĩa:
                    
Trông như cánh mai rơi rụng,                   
Lại tựa Thái cốc hoa bay.                   
Nhặt tựa muối rây khắp chốn,                     
Trắng như vực thẳm thác bày.                    
Côn nham chập chùng đá trắng,                    
Lối về cò trắng cùng bay!
                        
     
                                
Kịp đến đời Đường thì Lục Ngôn Thi cùng với Ngũ Ngôn và Thất Ngôn thi cùng phát triển và hoàn chỉnh song song với nhau, nhưng quan trường cũng như quần chúng chỉ chú trong vào Ngũ Ngôn và Thất Ngôn Thi mà thôi, nên Lục Ngôn Thi bị lép vế, nhưng không vì thế mà bị quên lãng, hầu hết những thi nhân nổi tiếng của buổi Thịnh Đường đều có Lục Ngôn Thi, như bài "Điền Viên Lạc" của Thi Phật Vương Duy ở đầu bài viết nầy. Bây giờ thì ta cùng đọc bốn bài Lục Ngôn Thi của Thi Tiên Lý Bạch tả cảnh của bốn mùa Xuạn, Hạ, Thu, Đông nhé!
                  
《春景》             XUÂN CẢNH                 
門對鹤溪流水,  Môn đối hạc khê lưu thủy,                 
雲連雁宕仙家。  Vân liên nhạn đãng tiên gia.                
誰解幽人幽意,  Thùy giải u nhân u ý,                
惯看山鳥山花。  Quán khan sơn điểu sơn hoa.                           
        李白                                     Lý Bạch
     
Có nghĩa:
                    
Cửa đối suối trong khe hạc,                    
Mây liền đàn nhạn bay xa.                   
Ai biết người nhàn ý tản,                     
Ngắm quen chim núi cùng hoa.

               
 《夏景》               HẠ CẢNH                 
竹簟高人睡覺,   Trúc điệm cao nhân thụy giác,                
水亭野客狂登。   Thủy đình dã khách cuồng đăng.               
 窗外熏風燕語  Song ngoại huân phong yến ngữ,                 
庭前綠樹蟬鳴。   Đình tiền lục thọ thiền minh                         
        李白                                      Lý Bạch
     
Có nghĩa:
                    
Đệm trúc cao nhân an giấc,                    
Nhà sàn khách lạ lăng xăng.                    
Ngoài song gió đưa én liệng,                    
Trước sân cây rậm ve ngâm.

 

《秋景》               THU CẢNH                 
昨夜西風忽轉,   Tạc dạ tây phong hốt chuyển,                  
驚看雁度平林。   Kinh khan nhạn độ bình lâm.                
 詩興正當幽寂,  Thi hứng chánh đang u tịch,                 
推敲韵落寒帧。   Thôi xao vận lạc hàn tranh                             
        李白                                   Lý Bạch
     
Có nghĩa:
                    
Đêm qua gió tây chợt nổi,                      
Giật mình nhạn vượt bình lâm.                    
Thi hứng lúc đang hiu hắt,                    
Đẽo gọt vần rơi mất tăm!

                    
《冬景》               ĐÔNG CẢNH                 
凍笔新詩懒寫,   Đống bút tân thi lãn tả,                  
寒爐美酒時温。   Hàn lô mỹ tửu thời ôn.                 
醉看梅花月白,   Túy khán mai hoa nguyệt bạch,                  
恍疑雪落前村。   Hoảng nghi tuyết lạc tiền thôn                        
        李白                                         Lý Bạch
     
Có nghĩa:
                      
Thơ xong bút se biếng tả,                      
Rượu ngon lò lạnh khó ôn.                      
Say nhìn hoa mai trăng tỏ,                     
Giật mình ngỡ tuyết ngoài thôn!
                  
    
       
Ta thấy kỹ thuật làm thơ đã điêu luyện, bằng trắc phân minh, đối xứng nghiêm cẩn, ý thơ cao vút không thua gì ngũ ngôn và thất ngôn thi chút nào cả! Ta hãy đọc thêm một bài "Lục Ngôn Luật Thi" Cách Hán Giang Ký Tử An 隔漢江寄子安》của Ngư Huyền Cơ 魚玄機, một trong "Tứ Đại Nữ Thi Nhân đời Đường"  sau đây sẽ rõ:
                            
江南江北愁望,   Giang nam giang bắc sầu vọng,                   
相思相憶空吟。   Tương tư tương ức không ngâm.                   
鴛鴦暖卧沙浦,   Uyên ương noãn ngọa sa phố,                   
砠矦閑飛桔林。   Thư hầu nhàn phi cát lâm.                   
烟里歌聲隱隱,   Yên lý ca thanh ẩn ẩn,                  
渡頭月色沉沉。   Độ đầu nguyệt sắc trầm trầm.                  
含情咫尺千里,   Hàm tình chỉ xích thiên lý,                   
况聽家家遠砧。   Huống thính gia gia viễn châm.
     
Có nghĩa:
                       
Buồn trông giang bắc giang nam,                       
Thương nhau nhớ lắm âm thầm ngâm nga.                       
Uyên ương ấm áp noãn nà,                       
Côn trùng chấp chới bay ra sau vườn.
Tiếng ca văng vẳng khói sương,                      
Bóng trăng bến vắng vấn vương một mình.                       
Dặm ngàn gang tất hàm tình,                       
Lại nghe tiếng giặt xập xình xa xa.
                    
      
Bài thơ với đầy đủ "mạo, thực, luận, kết" bố cục của một bài Luật Thi, hai cặp Thực và Luận đối nhau chan chát, cách luật nghiêm cẩn, trắc bằng đúng phép không khác gì một bài ngũ ngôn hay thất ngôn luật thi cả.
       
Không phải chỉ riêng Ngư Huyền Cơ, Vương Duy và Lý Bạch, mà Vương Xương Linh, Đỗ Mục, Sầm Tham... đều có làm thơ 6 chữ cả! Theo thống kê của quyển "Toàn Đường Thi 《全唐" thì trong đó có tất cả 75 bài thơ 6 chữ và Lục Ngôn Thi thẳng tiến đến đời Tống, Tô Đông Pha, Hoàng Đình Kiên, Lục Du, Tần Quan... đều cũng có lục ngôn thi. Trong quyển "Thiên Thủ Tống Nhân Tuyệt cú 千首宋人绝句" (Một ngàn bài tuyệt cú của người đời Tống) thì có đến 98 bài là thơ 6 chữ (chiếm tỉ lệ 1/10 của thi tập). Xuyên suốt qua các triều đại Nguyên, Minh, Thanh và mãi cho đến hiện nay, Lục Ngôn Thi vẫn luôn luôn tồn tại một cách âm thầm nhưng tích cực bên cạnh các hào quang rực rỡ của Ngũ Ngôn và Thất ngôn Thi nhưng không hề tàn lụi bao giờ.
      
Để kết thúc bài viết nầy, kính mời tất cả cùng đọc một bài lục ngôn dưới hình thức của một bài từ rất độc đáo "Thiên Tịnh Sa 天淨沙 Thu Tứ 秋思" của Mã Trí Viễn 馬致遠 đời nhà Nguyên:
                                              
枯藤老樹昏鴉,    Khô đằng lão thọ hôn nha,                     
小橋流水人家,    Tiểu kiều lưu thủy nhân gia,                      
古道西風瘦馬。   Cổ đạo tây phong xú mã.                     
夕陽西下,           Tịch dương tây hạ,                     
斷腸人在天涯。    Đoạn trường nhân tại thiên nha!
    
 Có nghĩa:
                     
Mây cằn cây cỗi Quạ buồn,                    
Đìu hiu cầu nhỏ nước tuôn mấy nhà,                     
Đường xưa ngựa ốm gió qua,                     
Nắng chiều dần tắt...                     
Bên trời hiu hắt... người xa đoạn trường!

     
Ta thấy, chẳng những "thi ca" có thơ 6 chữ mà cả "ca từ" cũng có những câu 6 chữ nữa!     
Hẹn bài viết tới ! 
                                                                                      杜紹德
                                                                                Đỗ Chiêu Đức
 
* PHỤ LỤC:
     
 Để cho mọi người rộng đường tham khảo, đính kèm theo đây là các "cách Luật" của thơ 6 chữ khi đã hoàn chỉnh ở đời Đường:
    
六言詩的格律编辑 
BIÊN TẬP VỀ CÁCH LUẬT CỦA LỤC NGÔN THI
 
* 平声韵 GIEO VẦN BẰNG:

《一》绝句押平声韵 Tuyệt cú gieo vần BẰNG: 
 
A》六言绝句仄起首句不押韵格式 Lục ngôn tuyệt cú không gieo vần ở câu đầu:
           
T T B B T T,      B B T T B B (Vần) (đối xứng)           
仄仄平平仄仄,平平仄仄平平 (). (对仗)        
平平仄仄平仄,仄仄平平仄平 (). (Bốn câu Hai vần)
  
B》六言绝句仄起首句押韵格式 Lục ngôn tuyệt cú gieo vần ở câu đầu:
         
T T B B T B  (vần),  B B T T B B  (vần).        
仄仄平平仄平 (),平平仄仄平平 ()        
平平仄仄平仄,       仄仄平平仄平 ()(Bốn câu Ba vần)
              
Trên đây là Lục Ngôn Tuyệt Cú bắt đầu bằng "thanh TRẮC". Tương tự, nếu bắt đầu câu một bằng "thanh BẰNG" thì sẽ như sau đây: 
 
C》六言绝句平起首句不押韵格:
       
 平平仄仄平仄,仄仄平平仄平()(对仗)       
仄仄平平仄仄,平平仄仄平平()(4 câu 2 vần)
 
D》六言绝句平起首句押韵格:
       
 平平仄仄平平(),仄仄平平仄平()      
 仄仄平平仄仄,    平平仄仄平平()(4 câu 3 vần)
 
二》律诗押平声韵 LUẬT THI GIEO VẦN BẰNG
   
A》六言律诗平起首句押韵格式 Bắt đầu câu 1 bằng thanh BẰNG và gieo vần ở cuối câu 1:
               
B B T T B B (vần), T T B B T B  (vần)             
平平仄仄平平(), 仄仄平平仄平 ().              
仄仄平平仄仄,    平平仄仄平平 (). (对仗 đối xứng)            
平平仄仄平仄,    仄仄平平仄平 (). (对仗 đối xứn     
仄仄平平仄仄,    平平仄仄平平 (). (8 câu 5 vần)
   
B》六言律诗仄起首句押韵格式 Bắt đầu câu 1 bằng thanh TRẮC và gieo vần ở cuối câu 1: 
           
仄仄平平仄平(),平平仄仄平平().              
平平仄仄平仄,仄仄平平仄平(). (对仗)              
仄仄平平仄仄,平平仄仄平平(). (对仗)              
平平仄仄平仄,仄仄平平仄平(). (8 câu 5 vần)
 
* 仄声韵 GIEO VẦN TRẮC:    
Tất cả đều giống như trên, chỉ đổi thanh BẰNG thành thanh TRẮC mà thôi.

一》绝句押仄声韵 Lục Ngôn Tuyệt Cú gieo vần TRẮC: 
    
A》六言绝句平起式:              
平平仄仄平仄(),仄仄平平仄仄().              
仄仄平平仄平,   平平仄仄平仄().
     
B》六言绝句仄起式:              
仄仄平平仄仄(),平平仄仄平仄().            
平平仄仄平平,仄仄平平仄仄().                                      
(Tất cả đều cùng 4 câu 3 vần)
 
《二》律诗押仄声韵 LUẬT THI VẦN TRẮC

A》六言律诗平起式: (chữ đầu tiên của câu đầu là thanh BẰNG)              
B B T T B T(vần), T T B B T T(vần)              
平平仄仄平仄(),  仄仄平平仄仄().              
仄仄平平仄平,     平平仄仄平仄().(对仗 (đối xứng)  
平平仄仄平平,     仄仄平平仄仄().(对仗 (đối xứng       
仄仄平平仄平,     平平仄仄平仄(). (8 câu 5 vần TRẮC)
   
B》六言律诗仄起式: (chữ đầu tiên của câu đầu là thanh TRẮC)              
仄仄平平仄仄(),平平仄仄平仄().             
平平仄仄平平,   仄仄平平仄仄(). (对仗)              
仄仄平平仄平,   平平仄仄平仄(). (对仗)              
平平仄仄平平,   仄仄平平仄仄().
     
Nhìn chung, tất cả Cách Luật của Lục Ngôn Thi đều giống như là Ngũ Ngôn và Thất Ngôn thi vậy!
                                                                                                                                                                                                  Đỗ Chiêu Đức
        

1 nhận xét:

Vũ Nho Ninh Bình nói...

RẤT THÚ VỊ!
CÁM ƠN BÁC ĐỖ CHIÊU ĐỨC VỀ BÀI VIẾT CÔNG PHU!