BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Sáu, 14 tháng 10, 2022

EM ĐI NHƯ CHẠY TRỐN KHỎI ĐỜI TA, TỐI HẬU THƯ – Thơ Lê Mai Lĩnh


    
                           Nhà thơ Lê Mai Lĩnh
                      (Sương Biên Thùy)


EM ĐI NHƯ CHẠY TRỐN KHỎI ĐỜI TA
 
(Thơ dành cho những người thích đùa)
                                       Khùng thi sĩ

“Ta bấn loạn giữa triền sinh tử
Em cứ ung dung dứt áo ra đi”
           (Thơ Phan Xuân Sinh)
 
Đang giữa lúc bếp lửa tình ngùn ngụt
Và cuộc mây mưa ướt sũng gối chăn đêm
Em ra đi, đành đoạn dứt áo ra đi
Em theo ai, em ngon nhỉ, em theo ai?
Ừ, thì cứ ra đi
Ừ, thì cứ dứt áo ra đi
Rồi em sẽ thấy,
Không có ai ngon ăn hơn, gã thi sĩ khùng.
Ừ, thì em cứ ra đi
Nhưng tốt nhất là em nên về lại.
Từ em ra đi, trái tim này ta đã sửa sang
Đã sơn quét lại những màu mát, dịu
Trong căn phòng trái tim ta, bốn mùa không cần máy điều hòa không khí
Nhiệt lượng trái tim ta đủ làm em điên, tỉnh từng cơn
Cũng có lúc không tỉnh không điên
Mà em sẽ gục và nói lời cảm ơn thi sĩ:
Cảm ơn thi sĩ đã làm em gục.
Hãy cho em gục nhiều lần như thế, nghe, nghe thi sĩ.
 

Thứ Năm, 13 tháng 10, 2022

CHÙA PHẬT LỒI - Hoàng Long Hải

                                Kể chuyện Quảng Trị "tui"
 
Tác giả Hoàng Long Hải

1./ Mới đây, xem trên Youtube, tôi thấy ông Lê Mạnh Thát nói chuyện "Phật Giáo đời Hai Bà Trưng". Câu chuyện làm "tui nhớ Quảng Trị tui", thời tui còn thơ ấu, tức là thời "Tây qua giăng giây thép", tàu bay Mỹ cũng chưa đến thả bom ở Quảng Trị, làm "sập cầu Ga".
 
​Ông Mạnh Thát bảo, đạo Phật truyền vào nước ta hai ngàn năm trăm năm, nhưng người Việt ta thì đã có bốn ngàn năm lịch sử. Đạo Phật, khi vào "nước ta" thì thẳng từ Ấn Độ qua, tới với người Chàm. Trong một số di tích của người Chàm còn lại, có ghi chữ Phạn.
 

CHÙM THƠ TÌNH MÙA THU CỦA PHẠM NGỌC THÁI


   


KÍ ỨC MÙA THU
 
Mùa thu khuấy lên bao kí ức
Xác thời gian trôi trên tóc em
Em đi trong trăng, mùa thu thổi gió
Lá vàng rơi mênh mông
 
Em đi qua mùa thu không gian
Trăng rãi đồi con gái
Nhớ đến lâu cái hương con gái
Nó thơm say và rất nhẹ nhàng
 
Đường dạo ấy trên đồi trăng sáng
Đêm chia tay em dúi cả vào anh
Để bóng lạc suốt đêm ngoài phố
Mây lãng phiêu mãi không về
 
Giờ đây chắc trên đồi thông đó
Gió vu vi và trăng vu vơ
Em đi trong trăng, mùa thu thổi gió
Mùa thu lang thang chẳng bến bờ...

HUẾ CỦA MỘT THỜI - Huy Phương



Huế không bao giờ là của tương lai, nơi đó là quá khứ, là những gì đã yên nghỉ, cùng với những linh hồn oan khuất chưa siêu thoát.
 
Trong giọng nói, có một cái gì đó gọi là rất Huế, đối với Quảng Nam-Ðà Nẵng, cách nhau một ngọn đèo thì có khác, cũng là điều đương nhiên, nhưng với Quảng Trị, chỉ cách mấy mươi cây số đường bằng, giọng Huế vẫn không lẫn vào đâu được. Dạ, dạ thưa tiếng nói nhỏ nhẹ dịu dàng.
 

VỀ ĐÂU – Thơ Ngô Đình Miên




"Về đâu, đâu cũng là đâu đó
Đâu cũng đìu hiu đất Hán Hồ"
                  (Nguyễn Bắc Sơn)
 
Nhớ một buổi chiều, tại Ma Lâm (huyện lỵ Hàm Thuận Bắc, Bình Thuận), ngày cuối năm 1991, khi hết giờ làm việc, dọn bàn ghế ra khoảnh sân rộng phía trước của cơ quan, có trồng những cây sầu chiều (ngủ chiều, me tây), tôi cùng một vài anh em bày nhậu. Lúc đó, chỉ có rượu gạo nấu thôi, nhưng mà nghĩa tình...
 
Tối đó, tôi viết 4 câu thơ 5 chữ mở đầu cho bài thơ VỀ ĐÂU (*). Vậy mà cho miết tới năm 2021, tức 30 năm sau, tôi mới có đủ trải nghiệm và cảm xúc để hoàn thành bài thơ này. Nay đăng lại đây để nhớ...
 
 
VỀ ĐÂU
 
Đi về đâu về đâu
Ai người quen kẻ lạ
Cây sầu chiều khép lá
Hoàng hôn phiá trời xa...
 
Chân bước trên đường vắng
Dấu chân người xưa đâu
Cỏ cứ xanh thầm lặng
Lạnh lùng in bóng câu
 
Mây xa mờ núi gọi
Cuộc đời thức chiêm bao
Sóng cuộn trào biển nói
Tồn tại biết được sao
 
Đêm phủ đầy gió lạnh
Người trên xe trần gian
Có thể ngôi nhà ấm
Hay mùa đông lang thang
 
Túa máu đau trượt ngã
Sụp hầm chông tư duy
Mới nhận ra khác mã
Dị biệt gien nghĩ suy
 
Bóng tối và ánh sáng
Chợt hiện lòng người thôi
Chung chiều, trời bảng lảng
Bình minh không đợi nhau
 
Bất tri là vô tận
Dài đêm hun hút sâu
Dù ta nhìn lơ đãng
Vẫn biết em về đâu...
 
             Ngô Đình Miên
 
..............................
 
(*) Thầy Nguyễn Quang Tân có phổ nhạc đoạn 4 câu này thành ca khúc ngắn, thường được hát với guitar thùng trong những bữa rượu anh em ngành giáo dục ở huyện.
 

Thứ Tư, 12 tháng 10, 2022

AI BẢO ANH LÀ NGHỆ SĨ – Thơ Quách Như Nguyệt, nhạc Đỗ Hải, ca sĩ Hồng Nhiên trình bày.


   
                     Nhà thơ Quách Như Nguyệt

 
AI BẢO ANH LÀ NGHỆ SĨ
 
Sáng sớm được nghe anh hát
Thấy tim nhức nhối trời ơi!
Không yêu mới chuyện lạ đời
Thương anh, quí anh nhiều lắm!
 
Tại em tâm hồn thi sĩ
Cho nên lãng mạn ra gì
Tại anh tâm hồn nhạc sĩ
Lời thơ, nốt nhạc mê si
 
Cảm xúc dồi dào nóng bỏng
Dễ yêu dễ nhớ, phải lòng!
Giọng hát vút cao mênh mông
Em nghe bồi hồi, cảm động!
 
Làm sao kiểm soát trái tim?
Hãy để trái tim đi tìm
Làm sao ngăn chặn tình yêu?
Trái tim mù lòa, thất thểu
 
Anh trải lòng anh qua nhạc
Yêu thương chuyển bằng âm thanh
Nghe nhạc cứ tưởng vu vơ
Ngẫm nghĩ… mới thấy thẩn thờ
 
Làm sao không yêu được chớ ?
Bản nhạc anh viết cho em
Từng nốt réo rắt nhịp nhàng
Ngọt ngào, dễ thương, nức nở
 
Không yêu mới là chuyện lạ
Thế gian toàn chuyện lạ đời
Nên ta không thể yêu nhau
Cho dù quý thương vời vợi
 
Cảm ơn tình yêu nửa vời
Cảm ơn bản nhạc tuyệt vời
Cảm hứng, em lại làm thơ
Tình đẹp là tình muôn thuở
 
            Quách Như Nguyệt    


      

Thơ: Như Nguyệt.
Nhạc: Đỗ Hải.
Ca sĩ: Hồng Nhiên.

CHÙM THƠ “TRƯỜNG TƯƠNG TƯ” CỦA LÝ DÃ, LÝ DỤC, LÂM BÔ – Đỗ Chiêu Đức


    
Một trong TỨ ĐẠI NỮ THI NHÂN đời Đường là李冶 (730-784), tự là Quí Lan 季蘭 (Thái Bình Quảng Ký 太平廣記 ghi là TÚ LAN 秀蘭), người đất Ô Trình (thuộc Ngô Hưng tỉnh Chiết Giang hiện nay). Bà là nữ thi nhân nổi tiếng trên thi đàn đời Đường lúc bấy giờ. Mặc dù lớn lên với chiếc áo của nữ đạo sĩ, Lý Quí Lan vẫn cởi mở phóng khoáng như một nam nhân, chẳng những giỏi về thơ văn, bà còn tinh thông cả âm luật và giỏi về đàn cầm nữa. Bà gặp được danh sĩ Chu Phóng lúc bấy giờ. Tài tử giai nhân nhất kiến chung tình, đang khi đôi lứa đang mặn nồng thì Chu Phóng lại nhận chiếu chỉ đi làm quan xứ khác. Thương nhớ dâng tràn khiến hồn thơ cũng lai láng, Lý  Quí Lan đã viết nên bài thơ nổi tiếng "Tương Tư Oán 相思怨" sau đây:
 

MÙA THU TRÊN ĐÔI CÁNH CAM, ĐÁNH RƠI BUỔI CHIỀU – Thơ Tịnh Bình


   
             Nhà thơ Tịnh Bình


MÙA THU TRÊN ĐÔI CÁNH CAM
 
Ngỡ phôi thai từ giấc mơ cổ tích
Em hái dùm ta tròn nụ trăng rằm
Con cánh cam bay từ đâu bay tới
Lấp lánh thu vàng chở nắng mùa sang
 
Nhặt đầy tay mùi hương trái thị
Bao lâu rồi thơm vẫn còn thơm
Thu quay quắt tiếng chim gù lơ đãng
Cánh đồng xa mơ giấc rạ rơm
 
Ai gieo hạt mùa thu năm trước
Cúc tựa chiều loang nắng vàng hoe
Chân trời cũ rập rờn khói biếc
Người lạ xa trên lối đã quen mòn
 
Ta tìm ta thuở đầu trần tóc khét
Gập ghềnh mây qua đỉnh núi phiêu du
Như vương vấn miền ấu thơ hò hẹn
Con cánh cam từ xa thẳm bay về...
 

CHÙM THƠ 6 BÁT CỦA CHU VƯƠNG MIỆN


  
 

CHÙM THƠ 6 BÁT
 
 Loại Hình Thơ Phát Điển “*”
 
1
Em à? đất thấp trời cao
Mất nhau? thì có tiếng gào cũng xong
Đầu mùa nhìn lúa ba giăng
Cuối mùa gốc rạ gốc rơm ngút trời
Mất nhau thì chuyện đã rồi?
Còn đâu nải chuối đĩa xôi góc bàn
Từ ngày xẩy bước sang ngang
ối thôi thơ thoét tràng giang tràn hà
bên nhau chả ngại quan hà
không nhau cũng chỉ gọi là quên nhau
lôi thôi hộp bánh buồng cau
dở dang đến tận kiếp sau cũng là
mưa mây trên cửa sông Đà
gió đâu thổi lạnh tạt qua chốn này
quê nhà Bất Bạt là đây
còn đâu? Quang Dũng viễn tây chùng chùng
xa xôi cách trở muôn trùng
người đi kẻ ở mạn rừng mạn xuôi?
 
2
Người theo Nguyễn Bính sang ngang
Còn ta theo chuyến  xe tàn về không
Nên duyên vợ vợ chồng chồng
Hữu duyên con dắt con bồng mỏi tay
hết Tàu rồi lại tới Tây
hết Nhật tới Mẽo ăn mày ăn tao
ở không phi điếu thuốc Lào
thấm vào huyết quản lúc nào im re?
suối ngàn róc rách bờ khe
trên non công múa vịt chè suốt năm
trách người trách chuyến đò sang
đò đi quan cấm đò ngang không chèo
hai bên bến Quảng bến Tiều
Đắm đò chìm nghỉm còn tiêu xái gì?
Chuyện xưa giận bạn lỗi nghì
Chuyện nay nhìn núi Ba Vì xù thôi
Loanh quanh chân núi vạt đồi
Nơi nao cũng rặt phố ngừơi khác xa
 
3
100 dâu đổ hết đầu tằm
100 bùn cũng đổ xuống đầm mất tiêu?
Thoáng qua mới sớm đã chiều
Vừa đây bay bổng chừ diều đứt dây
Bánh chưng sắp cạnh bánh giầy
Bánh chay bánh cốm thức ngày ngáo đêm
Canh một cho đến canh năm
Cả đêm thức nghĩ con ong kiếp người
Tháng giêng cho đến tháng 10
Bến Xuân giờ đã có người lãng quên?
Nước ơi? chẩy xiết xuống gành
đàn chim câu đã vội vàng bay cao
băng qua Bắc Cạn Thượng Lào
về nơi Sầm Nứa rặng đào cuối non
nơi đây rừng núi vẫn còn?
hồn Văn Cao & Quang Dũng còn trơ trơ
1000 xưa cho tới 1000 giờ
Tài hoa Nguyễn Bính ngát bờ cỏ cây?
 
4
Mùa thu cúc mùa xuân mai
Quanh năm suốt tháng khoai mài khoai môn
Hết gió đông lại gió nồm
Ước mơ cũng chỉ bát cơm không “ghế” mì
Tháng ngày vẫn kéo nhau đi
Thành bầy chim chạy thiên di mất rồi
Đông tàn xuân lại tới nơi
Thì thôi đủ thứ đất trời ngả nghiêng
Ngồi ngay cửa biển chiều hôm
Thuyền đâu sót một cánh buồm tẻo teo
Loanh quanh toàn sóng chán phèo
Cuối thu vài trận gió heo thổi về
Dặm dài sơn cận đàm khê
Nhớ nhau chả một lời thề làm tin?
Chờ cho ngọc nát châu chìm?
Chuyện xưa giống một rừng lim chặt rồi
Trên bờ sóng gió lôi thôi
Dẫy Tràng Kênh giữa một trời bao la
Chừ còn lại mỗi mình ta?
 
5
Có thì có cả thợ may
Không thì đến cả thợ giầy cũng không
“em là cục cứt trôi sông
Anh là con chó chạy rông trên bờ”  “**”
Sông Tương một giải nông sờ
Thiếp chàng hai chốn nằm mơ đã đời
Tiếc thay trời vốn quên người
Nên chi? kẻ khóc người cười phụ nhau
Nhớ hoài thêm tóc thêm râu
Xiêu xiêu nhìn mãi dàn bầu không hoa?
Quanh mình toàn những người ta
Toàn là mắt trắng? đâu là mắt xanh
Xế đời nghĩ quẩn lẫn quanh
Kẻ sống người thác cũng đành thế thôi?
Hết luân rồi lại qua hồi
hết anh kẹo kéo đến thời bán kem
80 mắt kẻm kèm nhèm?
 
                                Chu Vương Miện
 
“*”
“Thơ Phát Điển” có từ đầu thế kỷ 19, kế đó là thơ Đầu Điển
Cuối thế kỷ 19 là thơ Cổ Điển, qua đầu thế kỷ 20 là thơ Phong Cổ
Từ năm 1932 trở đi là thơ Mới Bắt Chước thơ Cổ Điển Tây Phương Thế kỷ thứ 16 & 17.
 
“**”
“Ca dao kéo” của dân gian .
 

KHÚC SÔNG CA – Thơ Lê Đình Lộng Chương


   
             Nhà thơ Lê Đình Lộng Chương


KHÚC SÔNG CA
(Gởi tặng Hạ Thái Trần Quốc Phiệt)
 
Khách bạc đầu trong sóng bạc đầu.
Thời gian theo nước chảy qua mau...
Đâu mùa đố lá trăng giao núi
Đâu bến tầm hoan nắng bắc cầu 
Giấc mộng - thực hư thành tiếc nuối
Trái đời - chua ngọt để thương đau
Bàng hoàng thắp đuốc tìm dư ảnh
Khách bạc đầu trong sóng bạc đầu...
 
Sóng bạc đầu đùa tóc phất phơ...
Bâng khuâng soi mãi ngỡ gương mờ
Em còn rãi cỏ thơm quanh gối
Ta bỗng nghe mình thức giữa mơ!
Hình dáng nhân sinh chưa rõ mặt
Cánh buồm biển ái đã sang bờ 
Giờ sông trắng xóa màu lau lách
Sóng bạc đầu đùa tóc phất phơ...! 
 
                           3-4-2014 
                Lê Đình Lộng Chương

Thứ Ba, 11 tháng 10, 2022

CHÙM THƠ “XA VẮNG...”, “XIN...” CỦA LÊ VĂN TRUNG


   

 
XA VẮNG
 
Thu về chưa? Sao lòng như sương
Nắng có vàng cho sương tỏa hương
Cho tình phiêu lãng nghìn năm cũ
Cũng nở thiên thu những đóa buồn
Thu không về, sao lòng heo may
Sao xôn xao một nỗi tình hoài
Sao phố buồn im chùng câu hát
Sao mềm bàn chân trên rêu phai
Thu về không? Hẹn đêm chưa tàn
Em về đâu mà ngày chưa sang
Ai buông câu hát ngoài hiên vắng
Hay tiếng sầu tôi vừa thở than
Hay tiếng đàn ai chùng nốt lặng
Hồn thu quạnh quẽ ở phương này
Hay tình em cũng chừng xa vắng
Hay thơ buồn như một cơn say!?
 

MÂY, GIAO MÙA – Thơ Lê Phước Sinh


   
                Nhà thơ Lê Phước Sinh

 
MÂY
 
Cuộc sống đôi lúc chỉ là những chuỗi tình cờ
bỗng nhiên kết thành định mệnh.
 
 
GIAO MÙA
 
Thu làm rơi chiếc áo
ướt đẫm
đợi Đông sang.
 
          Lê Phước Sinh

NHỮNG BÀI THƠ VỀ THU (1) – Nguyên Lạc


    
                        Nhà thơ Nguyên Lạc

 
CHIỀU THU ĐẮNG KHÚC HỒ TRƯỜNG
        
Hồ trường, hồ trường, ta biết rót về đâu?      
 (Nguyễn Bá Trác)
 
1.
Quê hương có gì để nhớ?
Mà thu vàng mắt vời trông
Tha hương còn gì để nhớ?
Chút thôi, ký ức trong lòng
Chút thôi đủ lòng lệ ứa
Áo cơm nát mộng trăng rằm
Quá khứ tôi ơi thôi nhớ
Mây bay níu giữ được không?
 
2.
Lữ khách mùa về nhung nhớ
Người ơi có nhớ ta không?
Thu sang tiếng thu ru mộng
Nâng ly đắng khúc Hồ trường 
Tri kỷ? Chỉ là hoài vọng!
Bên trời miên viễn hư không
Thanh xuân đã rồi tan mộng
Còn gì? Lận đận mà thôi!
 
Thất chí tràn chén li bôi
Mời ai? Này bóng ta mời
Uống đi! Cho lòng ngất ngất
Say đi! Vừa đủ quên đời
 
3.
Quê hương một thời bão loạn
Quê hương một thuở đoạn trường
Tri âm hồng nhan xa biệt
Thế gian lệ khổ đại dương!
 
Thôi nhé đừng nhớ đừng thương
Phù vân đời đó vô thường
Người ơi thu về lại nhớ!
Trông vời mắt đỏ tà dương
 
Chiều thu lưu vong nhung nhớ
Xa kia nghìn trùng quê hương
Xa kia mộng đời ta đó
Một thời... hình bóng khói sương!
 
Chiều thu độc ẩm hồ trường
Nâng ly "hề vọng mỹ nhân" [*]
Em ơi! một phương ta ngóng
Quê ơi! một trời ta thương
 
.........................

[*] "Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương"
                                         - Tô Đông Pha
 

Thứ Bảy, 8 tháng 10, 2022

THƯ TÌNH XUÂN QUỲNH GỬI LƯU QUANG VŨ

Mỗi khi Lưu Quang Vũ công tác xa nhà, Xuân Quỳnh gửi nỗi nhớ thương, phấp phỏng đợi chờ vào trong từng lá thư.
 
Sách Trong đáy mắt trời xanh là vĩnh viễn do Lưu Khánh Thơ - em gái Lưu Quang Vũ - biên soạn, công ty Nhã Nam phát hành dịp kỷ niệm 80 năm ngày sinh của Xuân Quỳnh (6/10/1942-6/10/2022). Sau đây là phần trích đăng nội dung một số bức thư Xuân Quỳnh gửi Lưu Quang Vũ.

Lưu Quang Vũ (áo trắng) và Xuân Quỳnh (giữa) bên các con Lưu Quỳnh Thơ (trái), Lưu Minh Vũ (phải), Lưu Tuấn Anh. Ảnh: Gia đình cung cấp
 

Thứ Sáu, 7 tháng 10, 2022

"NĂM CỤ KHI KHÔNG RỚT CÁI ÌNH..." – La Thụy sưu tầm và biên tập


 
Một người bạn hỏi tôi có thuộc toàn bài thơ có 2 câu này không, sưu tầm tên 5 vị thượng thư đó và những sự việc liên quan đến họ, giúp bạn với:
 
“Năm cụ khi không rớt cái ình,
Đất bằng sấm dậy giữa thần kinh.”
 
Xin ghi lại những điều tôi đã hồi đáp cho bạn ấy.
 
Năm 1933, vua Bảo Đại muốn cải cách triều đình bèn ban cho về hưu một lúc 5 Thượng thư các Bộ: Lại, Hình, Binh, Lễ, Công vốn chỉ thông nho học, nhường chỗ cho những người thông thạo học vấn phương Tây. 5 vị thượng thư đó gồm:
 
1/ Nguyễn Hữu Bài - Thượng thư Bộ Lại
2/ Tôn Thất Đàn - Thượng thư Bộ Hình
3/ Phạm Liệu - Thượng thư Bộ Binh
4/ Võ Liêm - Thượng thư Bộ Lễ
5/ Vương Tứ Đại - Thượng thư Bộ Công
 
Sự kiện này được ghi lại bằng bài thơ Đường luật, có chơi chữ tên 5 vị quan các bộ bị bãi chức ở từng câu tương ứng do nhà thơ Hoài Nam Nguyễn Trọng Cẩn (1900-1946) sáng tác:  
 
Năm cụ khi không rớt cái ình,
Đất bằng sấm dậy giữa thần kinh.
Bài không đeo nữa xin dâng lại,
Đàn chẳng ai nghe khéo dở hình.
Liệu thế không xong binh chẳng được,
Liêm đành chịu đói lễ đừng rinh.
Công danh như thế là hưu hỉ,
Đại sự xin nhường lớp hậu sinh.