BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Sáu, 1 tháng 5, 2020

SỰ TÍCH HOA SIM VÀ HOA MUA - Thơ Hồ Minh Tuấn


   

   


SỰ TÍCH HOA SIM VÀ HOA MUA

Chuyện rằng vào thuở xa xưa
Non sông nước Việt giặc ưa ngó dòm.
Quanh năm khuya sớm chiều hôm
Vó thù phương Bắc mộng ôm bá quyền.
Còn nơi đâu chốn bình yên
Khắp nơi đầy lũ gây phiền hại dân...

Lời Non Sông vọng xa gần
Tráng binh nghĩa sỹ bao lần xuất chinh.
Người ra đi giữ thái bình
Thương người ở lại tấm tình thủy chung.
Người ra đi chí anh hùng
Bao người vợ, mẹ quyết cùng hậu phương...

Trời cao cũng động lòng thương
Cho Tiên hạ thế lên đường giúp dân.
Tử Sim, Tiên đẹp giáng trần
Tử Mua, Tiên cũng muôn phần kém chi.
Đức tài nào có ai bì
Cùng dân khuya sớm quyết vì thái an.
Hậu phương từ đó vững vàng
Chặn loài phương Bắc sói lang hại đời.

Người đi kẻ ở ai ơi
Tiễn nhau là tiễn về nơi chia lìa.
Quê nhà người đợi sớm khuya
Người đi đi mãi bên kia chân trời.
Đồi cao nhìn bóng mù khơi
Để người ở lại lệ rơi không sờn...

Tử Sim yêu nhớ Thái Sơn
Chàng trai tuấn tú tài hơn vạn người.
Tử Mua ngày tháng quên cười
Nhớ chàng Đại Hải chân trời biên cương.
Bao chàng trai đã lên đường
Không ngày tái ngộ nhớ thương lệ sầu.
Thời gian biền biệt còn đâu
Hai nàng hóa kiếp tím sầu Sim, Mua.
Xuân Thu vạn kiếp qua mau
Trên đồi vẫn nở một màu thủy chung...

                              01/05/2020
                    Kachiusa Hồ Minh Tuấn

Thứ Tư, 29 tháng 4, 2020

BÀI THƠ VIẾT TRÊN ĐỒI CHARLIE, ĐỒI SẠC LY - Thơ Nguyễn Khôi

Lời thưa:
Nhân kỷ niệm 42 năm “mùa hè đỏ lửa /4-1972”, lại vừa xem Youtube của Nguyễn Thanh Khiết thăm đồi Charlie... lòng bồi hồi xúc động... xin gửi đăng lại 2 bài thơ của Nguyễn Khôi viết cách nay 26 năm, nhân một chuyến lên Sa Thầy/ Kontum công tác, như một nén nhang để Tưởng niệm các Tử sĩ và chia sẻ với những bà mẹ/ người vợ Việt Nam có người thân tử trận ở đồi Charlie năm xưa:

         
                      Nhà thơ Nguyễn Khôi


 BÀI THƠ VIẾT TRÊN ĐỒI CHARLIE
                       
 Đồi Charlie anh đi không về nữa
 Cỏ chân đồi máu tưới bốc màu xanh
 Sông Pô kô thuyền trôi theo sóng lũ
 để muôn đời vang tiếng hát A Sênh...
                       
 Ôi cuộc chiến ta qua “kênh” đạn lửa
 Hai mươi năm còn cháy khét tiếng lời
 Máu thịt đổ... mộng hóa thành Chim Quý ?
 Ai thương người mẹ góa, con côi ?!?
                          
 Ơi nhân loại, khác chi bầy muông thú
 tiêu diệt nhau để độc chiếm... lạ gì ?
 Xứ dân Thượng có cần chi bão lửa
 Mong chi Đồi đẫm máu Charlie ?!?

                        Kontum 30/4/1992
                            Nguyễn Khôi

                     
 ĐỒI SẠC LY
                   
 Đồi Sạc Ly em đi, anh ở lại
 Sông Sa Thầy dào dạt tình thương
 Cuộc chiến dữ khó nói điều phải trái
 Nỗi đau buồn để mãi ở làng buôn.
                      
 Đồi Sạc Ly máu xương xa vời vợi
 Đất Kontum heo hút một miền rừng
 Người nằm đây nói chi niềm mong đợi
 Em phương trời thương nhớ một người thương.

                             Sa Thầy - Kontum 2/11/1993
                                          Nguyễn Khôi
                                      (Nhà văn Hà Nội)

VÕ SƯ ĐẠI LỰC SĨ HÀ CHÂU BẠI TRẬN TRÊN VÕ ĐÀI, GÂY CHẤN ĐỘNG VÕ LÂM MIỀN NAM - Võ sư Hồ Tường

Bài viết được ghi theo lời kể của võ sư Hồ Tường, Chưởng môn phái Võ Lâm Tân Khánh Bà Trà, phụ trách võ đường Nhà văn hóa Thanh niên TP.HCM.

                                              Đại lực sĩ Hà Châu


HUYỀN THOẠI ĐẠI LỰC SĨ HÀ CHÂU ĐẢ LÔI ĐÀI BẠI TRẬN, GÂY CHẤN ĐỘNG VÕ LÂM MIỀN NAM TRƯỚC 1975
                                                                               Võ sư Hồ Tường

Võ sư, đại lực sĩ Hà Châu xứng đáng được coi là đệ nhất nội công của làng võ Việt ở thế kỷ 20. Thế nhưng, người hâm mộ võ thuật ở Việt Nam thường chỉ nghe nói về những màn biểu diễn thuộc loại "kinh điển" của ông chứ không hề biết rằng ông cũng từng là nhân vật chính ở một trận đả lôi đài gây chấn động giới võ lâm từ cách đây nhiều thập kỷ và càng thú vị hơn bởi đó là lần mà ông bại trận chỉ vì dính đúng một đòn.

PHIẾM LUẬN “THỔ LÀ ĐẤT” - Đỗ Chiêu Đức


                   Ã„á»— Chiêu Đức
                                        Tác giả Đỗ Chiêu Đức


                 PHIẾM LUẬN “THỔ LÀ ĐẤT” 
                                                                                     Đỗ Chiêu Đức
         
THỔ là ĐẤT, đất là ĐỊA , trong chữ Địa có Bộ Thổ, nên Địa cũng là Đất. Ta có từ kép Thổ Địa 土地 là Đất Đai. Thổ cũng thuộc một trong 214 bộ của CHỮ NHO... DỄ HỌC, theo diễn tiến của chữ viết như sau :


Ta thấy :

Từ Giáp Cốt Văn cho đến Đại Triện đều là hình tượng của một mô đất trên mặt đất, nên Thổ vừa là chữ Tượng Hình vừa là chữ Chỉ Sự, chỉ một đống đất trên mặt đất, đến Tiểu Triện thì các nét mới được kéo thẳng ra thành biểu tượng của chữ viết, cho đến Chữ Lệ thì mới hoàn chỉnh như chữ viết hiện nay THỔ là ĐẤT.

Thứ Ba, 28 tháng 4, 2020

ĐỘNG ĐỀN, BÌNH TUY - Nguyễn Thị Thu Sương


           
                              Tác giả Nguyễn Thị Thu Sương


                 ĐỘNG ĐỀN, BÌNH TUY
                                                                      Nguyễn Thị Thu Sương

Động Đền nơi ba mạ tôi sống, là một dãy nhà tạm bợ cho những người dân Quảng Trị di cư vào đây. Mái nhà và chung quanh tường lợp bằng lá buông. Thiếu thốn tiện nghi sinh hoạt, tôi thấy thương dân Quảng Trị mình. Thương gia đình tôi, phải sống tạm bợ như thế này trong gần một năm. Trước khi được chính phủ chia đất và có nhà riêng của mình.

ĐẰNG ĐẴNG CHIA LY - Trần Mai Ngân



                ĐẰNG ĐẴNG CHIA LY
                                                                         Trần Mai Ngân

Cuộc sống là những đằng đẵng chia ly!
Ngày hôm nay chia ly ngày cũ hôm qua. Ngày hôm nay, rời xa người cũ, rời xa quá khứ...và đôi khi mình cũng cách xa chính mình của ngày hôm trước.

MÁU LOÀI ĐỘNG VẬT CÓ GIÁ ĐẮT ĐỎ NHẤT THẾ GIỚI - Nguyễn Thanh Điệp

Có giá lên tới gần 20.000 USD/lít, đây là loài động vật có máu đắt đỏ nhất trên thế giới hiện nay. Nuôi con vật này lấy máu là một trong những ngành công nghiệp ở nhiều quốc gia.




MÁU LOÀI ĐỘNG VẬT CÓ GIÁ ĐẮT ĐỎ NHẤT THẾ GIỚI

Có giá lên tới gần 20.000 USD/lít, sam là loài động vật có máu đắt đỏ nhất trên thế giới hiện nay. Nuôi sam lấy máu là một trong những ngành công nghiệp ở nhiều quốc gia.


Các nhà khoa học phát hiện máu của loài sam có tác dụng vô hiệu hóa vi khuẩn độc hại. Sam biển không có hệ miễn dịch nhưng có một cơ chế phòng vệ đặc biệt để chống vi khuẩn. Khi đối mặt vi khuẩn độc hại, tế bào amip trong máu sam phát hiện và làm tê liệt, không cho chúng lây lan.


Khác với nhiều loài động vật sống trên cạn, máu sam biển có màu xanh, do thành phần hóa học trong máu quy định. Người ta chỉ khai thác mỗi con sam khoảng 30% máu trong cơ thể. Sau khi lấy máu, sam được đưa lại về biển và một tuần sau lượng máu của chúng sẽ phục hồi.


Theo "Sách đỏ IUCN", loài sam đã xuất hiện trên Trái Đất từ khoảng 450 triệu năm trước. Đây là một trong những sinh vật cổ xưa nhất từng xuất hiện trên Trái Đất vẫn còn tồn tại, được các nhà khoa học gọi là “hóa thạch sống”. Dù đã xuất hiện từ thời tiền sử, hình hài của chúng, đến nay, không có sự thay đổi so với hàng trăm triệu năm trước.


Thức ăn của sam rất đa dạng, từ loài sinh vật nhỏ bé như cua, ốc, động vật thân mềm đến những loài tảo biển và sinh vật bị thối rữa. Chân của sam có gai lồi ra dùng để nghiền và xé thức ăn, đưa vào miệng.


Sam là loài vật đẻ trứng. Con mới nở chưa có đuôi, vỏ rất mềm. Kích cỡ trung bình của sam biển trưởng thành từ 30-60 cm. Trong quá trình lớn lên, sam lột xác khoảng 20 lần.


                                                                          Nguyễn Thanh Điệp

Nguồn:
https://zingnews.vn/loai-dong-vat-co-4-mat-moi-lit-mau-gia-gan-20000-usd-post1002018.html



THÁNG TƯ... XA MÃI !!! - Thơ Lý Hạ Liên


     
                       Nhà thơ Lý Hạ Liên


THÁNG TƯ... XA MÃI !!!

Tháng Tư Hạ đến lay rèm
Gọi mùa điệp nở vườn thêm nhớ người

Giọt buồn mòn mỏi con ngươi
Cho mưa ngâu tới cho vơi khóc thầm

Mưa về ướt bụi lá răm
Nhớ thương bữa ấy đêm nằm nỉ non

Ví dầu tình Bậu sắt son
Trăm năm biển cạn trăng mòn sá chi

Ta về buông mảnh tình si
Vườn xưa bóng cũ xuân thì rã tan

Nhìn vầng trăng khuyết đa mang
Nhìn ta trên vách dã tràng ngày vui

Tháng Tư về có ngậm ngùi ?
Bậu xa ta nhớ ngủ vùi cho quên

Lệ buồn ta một mình ên
Cố quên lại nhớ gọi tên Bậu à !!!

                             Lý Hạ Liên
                              28.4.2020

CHUYỆN THÁNG TƯ QUÊ TÔI - Thơ Nguyên Lạc


      
                  Nhà thơ Nguyên Lạc



         CHUYỆN THÁNG TƯ QUÊ TÔI
        (Gởi Trần Phù Thế - Hậu Thạnh, Đại Ngãi, Hậu Giang)

"Ai muốn chép công ta chép oán,
Công riêng ai đó oán ta chung"
                       (Vô danh thị)

I. MỘT THỜI EM TÔI

"Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi
Buôn bán không lời, chèo chống mỏi mê"
                                                   (Ca dao)

Nhánh lục bình trổ chùm bông tím biếc
Vướng bãi bùn khóc dòng xiết trôi xa!
Con thòi lòi trố mắt nhìn thương tiếc
Bỗng giật mình trái bần rụng chiều tà

Người về đâu lệ lưng tròng rưng rức
Bỏ lại sau bờ bến khói sương và...
Xuôi về đâu chiều bóng ngả bờ xa?
Buồn con nước bìm bịp kêu đôi tiếng!

Người năm cũ đâu còn áo lụa!
Trên dòng kinh bờ lở bờ bồi
Đôi mái chèo cùng đứa con côi
Vạt tóc khét lưng còng đời cô phụ!

Người năm cũ đâu còn cười nụ
Bên dòng đời khóc nỗi tàn phai!
Người "chinh phu" trên ngàn đẵn gỗ [*]
Ngày khổ sai lệ đổ đêm dài!

Ai gây chi oan khiên dâu bể?
Để em tôi cơ khổ phận người!
Để héo hon tuổi mộng đôi mươi
Trang đài cũ tả tơi cùng năm tháng!

Tháng Tư chi?
Nhân sinh đầy khổ nạn
Ký ức ơi!
Chứng tích đến khi nào?
Làm cách gì?
Biết làm sao?
Ai níu được mây trắng bay... bay...
Mãi...!

.........

[*] Trại "cải tạo"

Chém tre, đẵn gỗ trên ngàn
Hữu thân, hữu khổ phàn nàn cùng ai?!
(Ba năm trấn thủ lưu đồn - Khuyết danh)

GIỚI THIỆU TẬP THƠ “CHA KHÓC CON” CỦA PHẠM NGỌC THÁI



Trong nỗi đau tột cùng một người cha về cái chết của đứa con trai bị đột quị mới 27 tuổi đầu! Những ngày tháng đó, tôi cứ miên man viết những dòng thơ khóc xót xa con đầy máu và nước mắt ! Rồi xuất bản riêng cho con một thi phẩm - Đó chính là tập thơ “Cha khóc con”, Nxb Hồng Đức 2020.

HOÀNG TRÚC LY (1933-1983): HÀNH TRÌNH PHIÊU BẠT CỦA MỘT THIÊN TÀI THI CA - Phan Bá Thụy Dương

Nguồn:
https://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvn1ntnqn4n31n343tq83a3q3m3237nvn&AspxAutoDetectCookieSupport=1

              


HOÀNG TRÚC LY (1933-1983): HÀNH TRÌNH PHIÊU BẠT CỦA MỘT THIÊN TÀI THI CA
                                                              Phan Bá Thụy Dương

Nhiều người chỉ biết Hoàng Trúc Ly qua những bài thơ đăng trên các báo, các tạp chí từ 1955 và về sau là thi tập duy nhất: Trong Cơn Yêu Dấu của anh, do nhà xuất bản Hướng Dương trên đương Lê Lợi ấn hành năm 1963, do họa sĩ Trịnh Cung vẽ bìa. Tác phẩm thi ca này còn khiêm nhường hơn nhiều so với số trang trong tập thơ Bi Ca của Hoài Thương – người phụ trách trang thơ của bán nguyệt san Thời Nay phát hành một năm trước TCYD chỉ vỏn vẹn có 38 trang với 22 bài thơ in trên khổ giấy lớn 21×25.
Còn về sách, theo tôi, chỉ riêng trong năm 1967 anh đã cho ấn hành – ít nhất, 2 tác phẩm văn là Tiếng Hát Lang ThangHuyền Sử Một Kiếp Hoa. Ở hải ngoại tôi còn biết một tác phẩm khác của anh là cuốn Trạng Quỳnh cũng đã được một nhà xuất bản ở Houston – TX in lại vào năm 1984. Chưa kể những tập truyện cổ tích, truyền kỳ, sách thiếu nhi… hấp dẫn, luôn lối cuốn đọc giả do các chủ nhà in người Tàu cho phát hành từng kỳ hàng tuần trong thập niên 60 và đầu 70.

             

MỪNG NGÀNH Y TẾ TIÊU TRỪ DỊCH BỆNH - Đức Hạnh cùng quý thi hữu


     


CHÚC MỪNG CHIẾN SĨ TIÊU TRỪ DỊCH
CẢM TẠ NGÀNH Y CHỮA KHỎI NGƯỜI
                           (Thtk)

CHÚC tụng đoàn quân quá tuyệt vời !
MỪNG ngày thắng trận, thắng nhiều nơi
CHIẾN trường quyết liệt tan dòng Vít…[1]
SĨ bác kiên tâm trị những thời…[2]
TIÊU cảnh vi trùng gây đại dịch
TRỪ 'ma' Vũ Hán hại nhân loài
DỊCH tàn cả nước bình yên khỏe!
CẢM TẠ NGÀNH Y CHỮA KHỎI NGƯỜI.[3]

Đức Hạnh
20 04 2020

[1] Codid- 19
[2] Những giai đoạn bệnh trở nặng…
[3] Cập nhật lúc 13h00 ngày 20-4-2020:
Việt Nam: 268 trường hợp mắc COVID -19.
Đến 11h ngày 20/4, không ghi nhận ca mắc mới COVID-19.
Tổng cộng 207 người đã được chữa khỏi.


BÀI HỌA:


CHÚC MỪNG CHIẾN SĨ TIÊU TRỪ DỊCH
CẢM GƯƠNG TỪ MẪU CỨU MUÔN NGƯỜI
                   (Dĩ đề vi thủ)

CHÚC nhau đừng để nghĩa xa rời
MỪNG sớm vơi sầu tủi khắp nơi
CHIẾN trận can trường, nhân mẫn thế
SĨ trung dũng liệt, đạo ưu thời
TIÊU trùng cô vít - nòi ma mị
TRỪ khuẩn rô na - giống lạc loài
DỊCH nạn triệt tan, bừng sự sống
CẢM GƯƠNG TỪ MẪU CỨU MUÔN NGƯỜI!

Nguyễn Huy Khôi
20 04 2020

Thứ Hai, 27 tháng 4, 2020

VỀ NHÀ - Đinh Hoa Lư


                  
                                 Tác giả Đinh Hoa Lư
         

        VỀ NHÀ

         (Phần cuối “Hồi Ký Ra Trại” của Đinh Hoa Lư)

Ngày trở về, anh bước lê
Trên quãng đường đê đến bên lũy tre
Nắng vàng hoe, vườn rau trước hè cười đón người về
                                          (Ngày Trở Về / Phạm Duy)


Chiếc xe chạy khá nhanh, nó kiếm thêm một số khách kha khá trên đường vào. Hành lang giữa xe chật cứng. Cũng may tôi ngồi cuối cùng chỉ chờ lơ xe kêu xuống Ngã Ba Bốn Sáu chặng Rừng Lá thôi nên chẳng di chuyển làm gì. Người ngồi ép vào nhau, cổ nghểnh cao tìm khoảng trống để thở. Tôi cảm thấy thoải mái khi 'an phận' và nhờ lên xe trước. 


Phụ lái xe lấy 'ngon ơ' của tôi đúng một trăm đồng xong bỏ vào túi, tôi chẳng thắc mắc gì thêm. Chuyện tiền nong của anh ta với tài xế không liên quan gì tôi. Tôi lại âm thầm 'cám ơn' cái ghế 'súp' hiếm hoi do anh ta dành cho tôi lúc xe vừa rời Bến Nguyễn Hoàng.

Chiếc xe khách chạy nắp theo bờ biển. Hình như ngang bờ biển Ninh Chữ? Hoang sơ với làn nước xanh mấp mé theo quốc lộ. Bao hòn đá chập chùng, những vũng nước biển rong leo lẻo. Xa xa sóng đánh vào đá nước tung lên trắng xoá. Ngoài khơi hoang vu không thấy bóng thuyền.

Chủ Nhật, 26 tháng 4, 2020

MƯA THÁNG TƯ - Thơ Đoàn Giang Đông


    


MƯA THÁNG TƯ

Trời tháng tư sao mà mưa lạnh thế.!
Hạ đã về vẫn cứ thấy âm u
Cơn mưa đến làm phiền bao đồng lúa
Đợi một ngày quang tạnh hết mây mù

Đầu Hạ rồi đang ngồi chờ giọt nắng
Nắng ban mai rọi xuống má em hồng
Như ngày đó bên thềm ngày xa vắng
Ta nhớ em tìm giọt nắng Mùa Đông

Đêm nằm nghe ngoài vườn mưa rả rích
Ta chạnh lòng một thuở áo thư sinh
Và nghe mãi tiếng ai luồn trong gió.?
Bỗng giật mình ngày ấy tuổi băng trinh

Em phương ấy có nghe mưa không nhỉ.?
Có nghe cơn gió lạnh tháng tư về.?
Thôi cứ thế cứ nằm nghe mưa đổ
Tháng tư qua sẽ có ánh trăng thề
Ánh trăng thề một chiều đôi ta đã
Biển lặng yên ngồi đợi bóng hoàng hôn

                                    Sáng 26/4/2020
                                  Đoàn Giang Đông

DẤU XƯA: BÌNH THUẬN - ĐÀ LẠT VÀ NHỮNG CON ĐƯỜNG / Phan Chính


             


        BÌNH THUẬN - ĐÀ LẠT VÀ NHỮNG CON ĐƯỜNG
                                                                                  Phan Chính

Đầu thế kỷ XIX, dưới triều Nguyễn mới nối tiếp con đường cái quan (thiên lý, quan lộ, quan báo) đã có, bắt đầu từ Quảng Nam vào tỉnh Bình Thuận và giáp địa giới Biên Hòa. Các con đường sơn lộ tuy có nhưng không mấy thuận lợi do bị cắt khúc, địa hình núi sông hiểm trở, thú dữ hoành hành. Cho nên đường quan lộ được mở rộng theo hướng ven biển và thời này đã hình thành nhiều xóm làng từ những đợt lưu dân phiêu tán bằng đường biển dọc dài từ bắc vào nam. Điểm đặt các dịch trạm cũng là nơi có làng chài, cửa sông và dân cư sống bằng nghề nông ổn định. Đến năm 1822 dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huỳnh Đức mới tiếp tục con đường quan lộ từ kinh đô Huế vào, trong đó trên phần đất trấn Biên Hòa có 6 trạm dịch theo hướng mở ngược ra miền ngoài từ Bình Trước (Biên Hòa) qua ngã ba Vũng Tàu.

Thứ Bảy, 25 tháng 4, 2020

CHUYỆN ÍT BIẾT VỀ CHUYẾN KINH LÝ CỦA VUA BẢO ĐẠI ĐẾN BÌNH THUẬN - Lê Huân


                               Bảo Đại thăm ngôi chùa trong dinh Tuần vũ Bình Thuận


CHUYỆN ÍT BIẾT VỀ CHUYẾN KINH LÝ CỦA VUA BẢO ĐẠI ĐẾN BÌNH THUẬN
                                                                                          Lê Huân

HOÀNG ĐẾ ĐẠI NAM

Năm 1925 vua Khải Định mất, Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy khi mới 12 tuổi từ Pháp về nước thọ tang cha rồi được tôn lên kế vị hoàng đế, lấy niên hiệu Bảo Đại. Tháng 3 cùng năm, Bảo Đại trở lại Pháp để tiếp tục học tập. Sau 10 năm học tại Pháp, tháng 9 năm 1932, Bảo Đại về nước, ra đạo dụ số 1 tuyên cáo tự chấp chính và khẳng định chế độ quân chủ Đại Nam Hoàng Triều. Sau khi chấp chính, Bảo Đại đã cải cách công việc trong triều như sắp xếp lại việc nội chính, hành chính, cải tổ nội các và sắc phong thêm 5 thượng thư mới xuất thân từ giới học giả và hành chính nhằm thay thế các thượng thư già yếu hoặc kém năng lực. Đồng thời vua đã thực hiện kinh lý các tỉnh từ Bắc vào Nam.

NHỮNG BÀI THƠ THÁNG TƯ CỦA BÚT NHÓM SÔNG QUÊ - Phan Thạch Nhân, Nguyễn Thị Vĩnh Phước, Nguyễn Thị Liên Hưng


    


TUỲ BÚT

Ngày Tháng Tư nỗi niềm đau vô tận
Thương tháng ngày lệ đá đẫm bờ mi
Đá cũng khóc thương kiếp người lận đận
Bước chân trần vội bỏ xứ ra đi

Phố chết buồn tênh hàng me rũ bóng
Có nỗi đau nào thấm cảnh chia ly
Ai có chờ ai? Chiều buông đứng ngóng
Đêm đen nào tàu lặng lẽ ra đi

Ngày Tháng Tư nghĩ về nơi xa ngái
Có ai chờ nơi đất tổ quê cha
Con chim nhỏ lạc đàn bay, bay mãi
Chập chững vào đời tuổi mới mười ba

Bỏ sách đèn, bỏ ngày xưa thân ái
Xa trường xưa, xa phố nhỏ thân yêu
Thành phố lớn bước chân về ái ngại
Đêm nằm nghe phố thị ấy tiêu điều

Ngày tháng tư độc hành qua cuối phố
Phương Nam buồn lặng gió giữa ban trưa
Ta đếm ngược thời gian từng con số
Nắng đổ muôn chiều, em đã về chưa?

Phố vắng hắt hiu chiều nay thứ bảy
Vỉa hè buồn chẳng muốn bước chân đi
Thôi thì thế! Thôi thì em cứ hãy
Giới nghiêm rồi, thành phố đã cách ly

Ngày Tháng Tư đạp xe qua góc nhỏ
Công viên chiều ve nức nở lời ru
Hạ về chưa? Mà phượng hồng thắm đỏ
Điệp khúc buồn ray rứt kẻ lãng du

Nhìn phượng thắm mắt nhòa đôi kiếng cận
Cố nhân ơi! Tìm lại bóng hình xưa
Nỗi niềm ấy, nên dòng thơ về chậm
Tháng Tư rồi chờ đợi một cơn mưa.

                           Phan Thạch Nhân