BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Sáu, 15 tháng 3, 2024

NHỚ ỚI ỜI…NHAU VỀ HỌP MẶT, TÌNH SỬ BÊN DÒNG Ô LÂU… - Thơ Văn Thiên Tùng


  
             Nhà thơ Văn Thiên Tùng
 

NHỚ ỚI… ỜI… NHAU VỀ HỌP MẶT
 
Vườn cây luống tuổi cứ thưa dần
Đâu thuở ban đầu rộn bước chân
Ngẫm lại bảy hai năm (1) chẳng ít
Đồng môn vẫn lóng hóng xa gần…
 
Điểm mốc thời gian suốt chặng đường
Hai mươi niên học (2) vốn sương vương
Ngờ đâu chiến cuộc tràn muôn nẻo
Chúng chẳng chừa chi lẫn cả trường
 
Khu vườn đứng độ tản mười phương
Nẻo Bắc trời Nam lắm ngã đường
Mượn lán sửa nhà che học tạm (3)
Dù đâu vẫn giữ đúng tên trường
 
Cuộc chiến qua rồi ngẫm xót thương
Về quê tìm mãi chẳng đâu trường
Vùng phi quân sự chia bờ Hãn (4)
Thị tứ Diên Sanh tạm phố phường
 
Thống nhất đôi miền trở lại đây
Quê cha đất tổ vốn bao ngày
Bom cày đạn xới còn chi nữa
Chỉ đống hoang tàn ngán ngẫm thay
 
Từ đây biệt dáng lẫn tên trường
Ới bạn gom bè khắp nẻo phương
Thế đã bảy lần đồng hội ngộ
Thầy trò gặp gỡ ngậm ngùi thương…
… … …
Cố ới nhau về… nhớ nhé!
bạn mình ơi !!! …
 
            Mai Vân Văn Thiên Tùng
                      10/12/2023
 
*Ghi chú:

(1). 72 năm (1952-2024) từ khi trường thành lập đến nay họp mặt lần thứ 8;
(2). 20 Niên khóa (1952-1972) trường tồn tại ở tỉnh lỵ Quảng Trị
(3). Ba năm lưu lạc ở Đà Nẵng và Thị Tứ Hải Lăng;
(4). Hiệp định ngưng bắn tạm thời dòng sông Thạch Hãn lại là mốc giới tuyến chia cắt hai miền, không còn là sông Bến Hải nhứ trước đây.

PHẠM QUỲNH (1892-1945) - Bài viết của Minh Tran Hop


Học giả Phạm Quỳnh (1892-1945)

Năm 1992 ở Paris, tôi được đến dự buổi báo cáo luận án Tiến sĩ của bà Phạm Thị Viên, con gái học giả Phạm Quỳnh, về những đóng góp của ông với chữ quốc ngữ và trong lĩnh vực ngôn ngữ học. Phạm Quỳnh rất giỏi sử dụng tiếng mẹ đẻ, giỏi chữ Hán và tiếng Pháp, là người Việt Nam đầu tiên trong lịch sử diễn thuyết bằng tiếng Pháp trước Viện Hàn lâm Pháp Quốc khi ông mới 30 tuổi. Ông là người đi tiên phong trong việc quảng bá chữ Quốc ngữ và dùng tiếng Việt - thay vì chữ Nho hay tiếng Pháp - để viết lý luận, nghiên cứu.  Ông là tác giả câu nói nổi tiếng  “Truyện Kiều còn tiếng ta còn. Tiếng ta còn nước ta còn”. Ông cho rằng tiếng nói gắn liền với vận mệnh dân tộc, tổ quốc. Nhờ giữ được nguyên vẹn tiếng mẹ đẻ trong suốt hơn nghìn năm Bắc thuộc mà dân tộc ta không bị Hán hoá và do đó không trở thành một dân tộc ít người của Trung Quốc. Ông viết: “Người Tàu cai trị ta hơn ngàn năm; văn hoá Tàu, ta đổi theo; phong tục Tàu, ta bắt chước; duy tiếng ta, ta nói; ta không nói tiếng Tàu.”

Thứ Tư, 13 tháng 3, 2024

CÒN MỘT CHÚT GÌ ĐỂ NHỚ? - Trịnh Anh Khôi



Người trong ảnh được cho là “em Pleiku má đỏ môi hồng”, Nàng Thơ trong bài Còn Một Chút Gì Để Nhớ của thi sĩ Vũ Hữu Định. Người yêu thơ và yêu nhạc có thể đã không biết tác phẩm này rộng rãi đến vậy, nếu nhạc sĩ Phạm Duy không phổ nhạc nó vào năm 1970.
 
Vũ Hữu Định tên thật Lê Quang Trung, sinh năm 1942, tuổi Nhâm Ngọ tại Thừa Thiên – Huế trong một gia đình nghèo. Anh từng sống tại Tây Nguyên và Sài Gòn, trước khi lập gia đình rồi định cư ở Đà Nẵng. Anh làm thơ đăng báo từ khoảng những năm 1960 với bút danh Hàn Phong Lệ hay Hàn Giang Tử, về sau đổi thành Vũ Hữu Định.

ALBUM QUA MÙA ƯỚC VỌNG – Nhạc phổ thơ Nhã My, tiếng hát Châu Thùy Trang


Nhà thơ Nhã My

     
             

M – Thơ Trần Vấn Lệ


  
 

M
 
Ngày xưa cứ nghĩ trăng là nguyệt
Đâu có ai ngờ nguyệt nhớ trăng!
Cũng nghĩ em hoài cô bé bỏng
Ai ngờ em đã một Giai Nhân!
 
Em à, có lẽ Tiên muôn thuở
là những nàng Thơ rất diễm kiều?
Ai biểu tự dưng em cái bóng
còn hình là tượng một Tình Yêu!
 
Em nửa phần Tiên nửa dáng người
là cành Thu có điểm hoa tươi
là mùa Xuân giữa ngày Đông rét
ánh lửa ba sinh một nụ cười...
 
Anh muốn hôn em từ ngón út
từ bàn chân từ bước chân sen...
từ hương hoa ấy trầm hương tỏa
ngát bốn phương mà chỉ một M!
 
                              Trần Vấn Lệ

TỰ LỰC VĂN ĐOÀN TRĂM NĂM NHÌN LẠI - Võ Trung



Tự lực văn đoàn chính thức ra đời năm 1934, có trụ sở tại Hà Nội. Tự lực văn đoàn có 7 thành viên và nhiều cộng tác viên nữa, số cộng tác viên còn đông hơn cả số thành viên, tất cả họ đều là những nhà văn hay nhà thơ hoặc hoạ sĩ. Thời hoạt động của Tự lực văn đoàn trong nước có nhiều văn đoàn và tùng thư, nhưng Tự lực văn đoàn có sức sống mạnh hơn hết. Cho tới ngày nay người ta vẫn nhắc đến Tự lực văn đoàn nhiều hơn là nhắc các văn đoàn hay tùng thư khác.

NẮNG CÓ NHƯ XUÂN, TỰ TÌNH THÁNG BA, THÁNG BA VÀ EM, VỜ NHƯ – Thơ Hoàng Chẩm


   
               Nhà thơ Hoàng Chẩm


NẮNG CÓ NHƯ XUÂN
 
Thèm nắng cho đong đầy mắt nhớ
Phố lạnh vai gầy em như mơ
Góp nhặt yêu người về bỡ ngỡ
Kêu thầm tên một chút đợi chờ
 
Nắng có mềm nỗi buồn xuống thấp
Ơi em xưa dâu bể phận đời
Xuân đã chạm lòng ai khuất lấp
Cách mấy mùa xa một trùng khơi
 
Hỏi thử nắng sao về quá muộn
Em ru mình với giọt đông phai
Thuở mộng đầu cơ hồ sóng cuộn
Để bây chừ con nước chia hai
 
Nắng vẫn còn xuân bay áo lụa
Lối cũ ta về lắm nẻo thương
Em có còn thơm lây bậu cửa
Nắng cho hồng tóc gió tơ vương.
 

SỐ ĐẶC BIỆT 10 NĂM VĂN VIỆT: PHỎNG VẤN NHÀ VĂN NGUYÊN NGỌC VỀ BAN VẬN ĐỘNG THÀNH LẬP VĂN ĐOÀN ĐỘC LẬP VIỆT NAM - Văn Việt



Xin ông nói về ý tưởng cho ra đời Ban vận động thành lập Văn đoàn Độc lập Việt Nam cách đây 10 năm.
 
Nguyên Ngọc:
Đúng ra tôi đã nghĩ đến chuyện này từ nhiều năm trước nữa.
Chắc có người còn nhớ năm 1979, để chuẩn bị cho Đại hội lần thứ ba của Hội Nhà văn Việt Nam, với tư cách là bí thư Đảng đoàn của Hội, tôi có viết một bản gọi là Đề dẫn, nêu ra một số vấn đề về tình hình và nhiệm vụ của văn học trong điều kiện mới sau chiến tranh. Bản Đề dẫn ấy bị ông Tố Hữu lên án nặng nề, cho là nó nhiễm nặng quan điểm tự do tư sản. Vụ Đề dẫn gây ồn ào rắc rối khá lâu. Cho đến đầu năm 1981, một hôm tôi đang họp Quốc hội thì được điện thoại từ văn phòng của ông Lê Đức Thọ, bấy giờ là ủy viên Bộ Chính trị, trưởng Ban Bí thư Trung ương Đảng gọi sang báo cáo ở số 6 Nguyễn Cảnh Chân, trụ sở Ban Bí thư Trung ương.
Ông Thọ hỏi tôi về vụ Đề dẫn:
- Đầu đuôi thế nào, anh kể xem?
Tôi kể hết đầu đuôi. Nghe xong, ông bảo:
- Tiểu sử của anh, tôi có biết. Anh là người có kinh nghiệm, nhưng chủ yếu là kinh nghiệm chiến tranh, chiến trường. Bây giờ anh về lãnh đạo Hội Nhà văn, ở đấy là một cái bụi gai, anh chưa kinh nghiệm gì, vấp là phải. Hôm nay tôi chỉ có thể nói với anh, tôi xác nhận ba điều: anh là người trung thực, anh có tâm huyết, và là người làm việc. Ba điều đó, có thể khẳng định. Còn chuyện quan điểm, tôi chưa đọc bản Đề dẫn, anh về gửi cho tôi một bản, tôi sẽ có ý kiến sau. Cũng phải còn trao đổi lại với anh Tố Hữu nữa.
Thấy không khí tương đối cởi mở, lại nhân dịp gặp người đang có quyền lực rất lớn, tôi tranh thủ nói thêm với ông một số suy nghĩ về cách tổ chức các hội văn học nghệ thuật ở ta, theo chỗ tôi biết khắp thế giới xưa nay không ai làm như thế, trừ Liên Xô sau Cách mạng Tháng Mười, và về sau các nước thuộc phe xã hội chủ nghĩa cứ kiểu đó mà nhất loạt làm theo. Cụ thể lúc bấy giờ có ông Jdanov là người đứng đầu về công tác tư tưởng của Liên Xô, ông ấy chỉ đạo cho ông Gorki giải tán hết các nhóm hội rất đông đảo và phong phú của nước Nga trước cách mạng, lùa tất cả vào chung một Hội Nhà văn Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, từ đó khiến cho nền văn học Xô-viết ngày càng chật hẹp và nghèo nàn đi. Các nước xã hội chủ nghĩa, ra đời sau đại chiến thế giới lần thứ hai, chịu ảnh hưởng của Liên Xô, cũng nhất mực theo cách đó mà làm.
Ở nước ta trước Cách mạng tháng Tám cũng từng có một đời sống văn học đa dạng và phong phú với nhiều nhóm hội khác nhau. Có nhóm Tự lực văn đoàn, chỉ là một nhóm tư nhân mà trong mấy chục năm đã “làm nên cả một thời đại trong văn học” như Hoài Thanh từng khẳng định, có nhóm Hàn Thuyên, nhóm Tân Dân, nhóm Tao Đàn, nhóm Xuân Thu nhã tập, rồi nhóm Phổ thông bán nguyệt san, nhóm Tiểu thuyết thứ Bảy, nhóm Tiểu thuyết thứ Năm, v.v. Ngoài ra còn có những nhà văn độc lập, rất nổi tiếng nhưng không theo nhóm nào, như Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng và nhiều người khác. Tất cả tạo nên một không gian nhiều trào lưu rộn rịp đua chen, làm giàu đời sống tinh thần của xã hội.
Đặc điểm tình hình ở ta là sau cách mạng thì tiếp liền chiến tranh kéo dài suốt 30 năm, với yêu cầu luôn bức bách “tất cả để chiến thắng”, văn học cũng phải tổ chức chặt chẽ thành một hội của nhà nước, như một binh chủng chiến đấu trong đội hình chung, có thể là thích hợp với tình hình lúc bấy giờ.
Nay đã hòa bình, hẳn cần trở lại với quy luật phổ biến và bình thường của đời sống văn học (và nghệ thuật). Theo tôi quy luật đó là, các nhà văn “chơi” với nhau mà thành nhóm thành hội. Trong các nhóm hội đó họ trao đổi ý tưởng và kinh nghiệm sáng tạo, giúp đỡ nhau và cùng nhau bảo vệ nghề nghiệp của mình. Đã gọi là chơi với nhau thì nên đa dạng, rộng rãi và tự nguyện tùy ý thích của từng người từng nhóm mà hình thành, hoặc vì cùng xu hướng nghệ thuật, hoặc cùng những quan tâm xã hội gần nhau, cũng có khi đơn giản hơn chỉ là do thân thiết riêng tư thế nào đó, hay chỉ là do ở gần nhau về mặt địa lý, đặc biệt do đặc điểm văn hóa vùng miền (như văn hóa vùng Kinh Bắc, văn hóa vùng đồng bằng Bắc bộ, văn hóa miền Trung, văn hóa Huế, văn hóa xứ Quảng, văn hóa rất độc đáo miền Tây Nam bộ, v.v.). Trong một nhóm nhà văn cũng có thể lại có một vài họa sĩ hay nhạc sĩ…, như Tự lực văn đoàn từng có họa sĩ hàng đầu thời bấy giờ là Nguyễn Gia Trí, họ khác nghề nhưng cùng chí hướng về nhiều mặt và thực tế có thể gợi ý cho nhau rất nhiều về nghệ thuật… Dồn tất cả hàng trăm hàng nghìn nhà văn chật chội vào một hội của nhà nước thì dễ lãnh đạo, nhưng tôi nghĩ lãnh đạo không nên chọn dễ mới làm, lãnh đạo một tình trạng đa dạng và phong phú có khó hơn nhưng hay và tốt hơn hẳn. Nếu Đảng vẫn muốn lãnh đạo thì nên chuẩn bị làm thế nào đảm bảo được sự lãnh đạo của mình trong điều kiện có nhiều nhóm hội văn học khác nhau, tạo nên một đời sống văn học của đất nước giàu có, hiệu quả, nhẹ nhàng và vui hơn nhiều…
Ông Lê Đức Thọ lắng nghe, không cắt lời tôi. Cuối cùng ông nói:
- Đấy cũng là một ý kiến đáng chú ý, để còn nghĩ và trao đổi xem.
Tôi về gửi cho ông bản Đề dẫn, nhưng rồi không thấy ông trả lại, cũng không thấy ông nói hay trao đổi gì nữa từ đó. Chắc ông còn bận những việc lớn quan trọng hơn nhiều.

ALBUM LỜI VỌNG CHÂN MÂY - Thơ Nhã My, nhạc Trần Nhàn

                          
                       
                                                                   Nhà thơ Nhã My


              

Thứ Ba, 12 tháng 3, 2024

MƯA SON – Thơ Tịnh Bình


  

 
MƯA SON
 
Lập xuân ngấp nghé đông tàn
Giêng hai vũ thủy ra ràng mưa son
Nuột nà từng búp tay thon
Nàng xuân e ấp như còn thơ ngây
 
Tắm xuân giọt giọt lay phay
Mưa như rắc bụi lên ngày thanh tân
Cành cao lá nhỏ không phân
Cỏ non lấm tấm rửa chân gội đầu
 
Đàn chim én nhỏ về đâu
Liêu xiêu đôi cánh lẫn vào hư vô
Mưa như dáng bụi hiền khô
Mơ màng sương mỏng cam lồ phải chăng?
 
                                                  Tịnh Bình
                                                 (Tây Ninh)

MỖI NGÀY MỘT TÂM TÌNH – Trần Vấn Lệ




Tin thời tiết Thứ Sáu:  "Thứ Bảy trời không mưa, Chúa Nhật, tuần tới, hoa / mừng Năm Mới, đua nở".
Phải vui như thế chớ!  Tin thời tiết lần đầu /
nói về chuyện ngày sau, dễ thương như tiểu thuyết!
Ai cũng tin là thiệt và dĩ nhiên là mừng.  Ngày mai có hay không... hãy để mai rồi thấy!
Bây giờ... hãy giận lẫy:  "Em mất gì hôm qua? Ngày Mồng Tám Tháng Ba / anh quên nói lời chúc?".
Anh muốn nhìn em khóc... dễ dàng mưa bóng mây!

Thứ Hai, 11 tháng 3, 2024

MỘT BÀI CA DAO VIỆT NAM ĐƯỢC CHUYỂN SANG HÁN NGỮ - Chuyện phiếm của La Thụy



La Thụy đọc trên báo SỐNG của Chu Tử trước 1975 một bài viết ngộ nghĩnh. Bây giờ chỉ còn nhớ một đoạn ngắn về việc chuyển ngữ bài ca dao Việt Nam sang chữ Hán. Post lên chia sẻ anh chị em đọc cho vui...
Bài ca dao nói về “sự đời em cái lá đa” đó mà...
 
“Sáng trăng em ngỡ tối trời
Em ngồi em để sự đời em ra
Sự đời như cái lá đa
Đen như mõm chó, chém cha sự đời.”
 
Bài ca dao được “dịch” sang chữ Hán như sau:
 
“Minh nguyệt ngộ u dạ
Ngã tọa phô thế sự
Thế sự như đa diệp
Hắc như khuyển khẩu
Trảm phụ thế sự...”
 
明月悞幽夜
我坐舖世事
世事如栘叶 
黑如犬口
斬父世事

(Ghi lại theo trí nhớ bài viết của Chu Tử đăng trên báo Sống trước 1975)
*
Bài ca dao chỉ gồm 4 dòng lục bát (28 chữ), nhưng “được” chuyển sang thể ngũ ngôn đến 5 dòng (trong đó 2 dòng cuối chỉ có 4 chữ mỗi dòng), nên chỉ gọn 23 chữ thôi. Chữ “đa” (trong cụm từ “lá đa”) chỉ có trong tiếng Việt nên người dịch mượn chữ (đa) trong Hán tự có nghĩa là “nhiều” rồi thêm bộ mộc để viết thành . Âm Nôm chữ đọc đúng là “đa”, nhưng có âm Hán Việt là “di” nghĩa là cây “đường lệ” 棠棣 (theo truyền thuyết).
Người dịch chỉ cà rỡn dịch thôi. Khi chữ Hán không có từ ngữ viết về lá đa, nên chúng ta tạm chấp nhận vậy.


MƯỜI KHÚC THÁNG BA – Thơ Ái Nhân

 
   
        ÁI NHÂN
        139 ngõ 399 Ngọc lâm – Long biên- Hà nội
        ĐT: 0984470914
        TK: 10524096395016 Tecombank
 

MÀU NẮNG THÁNG BA
 
Tìm trong màu nắng tháng ba
Gót son một thuở kiêu sa sang đò
Bên sông chấp chới bóng cò
Lúa xanh con gái thập thò chen nhau
 
Ngang chiều bất chợt mưa mau
Sấm non náo nức, theo sau mưa rào
Tinh khôi hương bưởi thầm thào
Gọi ta về với ngọt ngào ấu thơ
Tìm trong màu nắng mộng mơ
Thẳm xanh ánh mắt em chờ xa xôi
Tầm xuân xanh biếc nở rồi
Đầu làng hoa gạo hát lời quê hương
 
Tìm trong màu nắng yêu thương
Hân hoan áo trắng trên đường ban mai
Biết tìm đâu thuở xoan trai
Hoa xoan rụng tím bên ngoài giấc mơ
 

MẤT BAO LÂU ĐỂ VIỆT NAM BẮT KỊP THẾ GIỚI? - Trong Nhan Nguyen



GDP đầu người hiện tại của Việt Nam là $3,600 và mức tăng trưởng là 7%. Vậy mất bao lâu để có thế bắt kịp các nước khác?
- Thái Lan, GDP $7,200. Việt Nam cần 11 năm.
- Malaysia, GDP $11,000. Việt Nam cần 17 năm.
- Hàn Quốc, GDP $31,000. Việt Nam cần 32 năm.
- Đài Loan, GDP $33,000. Việt Nam cần 33 năm.
- Nhật Bản, GDP $39,000. Việt Nam cần 36 năm.
- Pháp, GDP $43,000. Việt Nam cần 37 năm.
- Đức, GDP $50,000. Việt Nam cần 39 năm.
- Mỹ, GDP $69,000. Việt Nam cần 44 năm.
- Singapore, GDP $72,000. Việt Nam cần 45 năm.
- Luxembourg, GDP $135,000. Việt Nam cần 54 năm.
 
Với điều kiện là các nước khác không tăng trưởng, không phát triển gì thêm và dặm chân tại chỗ. Nếu họ phát triển ở mức 1-3% thì Việt Nam phải mất 100 năm để bắt kịp Hàn Quốc và 200 năm để theo kịp Singapore.
 
"Tất cả số liệu đều công khai trên các tổ chức như Ngân Hàng Thế Giới, IMF và CIA."

Ngày xuất bản bài viết này là 24/12/2022". Mong năm 2023 sẽ khác. Yêu các độc giả.
                                                                         Trong Nhan Nguyen
*
Nguồn:
https://www.vietnambusinessinsider.vn/mat-bao-lau-de-viet-nam-bat-kip-the-gioi-a29125.html

TRƯỜNG CA HÒN VỌNG PHU CỦA NHẠC SĨ LÊ THƯƠNG – Phạm Hiền Mây



Sinh năm một ngàn chín trăm mười bốn tại Hà Nội và mất năm một ngàn chín trăm chín mươi sáu tại Sài Gòn, Lê Thương là một trong những nhạc sĩ tiêu biểu nhất thời kỳ tiền chiến của tân nhạc Việt Nam.
Theo hồi ký của Phạm Duy, Lê Thương vốn là một thầy tu nhà dòng hoàn tục. Suốt hai mươi năm (1954-1975), ông làm ở trung tâm học liệu Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa.
Ông từng là giáo sư dạy Sử Địa tại một số trường tư, dạy tiếng Pháp tại Pétrus Ký và trường Quốc Gia Âm Nhạc - Kịch Nghệ vào những năm sáu mươi của thế kỷ trước.
Ông đã sáng tác từ thời còn ở ngoài miền Bắc. Nhạc ông tự viết lời cũng có mà phổ từ thơ cũng nhiều. Trước khi viết trường ca Hòn Vọng Phu, ông từng viết những truyện ca và thậm chí, cả nhạc hài hước rất độc đáo. Những bản này được nghệ sĩ Trần Văn Trạch trình diễn nhiều lần vào thập niên bốn mươi của thế kỷ hai mươi.
Quả là đa tài.
Không chỉ thế, ông còn đặt lời cho những bản nhạc ngắn của nước ngoài: Lào, Mỹ, Nhật Bản, Pháp.
Có một thời gian, ông cùng nhạc sĩ Lê Cao Phan phụ trách ban nhạc Măng Non cho trẻ em, phát thanh các truyện cổ tích, khúc dân ca, bài ca nhi đồng. Cùng với Nguyễn Xuân Khoát, Lê Thương được xem như những nhạc sĩ mở đầu của dòng nhạc dành cho thiếu nhi, với những bản nổi tiếng, học sinh thời ấy không ai là không biết: Học Sinh Hành Khúc, Thằng Cuội, Ông Ninh Ông Nang.
 

NHỮNG CHIỀU ĐÔNG CUỐI NĂM – Thơ Khê Kinh Kha


   
                 Nhà thơ Khê Kinh Kha


NHỮNG CHIỀU ĐÔNG CUỐI NĂM
 
những chiều đông cuối năm ngồi nhớ quê hương
nhớ vắt cơm nếp nhớ cọng rau thơm nhớ vị ớt cay
nhớ mùi trầm trên bàn thờ ngoại
nhớ mẹ cha mắt mờ theo ngày tháng
nhớ em thơ từ cay đắng lớn lên
nhớ chị hiền theo chồng ra biên giới
nhớ họ hàng bỏ làng xóm ra đi
 
những chiều đông cuối năm ngồi nhớ quê hương
nhớ bạn bè đã chết nhớ những thằng còn sống
những thằng mặc cảm những thằng còn cầm súng
 
và nhớ Tĩnh nhớ Thục nhớ Phượng nhớ Sai-gòn nhớ Huế
 
những chiều đông cuối năm ngồi đốt thuốc tư lự
trên cành khô mùa thu nào đã chết
loài chim nào đã bỏ đi tình yêu nào đã vắng
nỗi hờn nào đã băng gía trong tim
kỷ niệm nào theo về trong lối gío
kỷ niệm nào vang vang lời tình xưa
kỷ niệm nào còn khua động trong hồn
 
những chiều đông cuối năm ngồi mong đợi
mà đã mong đợi hơn hai mươi năm
một cuộc tình êm dịu một ánh mắt trong
một nụ hôn một vòng tay một an ủi một sự thật
một hòa bình
 
những chiều đông cuối năm ngồi mặc niệm
những lãng phí nửa đời để lại lệ xót
và bây gìơ còn lại nỗi buồn trong mắt sâu
 
                                               khê kinh kha

BÃO MÙA XUÂN – Thơ Trần Vấn Lệ


  
                 Nhà thơ Trần Vấn Lệ


BÃO MÙA XUÂN
 
Bão mùa Xuân?  Không ai nói thế! 
Mà... tới kìa!  Ứa lệ đi, coi!
Tháng Ba Tây, mùa Xuân tới rồi,
Vẫn còn bão như tháng Mười Năm Ngoái?
 
Nếu bây giờ, anh với tôi cứ hỏi,
Ai trả lời cho thỏa dạ vừa lòng?
Chấp nhận nha!  Cơn bão mùa Đông!
Coi như Có, coi như Không... tự thân thời tiết!
 
Đáo Bỉ Ngạn là một điều cần thiết
khi cái gì rơi xuống nước, nổi lên.
Có thể nổi bồng bềnh
rồi trôi, trôi vô định!
 
Hồi Đầu Thị Ngạn cũng không ai tính
bến bờ nào may rủi tắp lên?
Giữa trời nước mông mênh,
niệm hai chữ "Vô Thường"... là mặc định!
 
*
Thuở chiến tranh có nhiều người trốn lính,
họ chết vì tai nạn rất vô duyên!
Cũng thuở chiến tranh, ai cũng nhủ sống hiền...
Thì anh thấy:  Sài Gòn Giải Phóng!
 
Lỗi chung của chúng ta:  không Nhân Chia Trừ Cộng,
Công đức của chúng ta:  mặc kệ chuyện Sang Giàu.
Mặt trời chiều đỏ rực đỏ au...
Chúng ta tưởng mặt trăng cũng vậy!
 
Và những gì anh và tôi nhìn thấy:
Bão Mùa Xuân... tự nhiên không mong!
Tôi có viết thêm, thơ được mấy dòng?
Thôi, không viết...để nhìn ngày xế bóng!
 
Thôi, không viết để nhìn ngày xế bóng
nhìn phù sa bao la bao la đại dương...
Ai ở trong lao, không giấu được nỗi buồn!
Ai trên biển... hiểu:  Không Còn Gì Để Tiếc!
 
                                                 Trần Vấn Lệ

NẮNG VƯỜN THIỀN, CẢM ƠN NGÀY MỚI – Thơ Tịnh Bình


   

 
NẮNG VƯỜN THIỀN
 
Man mác lòng ta cảnh đông tàn
Bốn mùa bình thản... lại xuân sang
Trăm hoa đua nở chào gió sớm
Ong đưa bướm lượn cảnh huy hoàng
 
Vạn vật hồi sinh như thắm lại
Tiếng chim trong trẻo nắng vườn thiền
Trà xuân thong thả tiêu dao khách
Rơi cánh mai vàng đóa uyên nguyên
 
Chuông xa đồng vọng không thương ghét
Chùa xưa phảng phất thoảng hương trầm
Tết đến xuân về người phơi phới
Nhành mai sân trước nụ cười thầm...
 

TÔI BIẾT – Thơ Đặng Xuân Xuyến


  
TÔI BIẾT
 
Tôi biết người ta cố quên tôi
Ước thề chỉ để thoảng đầu môi
Gặp tôi người cứ ne né vội
Như sợ chạnh buồn phía xa xôi
 
Tôi đã dằn lòng phải thế thôi
Người ta giờ đã khác xa rồi
Chữ tình khéo bẻ thành trăm lối
Dụ khách say tình, lén chuốc vôi.
 
Tôi sẽ về thăm lại lần thôi
Để nghe gió lạnh thốc mé hồi
Để xem u uẩn chiều loang lối
Để ngó mây trời lững lững trôi.
 
Hà Nội, ngày 06 tháng 03-2024
          Đặng Xuân Xuyến