Tôi được ông anh trân quý Lai Quangnam, chuyển cho tôi
2 đĩa VCD, thu các tài liệu và những cuộc giới thiệu về cuốn: Tự Điển Nguồn Gốc
Tiếng Việt: Vietnamese Cognatic Dictionary của bác sĩ Nguyễn Hy Vọng. Anh chuyển
khi đọc bài viết tôi đăng lần đầu trên fb cá nhân cuối năm 2018: Thiên di chủng
tộc dẫn tới biến thiên ngôn ngữ. Đó là bài mở đường cho một loạt bài tiếp theo
nằm trong phạm vi sử học mà tôi quan tâm: nguồn gốc dân tộc Việt và quan hệ
ngôn ngữ Mã- Việt- Hoa. (Xin xem thêm trang cá nhân mới đăng lại 3 bài tuần trước)
BÂNG KHUÂNG
Hiển thị các bài đăng có nhãn NGÔN NGỮ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn NGÔN NGỮ. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Năm, 10 tháng 2, 2022
Chủ Nhật, 6 tháng 2, 2022
TẾT LÀ GÌ - Bs Nguyễn Hy Vọng
Chỉ có người Việt gọi là Tết, trong khi cả ngàn triệu người Tàu gọi ngày đó là duỳn tản (nguyên đán) hay là xin nển (tân niên). Tại sao họ không gọi là Tết? Vì Tết không phải là tiếng của họ.
Thứ Bảy, 22 tháng 1, 2022
THÁNG CHẠP VÀ THÁNG GIÊNG - Lê Nghị
Bài viết tham gia nhân đáp từ ông anh Lạc Nguyên nêu ý: "nghĩ gì khi giáo sư Nguyễn Tài Cẩn giảng từ nguyên của tháng Chạp và tháng Giêng" (đã đăng 17/01/19)
Còn gọi theo dương lịch thì người Việt vẫn gọi tháng 12 và tháng một; tương ứng tiếng Hoa là thập nhị nguyệt và nhất nguyệt.
Theo giáo sư Nguyễn Tài Cẩn thì chạp do đọc trại chữ lạp, và giêng đọc trại chữ chinh. Nói cách khác người Việt mượn tiếng Hoa để đặt tên hai tháng cuối và đầu năm.
Thứ Năm, 13 tháng 1, 2022
NGÔN NGỮ NAM BỘ: CHÂN QUÊ VÀ GIẢN DỊ - Nguyễn Hữu Hiệp
TẢN MẠN VỀ TỪ “TẤM MẲN” - Trần Hoàng Vy
Thứ Hai, 10 tháng 1, 2022
VỀ CÂU CHÚC MỪNG CÔ DÂU CHÚ RỂ “SẮT CẦM HẢO HỢP” - La Thụy
BÁCH NIÊN HẢO HỢP
VỀ CÂU CHÚC MỪNG CÔ DÂU CHÚ RỂ “SẮT CẦM HẢO HỢP”
La Thụy
Trong một lần ngồi ở một quán ăn (vừa mở cửa lại sau khi tổ chức đám cưới cho con họ), chợt thấy trên vách trang trí câu “Sắt cầm hảo hợp”, một người bạn của tôi buột miệng: “phải là SẮC cầm… mới đúng chứ”. Bạn ấy cho phải là “sắc”, trong từ “nhan sắc”. Có lẽ bạn ấy nghĩ rằng “SẮC cầm hảo hợp” có ý nghĩa tương tự với “tài sắc song toàn”. Tôi thử giải thích nhưng xem ra bạn ấy không đồng ý.
Hôm nay, khá rảnh nên tôi ghi lại ít dòng bàn qua về câu chúc tụng bằng chữ Hán (hoặc âm Hán Việt) này
Bản dịch Chinh phụ ngâm khúc có câu:
“Sắt cầm gượng gảy tiếng đàn,
Dây uyên kinh dứt phím loan ngại chùng”
Đoạn trường tân thanh có câu:
“Ai ngờ lại họp một nhà,
Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm”
“Đem tình cầm sắt đổi ra cầm kì”
Truyện Hoa tiên có câu:
“Chưa cầm sắt cũng tao khang”
VÀI DÒNG LAN MAN VỀ TỪ GHI TRÊN THIỆP CƯỚI - La Thụy sưu tầm và biên tập
Theo
thiển ý của tôi, tại sao chúng ta không dùng hoàn toàn từ ngữ Thuần Việt trong
những trường hợp ghi trên thiệp cưới để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Chẳng hạn như:
Con trai út (út trai), con gái út (út gái), con trai đầu, con gái đầu, ....
Con trai út (út trai), con gái út (út gái), con trai đầu, con gái đầu, ....
Vào mùa đám cưới, tôi thường nhận được thiệp mời. Xin nêu vài trường hợp về cách ghi trên thiệp. Khi chú rể là con trai út thì thiệp mời ghi là ÚT NAM, khi cô dâu là con gái út thì thiệp mời ghi là ÚT NỮ. Nếu chú rể là con trai một trong gia đình (con trai duy nhất hoặc chỉ có chị em gái), thì thường được cha mẹ ghi trong thiệp là QUÝ NAM. Tương tự như thế, khi cô dâu là con gái duy nhất (không có anh chị em) thì thiệp mời ghi là QUÝ NỮ. Cách ghi như vậy trên thiệp mời là không chính xác.
Thứ Tư, 24 tháng 11, 2021
CHUYỆN CÁI CHÉN - Nguyễn Gia Việt
Nhưng phần lớn các tỉnh Bắc Kỳ kêu cái đựng cơm và đũa ăn là cái bát, Nghệ An, Hà Tĩnh gọi là cái đọi, thì ở Nam Kỳ kêu là cái chén.
Chữ bát nó xuất phát từ chữ 缽 (bát) của cái bình bát một nhà sư ôm đi khất thực.
"Đắng cay này chén tiễn đưaUống đi, uống để say sưa ngập lòng"(Chén rượu đôi đường - Vũ Hoàng Chương)
“Đua chi chén rượu câu thơ,Thuốc Lào ngon lạt nước cờ thấp cao."
"Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân"
“Vợ chồng chén tạc chén thùBắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi”(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Thứ Sáu, 12 tháng 11, 2021
CHỮ VIỆT GỐC PHÁP - Nguyễn Hữu Phước
Thứ Hai, 14 tháng 6, 2021
DÒNG HAY GIÒNG – Giáo sư Trần Huy Bích
Mời
quý anh chị và các bạn đọc một bài viết khá thú vị của giáo sư Trần Huy Bích luận
bàn về hai chữ "dòng" và "giòng", cách viết nào đúng chính
tả hơn.
Thạch Lam: Theo Giòng
Nhật Tiến: Tặng Phẩm Của Dòng Sông (1972)
Thứ Sáu, 5 tháng 3, 2021
TÔI YÊU TIẾNG NƯỚC TÔI – Mạnh Kim
Nguồn:
https://trithucvn.org/blog/toi-yeu-tieng-nuoc-toi.html
https://trithucvn.org/blog/toi-yeu-tieng-nuoc-toi.html
Thứ Năm, 23 tháng 7, 2020
CHUYỆN VUI THƯỜNG NGÀY: CHỮ VÀ NGHĨA - Đình Hy
CHUYỆN
VUI THƯỜNG NGÀY: CHỮ VÀ NGHĨA
Đình Hy
Trong cuộc
sống thường ngày, ngôn ngữ có chức năng giao tiếp, biểu đạt những ý nghĩ của chủ
thể ra khách quan bên ngoài để truyền thông tin với ý định, mục đích nào đó. Đó
là sự kỳ diệu ngôn ngữ của muôn loài, (ở loài người ban đầu là tiếng nói và sau
đó đạt một trình độ nhất định là chữ viết hình thành).
Thứ Sáu, 17 tháng 7, 2020
TIẾNG VIỆT: MỘT SỐ THÓI QUEN VÔ Ý VÀ VÔ LÝ TRONG ĐỜI SỐNG VÀ TRONG CÁC PHƯƠNG TIỆN THÔNG TIN ĐẠI CHÚNG - Đình Hy
Hội
thảo Ngữ học toàn quốc lần thứ 21 với chủ đề “Ngôn ngữ học Việt Nam trong bối cảnh
giao lưu, hội nhập và phát triển” do Hội Ngôn ngữ học Việt Nam và Đại học Thủ Dầu
Một tổ chức tại Bình Dương ngày 7 tháng 6 năm 2019. Bản báo cáo: in trong Kỷ yếu
Hội thảo và Tạp chí Văn nghệ Ninh Thuận số 110, tháng 5&6 năm 2019
TIẾNG
VIỆT: MỘT SỐ THÓI QUEN VÔ Ý VÀ VÔ LÝ TRONG ĐỜI SỐNG VÀ TRONG CÁC PHƯƠNG TIỆN
THÔNG TIN ĐẠI CHÚNG
Tiếng Việt vô cùng giàu nghĩa, giàu ý, giàu âm. Những
giá trị đó thể hiện tiếng Việt diễn tả, mô tả được các trạng thái đa dạng, phức
tạp trong cuộc sống, từ hiện thực khách quan đến tâm lý con người. Điều đó trở
thành niềm tự hào ngàn đời của dân tộc Việt Nam chúng ta.
Thứ Sáu, 3 tháng 7, 2020
TẠI SAO NGƯỜI VIỆT XƯA XƯNG “TÔI” VỚI CHÚA, VỚI BỐ MẸ? - Tần Tần
Người
xưa quan niệm xưng “tôi” là để bày tỏ sự khiêm tốn, hạ mình, còn người bề trên,
khi nói với bề dưới thì xưng “tao”.
Sách
Long thần tướng 4 in bài viết của nhà nghiên cứu Trần Quang Đức.
TẠI
SAO NGƯỜI VIỆT XƯA XƯNG “TÔI” VỚI CHÚA, VỚI BỐ MẸ?
Có lẽ, người Việt có hệ thống đại từ nhân xưng rắc rối
nhất trong các ngôn ngữ trên thế giới. Chỉ riêng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất
cũng có nhiều cách dùng, lại thay đổi qua từng thời kỳ, vùng miền. Vấn đề này
được nhà nghiên cứu Trần Quang Đức trình bày trong bài “Lược khảo về đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất trong tiếng Việt”, in ở
cuối sách Long thần tướng 4.
Thứ Hai, 9 tháng 12, 2019
ALEXANDRE DE RHODES VÀ SỰ TƯỞNG TƯỢNG VỀ LỊCH SỬ CẬN ĐẠI CỦA NỀN SỬ HỌC VIỆT NAM - Khôi Nguyễn
Nguồn:
https://usvietnam.uoregon.edu/vi/2019/11/27/alexandre-de-rhodes-va-su-tuong-tuong-ve-lich-su-can-dai-cua-nen-su-hoc-viet-nam/?fbclid=IwAR0FFflok2L4KV0VHhyeOPGCeRDdWh1xRklsnPm2Z6LmzdKGIE2Oe_VUHj4
Alexandre
de Rhodes Ảnh: Internet
ALEXANDRE
DE RHODES VÀ SỰ TƯỞNG TƯỢNG VỀ LỊCH SỬ CẬN ĐẠI CỦA NỀN SỬ HỌC VIỆT NAM
Tác giả: Khôi Nguyễn
(Đại học Oregon, Hoa Kỳ)
(Đại học Oregon, Hoa Kỳ)
Gần đây, thành phố Đà Nẵng muốn lấy tên Alexandre de
Rhodes để đặt tên đường phố. Một số trí thức, trong đó có nhiều người giảng dạy
lịch sử trong môi trường đại học, viết thư phản đối, cho rằng Alexandre de
Rhodes là một nhà truyền giáo mang tư tưởng thực dân, là kẻ có tội với Việt
Nam. Lá thư của họ khiến cho thành phố Đà Nẵng rút lại ý định.
Tuy vậy, những người phản đối ấy hoàn toàn dựa theo những
niềm tin có tính tưởng tượng về Alexandre de Rhodes nói riêng và hình ảnh “Tây
phương” nói chung, được kiến tạo từ trước 1975 ở miền Bắc.
Bài viết này nhắc lại một cách ngắn gọn những tưởng tượng
về lịch sử ấy để gợi mở cho chúng ta suy nghĩ về sử học, giáo dục và chính trị
đương đại.
TIẾNG NÓI VÀ CHỮ VIẾT CỦA VIỆT NAM - Hoàng Đằng
Tác giả Hoàng Đằng
TIẾNG
NÓI VÀ CHỮ VIẾT CỦA VIỆT NAM
(Ngôn ngữ và văn tự)
Hoàng Đằng
Thời gian này, có ý kiến trái chiều về việc lấy tên
giáo sĩ Francisco De Pina và giáo sĩ Đắc Lộ (Alexandre De Rhodes) đặt tên cho
hai con đường nào đó tại Đà Nẵng.
Qua những ý kiến đưa ra, tôi thấy đang có sự lẫn lộn
giữa TIẾNG NÓI và CHỮ VIẾT (Ngôn ngữ và văn tự) ngay cả trong giới trí thức.
Chủ Nhật, 25 tháng 8, 2019
MỘT SỐ TỪ NGỮ CỔ VIỆT NAM HIỆN NAY VẪN CÒN DÙNG CẦN HIỂU
Từ thời xa xưa, ngôn ngữ Việt Nam đã rất đa dạng, phong phú. Nhất là những từ ngữ cổ bởi chúng có thể diễn tả sâu sắc nội tâm của con người, diễn tả chi tiết về sự vật, hiện tượng…. Cho đến ngày nay, chúng vẫn tồn tại nhưng lại thường bị mất nghĩa hoặc bị hiểu sai.
Dưới đây là một số từ cổ tưởng chừng vô nghĩa nhưng lại có ý nghĩa rất bất ngờ và thú vị.
HIỆN NAY VẪN CÒN DÙNG CHÚNG TA CẦN HIỂU
* YÊU DẤU
Chúng ta vẫn thường nói, em yêu dấu, ‘yêu’ thì hiểu rồi,
nhưng ‘dấu’ nghĩa là gì?
‘Dấu’ là một từ cổ, sách Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh
Tịnh Của giảng: ‘dấu’ nghĩa là ‘yêu mến’. Từ điển Việt-Bồ-La của Alexandre de
Rhodes (1651) cũng giải thích ‘dấu’ là một từ cổ để chỉ sự thương yêu. Ông cho
ví dụ: Thuốc dấu là ‘bùa để làm cho yêu’.
Tục ngữ Việt Nam nói ‘Con vua vua dấu, con chúa chúa
yêu’, còn Hồ Xuân Hương trong bài thơ Cái quạt giấy (bài hai) thì viết ‘Chúa dấu
vua yêu một cái này’. Có thể thấy, ‘dấu’ và ‘yêu’ là hai từ có ý nghĩa tương
đương, ngày xưa dùng hai từ độc lập, nhưng bây giờ ta có thể thấy từ ‘yêu’ vẫn
còn được viết hay nói một mình, còn từ ‘dấu’ thì không ai dùng một mình nữa. Giờ
đây, thay vì ‘anh yêu em’ mà nói ‘anh dấu em’ thì không khéo lại bị hỏi ‘anh giấu
cái gì?’.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)