BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC
Hiển thị các bài đăng có nhãn CÂU CHUYỆN VĂN HỌC NGHỆ THUẬT. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn CÂU CHUYỆN VĂN HỌC NGHỆ THUẬT. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 12 tháng 3, 2023

BÍ MẬT HÀN MẠC TỬ (KỲ 10): TIÊN NỮ VU SƠN - Phanxipăng

                                                 Kỳ 10


Ấy là điển cố mà Hàn Mạc Tử dùng trong bài thư Thắm thiết viết về Mai Đình:
 
... Đây Mai Đình, tiên nữ ở Vu Sơn
Đem mộng xuống gieo vào muôn sóng mắt
Nàng! Ôm nàng! Hai tay tra ghì chặt
Cả bài thơ êm mát lạ lùng thay!
Ta là người uống muôn hận sầu cay
Nàng là mật của muôn tuần trăng mật
Ôi khoái chá thấm dần vô the chất
Hồn trong xương, ảnh hưởng đến mê tơi!
Quý như vàng, trọng như ngọc trên đời
Mai! Mai! Mai! Là Nguyệt Nga tái thế...
 
   
                         Mai Đình tức Lê Thị Mai (1917 – 1999)

Mai Đình có họ tên thật là Lê Thị Mai, sinh năm Đinh Tỵ 1917 (cùng tuổi với Mộng Cầm) tại quê nhà - xã Hoàng Giang, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hoá - trong một gia đình quan lại. Nàng còn có một bút danh khác là Ngọc Mai. Trần Thanh Mại qua chuyên luận Hàn Mạc Tử (sđd), đã ghi nhận: “Mai có học, viết quốc ngữ thông, nói tiếng Pháp được, làm thơ hay, có nhiều bài đăng báo”.
 

Thứ Năm, 9 tháng 3, 2023

BÍ MẬT HÀN MẠC TỬ (KỲ 9): MỘNG CẦM - NGÀY ẤY, BÂY GIỜ - Phanxipăng

                                                      Kỳ 9
Mộng Cầm & Phanxipăng tại Phan Thiết đầu Xuân Tân Tị 2001. Ảnh: Võ Nguyên

Với Hàn Mạc Tử, có thể nói Hoàng Hoa là mối tình đơn phương thì Mộng Cầm là tình yêu “có qua có lại... nhưng chưa toại lòng nhau”. Trong hồi ký Hàn Mạc Tử anh tôi (tlđd, tr. 32-33), Thiện Nam Nguyễn Bá Tín viết:

“Mối tình giữa hai người [Hàn và Mộng] đã có một thời sôi nổi trong giới văn nghệ sĩ, họ bàn tán thêu dệt theo cảm ý hay suy đoán của mỗi người. (...) Chưa ai biết rõ mối tình đó ra sao cả. Gia đình chị [Mộng Cầm] cũng không hề hé răng tiết lộ, dù là để thanh minh”.

CÂU THƠ CÓ "MỘT CHỮ KHÔNG VIẾT HOA" TRONG BÀI THƠ "MÙA XUÂN CHÍN" CỦA HÀN MẠC TỬ LÀM SAI LẠC NGHĨA GỐC - Nguyễn Khôi

        
             

Bài “MÙA XUÂN CHÍN” nổi tiếng của Hàn Mạc Tử, sách báo lâu nay đều in

“Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng”

Chữ “trí” không viết hoa là thừa - vì đã lòng lại thêm trí để nhớ … 
Đúng ra là “lòng Trí” (chữ Trí viết hoa). Đây là Thi nhân tự xưng: trong lòng Nguyễn Trọng Trí đây sực nhớ làng…

“Lòng Trí bâng khuâng sực nhớ làng

(Chỉ cần viết hoa hay viết thường đã làm hiểu sai lạc hẳn ý của câu thơ)?

Tập sách HÀNH TRÌNH ĐẾN VỚI HÀN MẠC TỬ của Dzũ Kha do nhà xuất bản CAND in năm 2007 thể hiện điều này

                                                                                     Nguyễn Khôi



Hành trình đến với thơ Hàn Mạc Tử là cuốn sách được sưu tầm và biên soạn bởi Dzũ Kha - người nổi tiếng với biệt danh "Người giữ lửa thơ Hàn", và cũng là người yêu thơ Tử đến độ đã dựng lều cỏ cạnh nơi an nghỉ cuối cùng của thi sĩ để ngày ngày đàm đạo với du khách về đời và thơ của Hàn Mạc Tử.

Trong cuốn Hành trình đến với thơ Hàn Mạc Tử chỉ dày 184 trang này, ngoài những bài thơ hay được chọn lọc của Hàn Mạc Tử, ngồn ngộn trong đó còn là những tài liệu và hình ảnh quý giá của Hàn Mạc Tử hoặc viết về ông. Đó là những hồi ức của em ruột thi sĩ là Nguyễn Bá Tín về kỷ niệm thuở thiếu giữa hai anh em. Đó là bút tích của thi sĩ họ Hàn về bài thơ nổi tiếng Ở Đây thôn Vĩ Dạ tặng cho mối tình đầu Hoàng Thị Kim Cúc hay là hình ảnh bút tích cuối cùng của thi sĩ tặng cho Nguyễn Văn Xê trong những ngày cuối đời đau đớn vì bệnh tật. Đó là hình ảnh của những người tình ngoài đời và người tình trong thơ của Hàn Mạc Tử, như Mộng Cầm, Mai Đình, Thương Thương, ... Đó là hình ảnh của căn phòng tại khu điều trị phong Quy Hòa (Quy Nhơn - Bình Định) nơi Hàn Mạc Tử trút hơi thở cuối cùng vào ngày 11-11-1940, ...

Thứ Ba, 7 tháng 3, 2023

BÍ MẬT HÀN MẠC TỬ (KỲ 8): BÀI THƠ “Ở ĐÂY THÔN VỸ DẠ” ”... - Phanxipăng

                                                 Kỳ 8: 

Hoàng Thị Kim Cúc (1913 – 1989) do Đình Phương vẽ. Ảnh: Phanxipăng

Năm 1992, ba cuộc hội thảo lớn được tổ chức ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh nhằm nhìn lại và đánh giá 60 năm phong trào Thơ Mới. Ban tổ chức đã đề nghị các nhà thơ, nhà nghiên cứu - lý luận - phê bình bỏ phiếu chọn những bài Thơ Mới hay nhất. Kết quả cuối cùng: Ở đây thôn Vỹ Dạ của Hàn lọt vào “top 18”. Quanh bài thơ nổi tiếng này, lâu nay rộ lên nhiều cuộc tranh luận sôi nổi - nhất là từ khi tác phẩm được Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định đưa vào giảng dạy chính thức trong chương trình lớp 11 bậc THPT. 

BÍ MẬT HÀN MẠC TỬ (KỲ 7 ): “SỰ THẬT TỪ MỐI TÌNH HOÀNG HOA”... - Phanxipăng


Năm 1933, Hoàng Thị Kim Cúc tròn đôi mươi

 
Kỳ 7: SỰ THẬT TỪ MỐI TÌNH HOÀNG HOA...
 
Kỳ trước, chúng tôi có nhắc qua “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” của mối tình đầu mà Hàn Mạc Tử dành cho cô gái Huế họ Hoàng. Đó là vào năm 1933, giai đoạn chàng đang làm thầy ký đạc điền ở phố biển Quy Nhơn. Trong Đôi nét về Hàn Mạc Tử (tlđd), Quách Tấn ghi nhận: “Khi Tử làm sở đạc điền Quy Nhơn, Tử có yêu một tiếu nữ ở cùng một con đường - đường Khải Định - biệt hiệu là Hoàng Cúc”.

Chủ Nhật, 5 tháng 3, 2023

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH: SONG, SÔNG –Đỗ Chiêu Đức


                                                                
Song Sa vò võ phương trời,                                 
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng
            
SONG SA 窗紗: SONG là cửa sổ, SA là Vải the hay lụa mỏng, nên SONG SA là rèm che cửa sổ bằng luạ hay vải the mỏng. Khi lần đầu tiên hội ngộ với Kim Trọng từ trưa đến xế chiều, Thúy Kiều đã phải:
                       
Vắng nhà chẳng tiện ngồi dai,                 
Giã chàng, nàng mới kíp rời SONG SA.
      

Còn khi một thân một mình thui thủi ở lầu xanh hết ngày này qua tháng nọ thì cụ Nguyễn Du đã tả hình bóng của Thúy Kiều một cách thật tội nghiệp:
                     
SONG SA vò võ phương trời,                 
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng.                         
Lần lần thỏ bạc ác vàng,               
Xót người trong hội đoạn tràng đòi cơn!

BÍ MẬT HÀN MẠC TỬ (KỲ 6): ĐI TÌM CHÚ TIỂU ĐỒNG THUỞ NỌ - Phanxipăng

                   Kỳ 6: ĐI TÌM CHÚ TIỂU ĐỒNG THUỞ NỌ

Phanxipăng thăm Phạm Hành tại Mỹ Chánh, Hải Lăng, Quảng Trị, hè 1995. 
Ảnh: Nhất Lâm

Năm 1987, Sở Văn hoá - Thông tin tỉnh Nghĩa Bình (nay là Quảng Ngãi vùng Bình Định) thực hiện tuyển tập Thơ Hàn Mạc Tử. Đề tựa ấn phẩm ấy, qua bài Hàn Mạc Tử, anh là ai?, nhà thơ Chế Lan Viên mấy lần nhắc đến nhân vật tên Hành. Một ở đoạn mở đầu: “...em Hành đem cơm cho anh [chỉ Hàn Mạc Tử] trong suốt bốn năm trời anh phung hủi và trước khi vào Quy Hoà để qua đời trong đó, nghe đâu, Tử đã sụp lạy cảm ơn em”. Rồi ở đoạn kết: “Nhưng lạ chưa, nhớ nhất là tôi nhớ đến chú Hành, cậu bé có tên mà hoá vô danh, nhưng mà bốn năm trời cậu vẫn hằng ngày chăm sóc, đem cơm cho Tử. Gặp Hành lúc nào cũng thấy Hành cười! Quá chú ý đến tri kỷ, tri âm mà quên người ân nhân này đi là điều không phải đâu, hỡi các nhà viết sách sau này về Hàn Mạc Tử.”

Thứ Sáu, 3 tháng 3, 2023

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH: SẤM, SÂN, SEN, SINH – Đỗ Chiêu Đức


Vận khứ lôi oanh Tấn Phúc Bi
         
"Vận khứ lôi oanh Tấn Phúc Bi 運去雷轟薦福碑" trong văn học cổ của tiếng Nôm ta gọi là SẤM ĐẤT TAN BIA. Câu nói nầy có xuất xứ như sau:
        
Đại văn Hào đời Tống là Phạm Trọng Yêm 范仲淹 khi làm Quận Thú ở Nhiêu Châu (thuộc Quận Ba Dương tỉnh Giang Tây hiện nay). Một hôm có thư sinh Trương Hạo 張鎬 lưu lạc giang hồ đến xin cứu giúp. Phạm thương vì người tài hoa mà chửa gặp thời, định giúp đỡ, nhưng Phạm là một ông quan thanh liêm, không lấy đâu ra tiền để giúp. Cuối cùng ông bèn đến nhờ trụ trì chùa Tấn Phúc, xin cho thư sinh kia được in một số bản văn ở thạch bia phía sau chùa bán mà độ nhật để về quê. Đây là bản văn khắc trên đá với bút pháp của Âu Dương Tuân 歐陽詢, là một trong Sơ Đường Tứ Đại Thư Pháp Gia 初唐四大書法家, nên rất được mọi người ưa chuộng.  
         
Nhà sư Trụ trì vì nể mặt Phạm Trong Yêm mà chấp thuận, còn hướng dẫn cho cách để in ấn. Phạm lại phải giúp thư sinh mua sắm giấy mực, bàn chải... định sáng ngày sẽ khởi công. Nào ngờ đêm hôm đó trời mưa to gió lớn, sấm sét đánh bể tan bia đá kia luôn. Thế là khỏi in ấn gì hết cả!  
        
Số của chàng thư sinh nầy đã xui rồi, lại càng thúi củ hủ hơn nữa, cho nên mới nói là:
                
"Vận khứ lôi oanh Tấn Phúc bi"
        
Khi đã hết thời rồi, thì sấm sét cũng đánh bể bia của chùa Tấn Phúc là vì thế! Trong bài Văn tế Nguyễn Thị Tồn, là hiền thê của mình, cụ Bùi Hữu Nghĩa có viết câu:            
           
Ở theo thời, làm theo thế, qua khỏi tuần SẤM ĐẤT TAN BIA;          
Bay kịp chúng, nhảy kịp thời mới đặng hưởng Gió Thần Đưa Gác.
   
 "Gió Thần Đưa Gác" là Gió thần đưa đến Gác Đằng Vương, đây cũng là một điển tích và là vế đầu của điển tích Sấm Đất Tam Bia với cặp đôi như sau:
             
閣,  Thời lai phong tống Đằng Vương Các          
碑。  Vận khứ lôi oanh Tấn Phúc bi.
 

NHẬN ĐỊNH VỀ HỌC THUẬT PHẬT GIÁO CỦA NHÓM GIAO ĐIỂM – Dương Ngọc Dũng


 
Nhân dịp đọc cuốn Đối Thoại Với Giáo Hoàng Phaolô II do nhóm Giao Điểm biên soạn và xuất bản (1995, Hoa Kỳ), tôi cảm thấy cần phải viết để phê phán tất cả những sai lầm nghiêm trọng đầy rẫy trong một tác phẩm đối thoại với Đức Giáo Hoàng được tiến hành do những người có bằng cấp Ph.D (tiến sĩ) và tự nhận có trách nhiệm phải bênh vực cho Phật Giáo. Những tác giả này chỉ trích sự hiểu biết về Phật Giáo của Đức Giáo Hoàng và nhận định, phê phán toàn bộ triết học tư tưởng Thiên Chúa Giáo một cách ngây thơ nông cạn (có nghĩa là họ lại làm đúng cái công việc mà họ chỉ trích nơi Giáo Hoàng). Ngay cái tựa đề "Đối Thoại" cũng đã sai lầm vì các trí thức Phật Giáo trong nhóm Giao Điểm (ngoại trừ một vài tác giả thực sự có ý định đối thoại) chỉ làm một việc là công kích Thiên Chúa Giáo một cách phiến diện, nông nổi chứ không hề có ý muốn đối thoại trong tinh thần bao dung tôn giáo. Một tác giả trong tuyển tập nói trên (Hoàng Hà Thanh) thậm chí lên giọng chưởi bới Giáo Hoàng là "bố láo. Nói xàm". (sđd:158).
 

Thứ Năm, 2 tháng 3, 2023

PHIẾM LUẬN VỀ CHỮ HƯ – Đỗ Chiêu Đức


Học giả Đỗ Chiêu Đức
 

                                    
thuộc dạng dữ dùng Chỉ Sự để Hội Ý trong CHỮ NHO... DỄ HỌC, theo diễn tiến của chữ viết như sau:
 
            Kim Văn  Đại Triện             Tiểu Triện           Lệ Thư               Dị Thể

Ta thấy:       
Phần Kim Văn Đại Triện gồm có 2 phần: Phần trên là hình tượng của một chiếc rương (hòm) được mở lên phía trên và mở xuống phía dưới; Phần dưới là hình tượng của 2 vách rương được mở sang phải và mở sang trái. Như vậy là chiếc rương đã được mở tung ra (Chỉ Sự) để cho thấy bên trong không có gì cả (Hội Ý). Nên HƯ có nghĩa đầu tiên là Không, là Trống lỏng, không có gì cả! Nên ta có từ kép đầu tiên là:
     
- KHÔNG HƯ 空虚 là Trống lỏng trống lơ, không có gì cả. Đão ngược lại là...
- HƯ KHÔNG 虚空 là Chỉ khoảng không trống trơn không có gì cả; Nghĩa phát sinh là "Khi khổng khi không", chỉ việc làm không có chủ ý, chỉ tình cờ mà thôi, như khi thấy Thúy Kiều đi tìm cây trâm bị mất thì Kim Trọng đã đánh tiếng là:
                    
Thoa nầy bắt được HƯ KHÔNG,                  
Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về.
 

Thứ Sáu, 17 tháng 2, 2023

NHỮNG LUẬN ĐIỂM PHẢN TRÍ THỨC CỦA TRẦN CHUNG NGỌC (GIAO ĐIỂM, HOA KỲ) - Dương Ngọc Dũng

Quyển sách “Đối Thoại Với Giáo Hoàng Gioan Phaolô II” do nhóm Giáo Điểm ấn hành tại Hoa Kỳ năm 1995 đã tạo nên sự xôn xao dư luận trong và ngoài nước. 


Giáo sư Dương Ngọc Dũng, một nhân vật trí thức ngoài Công Giáo hiện đang sinh sống tại Sài Gòn đã viết  tác phẩm “NHẬN ĐỊNH VỀ CÁC TRÍ THỨC PHẬT GIÁO TRONG NHÓM GIAO ĐIỂM HOA KỲ” ấn hành lần đầu tại Sài Gòn cuối năm 1996 để phản bác.

Tác phẩm này của giáo sư Dương Ngọc Dũng đã tạo nên một cuộc bút chiến sôi nổi. Theo giáo sư Dũng thì vào mùa thu năm 1996, sau khi kết thúc học trình về chuyên đề Phật Giáo tại Đại Học Harvard đang chuẩn bị về nước, tình cờ ông được đọc qua cuốn "Đối Thoại... " của nhóm Giao Điểm. Cảm thấy bất bình vì “những lý luận nhảm nhí, cách trình bày vụng về, đầy thâm ý xuyên tạc tràn ngập trong tác phẩm này” nên ông đã phải lên tiếng nhận định.


*
Hiện nay Trần Chung Ngọc là cây bút hung hăng nhất của tạp chí Giao Điểm tại Mỹ. Hình như ông không còn việc làm gì khác hơn là viết bài bút chiến với người khác và cũng không tiếc lời thóa mạ cá nhân bất kỳ ai có can đảm phê bình ông, phê bình thái độ hồ đồ kỳ quặc của ông trong mọi vấn đề liên quan đến tôn giáo. Đọc ông người ta có cảm giác ông có một lòng căm thù vô hạn đối với Thiên Chúa Giáo trong khi vẫn luôn mồm thanh minh rằng mình “không hề có ác cảm với bất cứ ai” và tự so sánh bản thân với Bồ Tát “những người sẵn sàng vén tay áo, sắn ông quần, nhảy vào lửa địa ngục để cứu vớt chúng sinh nặng nghiệp”. Tôi đã viết bài phê bình thái độ hồ đồ và phản trí thức này của TCN, nhưng tác giả họ Trần, trong lúc mù quáng vì phẫn nộ khi bản ngã kiêu căng của mình bị chà đạp đau đớn, đã vùng lên, tung ra những luận điệu còn khó nghe hơn, những luận điệu chỉ cho thấy một người đang quằn quại trong hố sâu mặc cảm. Ông đã đặc ân dành riêng 18 trang của tạp chí Giao Điểm số mới ra gần đây để trút hết hờn giận lên đầu cá nhân tôi, Dương Ngọc Dũng, người đã dám cả gan chọc đến oai hùm “Giao Điểm”.
 

Thứ Tư, 15 tháng 2, 2023

PHẠM CÔNG THIỆN, TRIẾT GIA GIẢ CẦY ĐI CHƯA HẾT ĐÊM HOANG LIÊU TRÊN MẶT ĐẤT - Vũ Ngọc Anh



“Phạm Công Thiện là triết gia”: Nhiều người nói như vậy và xưng tụng như vậy … như: <Trang Nhà Quảng Đức …Cáo bạch Tang Lễ Giáo Sư Triết gia Phạm Công Thiện. HT Thích Trí Chơn…> ...và một Web. lấy tên <Phạm Công Thiện> tôn vinh PCT là “philosopher” = triết gia.
 
Những người say mê, hâm mộ, đệ tử, kẻ xu nịnh, đàn em, bạn bè đều ngó Phạm Công Thiện là một “triết gai”... như một thiên tài... mà người tĩnh trí khác gọi là thiên tai đẻ non!
 
Có cần phải định nghĩa “triết gia là gì?”...” triết gia là ai...ai là triết gia...không?
 
Nếu học đòi ai đó xà quần “là gì” là gì...là gì là gì là gì?...để trở thành triết gia thì tới Tết Congo cũng chưa đi hết một vòng cầu tiêu công cộng!
 
Thôi thì dành cho các vị tung hô PCT là triết gia... họ đưa ra định nghĩa và xác nhận... thì mình ắt rõ!
 
Cho đến hôm nay (8/3/2014) vẫn chưa thấy một gs. triết của đại học nào trên thế giới kể cả Việt Nam trong cũng như ngoài nước nói đến “triết học Phạm Công Thiện” là gì (?).
 

Thứ Hai, 13 tháng 2, 2023

VỀ HIỆN TƯỢNG PHẠM CÔNG THIỆN – Như Hạnh

(Trích bài của Như Hạnh [Pháp danh của Giáo sư Nguyễn Tự Cường], PhD, Harvard University).
 

Nếu có thì giờ mời quý bác đọc trọn bài theo đường link sau:

https://tapchitriet.com/?p=598
 
Đa số những người lớn lên ở Saigon trước 1975 mà có lưu ý đến văn học, triết học thì hẳn cũng nghe đến cái tên Phạm Công Thiện. Theo tôi ông là một scandal [𝑠ự tai tiếng] học thuật đáng tiếc tạo ra bởi một nhóm Phật Giáo. Mà thương thay lại là nhóm elite [𝑡𝑖𝑛𝑙𝑜̣𝑐] của Phật Giáo, tức là nhóm chủ trương Đại Học Vạn Hạnh. Trước đó thì ông có viết báo và xuất bản mấy cuốn sách cũng chẳng ra thể thống gì. Cứ cho ông có credit [𝑡𝑖́𝑛 𝑐𝑖̉] là biết đọc tiếng Anh tiếng Pháp và cũng chịu khó đọc sách. Nhưng vì ông không bao giờ học đại học, ông thuộc loại “tự học miệt vườn”, lại thêm vì sống ở Việt Nam sách vở khan hiếm, cho nên đọc sách không có lớp lang, cuốn đực cuốn cái. Bất cứ cuốn sách ngoại quốc nào ông đọc được thì tác giả đều là “thiên tài”.
 

Thứ Năm, 9 tháng 2, 2023

ÔNG PHẠM CÔNG THIỆN – Gs Nguyễn Văn Trung

Việc ông Phạm Công Thiện phê phán kịch liệt GS. Nguyễn Văn Trung và thái độ im lặng khó hiểu của GS. Nguyễn Văn Trung được coi như một “nghi án” trong đời sống văn chương triết học của Sài Gòn trước 1975. Chúng tôi xin đưa bài viết của GS. Nguyễn Văn Trung đăng trên trang Thông Luận năm 2007 để làm rõ một vấn đề có liên quan, và cũng là “trả hết cho đời” những thị phi về những con người có ảnh hưởng lớn trong đời sống trí thức Sài Gòn trước đây, hiện họ đều cùng không còn trên “cõi người ta” nữa... 

Bài viết về Phạm Công Thiện là bài số 4 trong một loạt 7 bài viết dưới chủ đề “Nhìn Lại Những Chặng Đường Đã Qua” mà Gs Nguyễn Văn Trung viết từ năm 2003 ở Montréal và San Jose, sau được Thông Luận đưa lên năm 2007.

Giáo sư Nguyễn Văn Trung


        ÔNG PHẠM CÔNG THIỆN
                                                          Giáo sư Nguyễn Văn Trung
 
Tôi nhìn lại “Những chặng đường đã qua” trong tinh thần cố gắng nhận ra trách nhiệm về phân minh những gì tôi đã viết, đã làm là đúng hay sai, đã gây hiểu lầm, phiền lòng, xúc phạm đến người khác hay đến những niềm tin xác tín của họ bất kể là thế nào. Trong ý hướng đó, tôi cũng nhận ra trách nhiệm của mình về những gì tôi đã không làm, những vụ đáng lẽ phải làm vì trực tiếp liên hệ đến tôi và trong tầm tay, khả năng của tôi. Tôi xin nói một trường hợp thôi, trường hợp Phạm Công Thiện.
 

PHẠM CÔNG THIỆN PHÊ NGUYỄN VĂN TRUNG – Theo Nhị Linh

Trước năm 1975, giới văn học nghệ thuật xôn xao về vụ “thiên tài nổi loạn” Phạm Công Thiện xuất bản cuốn “Hố thẳm tư tưởng”, dành một chương phê phán luận án tiến sĩ của giáo sư Nguyễn Văn Trung với một thái độ khinh bỉ, trịch thượng, mạt sát thậm tệ. Cuốn sách bán chạy, dư luận bàn tán sôi nổi. Sau đó, một nhóm phật tử Huế trích chương này thành cuốn sách nhỏ in vào mùa hè năm 1973. Xin mời đọc bài viết của Nhị Linh



        PHẠM CÔNG THIỆN PHÊ NGUYỄN VĂN TRUNG 
                                                                            Theo Nhị Linh
                
           
                          
Nhân nói chuyện này xọ chuyện kia, đề cập Phạm Công Thiện ngày sanh của rắn, tôi muốn lôi trở lại một văn bản ngày nay gần như tuyệt mệnh giang hồ, đúng số phận như tập thơ của Phạm Công Thiện, Ngày sanh của rắn bản in đầu (in số lượng hạn chế bên Pháp) gần như chưa ai nhìn thấy bao giờ.
 
Văn bản này (đúng ra là một bài viết cỡ 30 trang) mang tên Phê bình luận án tiến sĩ triết học của Nguyễn Văn Trung, không rõ viết và phát hành lần đầu năm nào nhưng được một nhóm phật tử Huế tái bản thành cuốn sách nhỏ in mùa hè năm 1973, ở "Lý do" đặt đầu sách có viết là không liên lạc được với tác giả nên cứ in ra như vậy.
 

Thứ Bảy, 7 tháng 1, 2023

BÍ MẬT HÀN MẠC TỬ (KỲ 5): THÁNG NĂM HÀNH NGHỀ “NÓI LÁO” - Phanxipăng

               Kỳ 5: THÁNG NĂM HÀNH NGHỀ “NÓI LÁO”
 
Chân dung nhà thơ, nhà báo Hàn Mạc Tử.
Tranh acrylic: Nguyễn Hồng Lam

 Dân gian thường bỡn cợt: “Nghề báo nói láo ăn tiền”. Ấy thế mà trước nay khá đông người rất thèm lao vào cái nghề gọi là “nói láo”, để rồi ngẫm ra rằng “làm báo khó thay!”. Trong số này có thầy đạc điền Nguyễn Trọng Trí tức Hàn Mạc Tử.

Thứ Bảy, 10 tháng 12, 2022

BÍ MẬT HÀN MẠC TỬ (KỲ 4): THẦY KÝ QUÈN - Phanxipăng

                                  Kỳ 4: THẦY KÝ QUÈN


“Mất cơ hội đi Pháp, mộng viễn du không thành, (...) anh trở về Quy Nhơn sống với gia đình, rồi tiếp tục làm thơ viết báo. Bạn bè ngày càng kết giao nhiều, xa cũng như gần, nhờ tiếng tăm anh được Mộng Du thi xã nhắc đến trang trọng...”. Đó là hồi ức của ông Nguyễn Bá Tín về anh ruột mình - nhà thơ Hàn Mặc Tử - in trong Hàn Mặc Tử trong riêng tư (tr.30). Thời điểm này năm 1932, kinh tế Đông Dương gặp cơn khủng hoảng, cả nhà Hàn chỉ một mình trưởng nam Nguyễn Bá Nhân “chèo chống” nên không tránh khỏi khó khăn. Hàn tính chuyện đi làm để giảm bớt gánh nặng cho gia đình. Lúc ấy, ở Quy Nhơn, người gốc Huế định cư khá đông, trong số đó có thầu khoán Đỗ Phong. Ông Phong giới thiệu Hàn một chân tập sự tại Phòng Địa chính Quy Nhơn trực thuộc Sở Địa chính tỉnh Bình Định - dân gian bấy giờ vẫn quen gọi là Sở Đạc điền. Hàn được phân công làm thư ký công nhật ở bộ phận bảo tồn điền trạch. Theo ông Tín, đấy là “cái việc dễ nhất, nhàn nhất và...ít tiền nhất là ngồi biên chép các tờ trích lục đã cũ, lãnh lương về chỉ đủ anh trả tiền mua báo, mua giấy và tem thư” (sđđ, tr. 31). Văn phòng làm việc mà gian nhà mà ngày nay đã trở thành tịnh xá Ngọc Nhuận, số 54 đường Ngô Quyền, Quy Nhơn.
 
Phòng Địa chính Quy Nhơn, nơi Hàn làm việc một thời, nay là tịnh xá Ngọc Nhuận. Ảnh: Trần Hoa Khá

Thù lao nhận theo chế độ “khoán sản phẩm”, song công việc lúc có lúc không nên đương nhiên thừa thì giờ mà thiếu... tiền bạc. Dẫu sao, cũng là viên chức nhà nước, Hàn vẫn được gọi thầy kí đạc điền!
 

Thứ Năm, 1 tháng 12, 2022

BÍ MẬT HÀN MẠC TỬ (KỲ 3): THỜI HỌC SINH GẬP GHỀNH THƠ MỘNG - Phanxipăng


 
Kỳ 3: THỜI HỌC SINH GẬP GHỀNH THƠ MỘNG

Thời học sinh của Hàn Mạc Tử trải qua 3 địa phương: Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Huế. “Lần đầu tiên Nguyễn Trọng Trí cắp sách đến trường là tại Quảng Ngãi”. Trần Thanh Mại, tác giả cuốn Hàn Mạc Tử, đã ghi nhận như vậy. Ông Bá Tín, qua hồi kí Hàn Mạc Tử anh tôi, còn kể chi tiết hơn:
 
“Chúng tôi rời Đồng Hới năm 1921, theo cha vào Quy Nhơn, trở ra Bồng Sơn, lại trở về Quy Nhơn năm 1924 thì đổi ra Sa Kỳ, một sở thương chánh lớn, cách thị xã Quảng Ngãi 12 km [thực địa thì hơn 20 km - chú thích trong móc vuông là của Phanxipăng]. Trong thời gian gia đình hay đổi dời dọc theo các cửa biển, việc học hành của chúng tôi đã bị gián đoạn. Về Quảng Ngãi mới vào học trường công lập anh Trí học lớp ba, tôi học lớp tư [tương đương lớp 2 bây giờ]. Khi còn ở Quy Nhơn, anh rất thích bắn ná cao su và bắn rất hay.(...). Trong những năm học ở Quảng Ngãi, anh không thèm bắn ná cao su nữa, mà lại rất thích bắn súng. Hai anh em ở trọ nhà dượng tôi, trong nhà cũng có một khẩu Flaubert, thứ súng bắn chim như của cha tôi. Anh trông thấy thèm lắm, nhưng không dám hỏi. Vì vậy, cứ thứ năm, chủ nhật, là kéo tôi cùng về Sa Kỳ, để cha tôi phát cho mỗi đứa 3 viên đạn, mà phải đi bộ 12km, phải qua một chuyến đò, băng qua một động cát dưới trời nắng chang chang. (...). Về sau, bài văn xuôi Chơi giữa mùa trăng, anh viết về chợ Chua Me [dân quanh vùng vẫn gọi Châu Me], là động cát này. Địa phương gọi là động, một vùng rộng lớn, cát trắng phau, thứ cát ánh ngời như mảnh pha lê vụn, trải dài 4 - 5km bên bờ đại dương (...). Sau khi cha tôi mất đi, tháng 7-1926, gia đình tôi dọn về Quy Nhơn ở với anh Mộng Châu. Hai chúng tôi cùng vào học trường trung Quy Nhơn [Collège de Quinhon, thành lập 1921, thực tế gồm cả tiểu và trung học, tên tiếng Việt bấy giờ là Cao đẳng tiểu học Quy Nhơn, sau thành Quốc học - Quy Nhơn, nay là trường THCS Lê Hồng Phong]. Đến lớp nhất [tương đương lớp 5 bây giờ], anh Trí ra Huế học Pellerin” (trích cảo bản đánh máy, tr. 6-8).
 

Thứ Năm, 17 tháng 11, 2022

BÍ MẬT HÀN MẠC TỬ (KỲ 2): NGUYỄN TRỌNG TRÍ PHẢI CHĂNG GỐC HỌ...NGUYỄN? - Phanxipăng



Kỳ 2: NGUYỄN TRỌNG TRÍ PHẢI CHĂNG GỐC HỌ...NGUYỄN?

Vấn đề gia thế của Hàn Mạc Tử cũng tồn tại lắm ly kỳ, uẩn khúc, không dễ gì tỏ tường sớm một chiều!
 
Hàn thi sĩ có họ tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 - 9 - 1912 tại làng Lệ Mỹ, tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình; nay là phường Đồng Mỹ, thị xã Đồng Hới, Quảng Bình; trong một gia đình Kitô giáo. Thân phụ của nhà thơ là ông Nguyễn Văn Toản, bấy giờ làm công chức ngạch thông Phán (cardre secondaire) ở đấy nên thường được mọi người gọi là “thầy thông Toản” hoặc “thầy Toản”. Thân mẫu là Nguyễn Thị Duy, một phụ nữ Huế, con gái thứ 9 của ngự y Nguyễn Long, người gốc Trà Kiệu (Quảng Nam) và ở Vạn Xuân - vùng đất thuộc mạn bắc sông Hương, nằm cạnh kinh thành Huế.
 

Thứ Năm, 3 tháng 11, 2022

PHẠM CÔNG THIỆN: MỘT HIỆN TƯỢNG VĂN HỌC Ở MIỀN NAM TRƯỚC 1975 - Nguyễn Thanh

Từ những năm đầu của thập niên 1960, ở các đô thị miền Nam trước 1975 xuất hiện nhiều hiện tượng xã hội: – Xuống đường biểu tình xuất phát từ trường học, – ‘Yêu cuồng sống vội’, ảnh hưởng từ những tác phẩm hiện sinh (Existentialisme) của những nhà văn Pháp: J. Paul Sartre (Nausée – Buồn nôn), Simoine De Beauvoir (L’Invitée – Vị khách mời), Albert Camus (L’Étranger – Kẻ xa lạ)… – Và hiện tượng văn học khu biệt trong văn nghệ như: Nguyễn Đức Sơn (sinh 1937), Bùi Giáng (1921-1998), Phạm Công Thiện (1941-2011), cả ba đều là nhà thơ. Với Phạm Công Thiện, ông còn là giáo sư, nhà văn viết sách văn học, triết lý và cư sĩ Phật giáo… nên ông được coi là một hiện tượng văn học đặc biệt với câu nói nổi tiếng trong tùy bút “Viết là đâm nổ mặt trời” (Trời tháng Tư)
 

Trong môi trường văn chương miền Nam thời tạm chiếm, từ năm 1954, có một số nhà thơ nổi tiếng sinh ra trước sau thập niên 1940: Thanh Tâm Tuyền (1936-2006), Du Tử Lê (1942-2019), Tô Thùy Yên (1938-2019)… và Phạm Công Thiện. Tiêu biểu cho thế hệ đàn anh trước đó thì: Vũ Anh Khanh (1926-1956), Kiên Giang (1929-2014), Đinh Hùng (1920 – 1967), Vũ Hoàng Chương (1916-1976). Trong số đó, Phạm Công Thiện được coi là một hiện tượng thi ca khá đặc biệt bên cạnh Bùi Giáng (1926-1998) và Nguyễn Đức Sơn (1937-2020).